Thánh Tôma dạy: “Làm cho người dữ dằn trở nên hiền lành và người có tội trở nên thánh là việc quan trọng và khó khăn nhất, chỉ có ai được ơn Chúa giúp sức mới làm được việc ấy”.
Cha Gioan có ơn Chúa giúp nên đã làm các việc ấy từ khi cha mới chịu chức linh mục cho đến khi qua đời, và cha làm việc ấy cách cẩn thận chu đáo, vì từ xưa tới nay không có mấy vị thánh làm cho nhiều người tội lỗi ăn năn trở lại với Chúa cho bằng cha Gioan. Cha luôn ước ao mong mỏi người có tội ăn năn trở lại, cha luôn tìm phương cách để người có tội ăn năn trở lại và sống nhân đức, cha dùng hết mọi tài năng, sức lực của mình mà làm việc đêm ngày, không tiếc công, chẳng quản khó nhọc.
Cha luôn nhắc nhở:
- Chúng ta phải cầu nguyện cho người có tội ăn năn trở lại, vì người lành, người nhân đức được hưởng nước thiên đàng, các linh hồn nơi luyện ngục sớm muộn cũng sẽ lên thiên đàng, còn người tội lỗi sẽ sa hỏa ngục nên chúng ta phải siêng năng cầu nguyện cho họ được ăn năn trở lại. Nếu chúng ta siêng năng cầu nguyện cho họ, chúng ta sẽ cứu được nhiều linh hồn không kể xiết. Các việc lành phúc đức chúng ta làm với ý ngay lành thì đẹp lòng Chúa lắm và sinh công phúc cho mình, nhưng chẳng có mấy việc tốt lành làm sáng danh Chúa và làm ích cho người ta bằng lời cầu nguyện cho người có tội.
Chính cha Gioan làm gương trong việc cầu nguyện cho người có tội và lúc nào cũng thúc dục mọi người, nên người có tội ở khắp tứ phương thiên hạ kéo đến Ars quanh năm. Có một người đạo đức, quê ở xứ Ars, đã chứng kiến và ghi chép các việc cha làm, ông nói:
- Cha luôn cầu nguyện đêm ngày cho người có tội, nên như có ơn Chúa bắt ép người có tội phải tìm đến cha. Bình thường thì chủ chiên phải đi tìm con chiên lạc để đem về nẻo chính đường ngay, nhưng cha Gioan không phải đi tìm ở đâu hết, chính Chúa soi trí mở lòng cho họ tìm đến với cha, vì cha luôn cầu nguyện cho người có tội.
Cha luôn lo liệu cho người có tội được ăn năn trở lại, ngài luôn khao khát cho họ ăn năn đến nỗi chính ngài có lần nói:
- Lạy Chúa nếu đẹp lòng Chúa, con không muốn lên thiên đàng bây giờ, con xin ở lại thế gian này cho đến tận thế để giúp người có tội được ăn năn trở lại.
Cha luôn tạ ơn Chúa vì đã thương yêu, tuyển chọn cha để lo liệu cho người có tội ăn năn trở lại. Cha làm việc ấy hết sức tận tụy không ngại khó nhọc, không những cha không kiêu hãnh mà lại lấy việc ấy để hạ mình xuống, cha nói:
- Thiên Chúa vẫn dùng những người yếu đuối, thấp hèn để làm những việc Người đã định. Thiên Chúa dùng tôi để cứu lấy linh hồn người có tội vì tôi hèn mạt, dốt nát hơn các linh mục khác. Nếu Chúa tìm được linh mục nào kém tài và dốt nát hơn tôi thì Người đã chọn người ấy, chẳng chọn tôi đâu. Nhưng vì không có linh mục hèn hạ, dốt nát như tôi nên Người đã chọn tôi.
Không ai có thể tính hết số người có tội mà cha Gioan đã cứu được. Hai năm trước khi qua đời, cha nói với một linh mục nọ:
- Không ai có thể biết bao nhiêu người có tội đã ăn năn trở lại ở xứ Ars này, chỉ tới ngày phán xét thiên hạ mới biết được điều đó.
Có ngày nhiều, có ngày ít, mỗi ngày cha giải tội hơn kém một trăm người, vậy mỗi năm cha giải tội được ba mươi sáu ngàn năm trăm người, và cha giải tội hơn ba mươi năm, như thế cha cứu được nhiều người có tội biết chừng nào. Chưa có linh mục nào giải tội nhiều bằng cha Gioan.
Có đủ mọi hạng người tìm đến với cha Gioan. Có người ngay lành, có ý xưng tội và thật lòng ăn năn trở lại cùng Chúa, vì nghe tiếng cha Gioan nhân đức, có lòng thương yêu người có tội nên tự ý tìm đến xưng tội. Cha không phải khó nhọc, không tốn công khuyên bảo những người như thế, vì cha thấy họ xưng tội cách khiêm nhường và ăn năn thống hối tội mình. Cha rất thương họ và lấy lời hiền lành, sốt sắng mà an ủi khuyên bảo, nhiều khi cha khóc lóc với họ rồi ban phép xá giải. Người nào xưng xong và nghe lời cha khuyên bảo rồi thì vui mừng, nhẹ nhàng.
Có một người khi xưng tội xong, thấy lòng mình mừng rỡ hân hoan nên nói với cha:
- Thưa cha, con xưng tội với cha xong tâm hồn con vui mừng quá, nếu như có ai cho con một ngàn quan con cũng không vui bằng.
Khi cha thấy người xưng tội không tỏ vẻ ăn năn, cha khuyên bảo thiết tha sốt sắng, làm cho tâm hồn những người ấy xúc động, nhiều khi cha vừa khuyên vừa khóc.
Hôm đó, cha Gioan giải tội cho một người khô khan. Cha không thấy ông tỏ vẻ gì ăn năn, lòng cứ trơ như đá, nên động lòng thương cha bật khóc. Ông thấy cha khóc, ngạc nhiên nên hỏi:
- Thưa cha, sao cha khóc?
Choa Gioan đáp:
- Cha khóc vì thấy con tội lỗi nhiều quá mà chẳng ăn năn, chẳng khóc.
Ông ấy thấy cha nói thế thì xúc động, ăn năn trở lại.
Những tín hữu bình thường và đạo đức, không có ngăn trở, không có điều gì đau khổ phần hồn, phần xác, không có việc gì riêng thì không mấy khi cha Gioan giải tội cho những người ấy, một phần vì cha vội, phần vì không có gì cần nên cha bảo họ đi xưng tội với một linh mục khác.
Có một người đến xứ Ars, không có ý xưng tội, không có lòng ăn năn trở lại, ông ấy chỉ đến để chiều lòng vợ con thôi. Vì người vợ nghĩ, “Chồng mình khô khan, không đọc kinh cầu nguyện, bỏ xưng tội rước lễ lâu năm. Cha Gioan có ơn riêng Chúa ban, có tài khuyên nhủ người có tội cứng lòng, nên phải rủ chồng mình đến xứ Ars, may ra anh ấy ăn năn trở lại”. Hoặc có người nghe tiếng cha Gioan có tài chữa được mọi bệnh tật thì hồ nghi không tin, nên đến xứ Ars để xem cho biết thực hư thế nào. Sau hết, có nhiều người xấu nết ghét đạo, ghét các linh mục nên nói liều: “Cha xứ Ars chẳng làm được phép lạ, chẳng qua cha chỉ dùng xảo thuật để bịp dân quê”, nên họ đến để bắt lỗi cha. Nhưng khi đến nơi, không những không bắt được cha Gioan lỗi gì mà lại bị cha Gioan bắt được, nghĩa là cha lo cho họ được ăn năn trở lại cùng Chúa.
Khi những người ấy vào nhà thờ xứ Ars, nhìn thấy dung mạo và toàn thân cha Gioan như toát ra hương thơm thánh thiện nên họ đổi ý thay lòng, biết thật là cha chẳng làm phù phép hay mưu chước gì lừa ai. Họ hỏi thăm các điều về cha, biết các việc cha làm, cách cha ăn ở, nhìn cha dâng lễ, nghe cha giảng cùng thấy mọi người đón rước cha, từ nhà ra nhà thờ và từ nhà thờ về nhà, thấy cha khiêm nhường hiền lành, hòa nhã, yên ủi thương xót mọi người, họ lấy làm lạ và vui thích muốn ở lại lâu. Mới đầu họ tưởng chỉ lưu lại một hai ngày, nhưng sau ở lại bốn năm ngày, có khi cả tuần lễ. Khi thấy mọi người tranh nhau xưng tội với cha Gioan, họ cũng bắt chước mà xưng tội với cha. Khi đã xưng tội và ăn năn trở lại với Chúa, trở về nhà họ mừng rỡ vui vẻ kể cho mọi người nghe những gì mình xem thấy và hết lời ngợi khen nhân đức cha xứ Ars.
Cha Gioan đã giải tội lâu năm, giải tội cho đủ mọi hạng người, nên ngài từng trải lắm. Cha thấu suốt lòng người, biết người ta hay phạm những tội lỗi gì và nết xấu nào. Người ta nói ít, cha hiểu nhiều, chẳng cần phải hỏi lại nên cha giải tội mau và nhiều người. Hơn nữa, Chúa đã ban cho cha Gioan ơn mà Người đã ban cho Thánh Vincentê khi xưa: “Khi trông thấy ai thì đã biết mọi sự bí mật trong lòng người ấy”.
Nhìn người nào, chúng ta chỉ biết hình dáng, mặt mũi người ấy thôi, nhưng cha Gioan còn biết cả mọi sự trong lòng người ấy. Cha còn biết linh hồn đó sạch tội hay có tội, được bằng an hay lo lắng bối rối. Không có gì bí ẩn trong tâm hồn mà cha không biết.
Thỉnh thoảng, một hai lần trong ngày, cha ở tòa giải tội hay ở phòng áo nhìn ra những người ngồi trong nhà thờ, rồi ra hiệu cho gọi người nọ, người kia vào tòa giải tội. Những người mà cha gọi như thế thường họ có nhiều việc cần kíp, không đợi lâu được, hoặc là người tội lỗi và đang gặp đau khổ buồn phiền. Cha trông thấy và biết người ấy đang gặp đau khổ, đáng thương nên gọi họ vào tòa giải tội trước.
Có người khi xưng tội quên tội nọ, giấu tội kia vì mắc cỡ, cha bảo người ấy: “Con xưng tội chưa hết, còn tội kia con phạm năm ấy, ở nơi đó.” Có người cứng lòng, không chịu xưng ra các tội đã phạm thì cha kể ra trước mặt người ấy những tội trọng mà họ đã phạm từ khi còn bé khiến người ấy phải thú nhận. Có khi cha chỉ nhìn người ấy một lúc, họ cúi đầu vâng phục cha, không thể cưỡng lại được.
Ngày xưa, khi Thánh Phêrô vừa mới chối Chúa xong, thấy Chúa quay nhìn mình, Thánh Phêrô liền ăn năn khóc lóc tội lỗi mình, Chúa cũng ban cho đôi mắt cha Gioan có sức mầu nhiệm làm cho người có tội động lòng ăn năn trở lại như vậy. Nhiều người tội lỗi cứng lòng, quyết không ăn năn trở lại, nhưng khi cha Gioan nhìn đến người ấy và họ nhìn cha, ánh mắt đôi bên vừa gặp nhau thì người ấy đổi ý ngay lập tức và quyết tâm ăn năn trở lại cùng Chúa.
Không thể nào kể hết những người có tội mà cha Gioan đã khuyên bảo ăn năn trở lại, cũng như cha đã cứu họ khỏi sa hỏa ngục. Sau đây là một vài tích.
Trong những người cha khuyên bảo ăn năn trở lại có một bà theo Tin Lành, nổi tiếng kiêu ngạo. Bà nghe danh tiếng cha Gioan nên đến xứ Ars vào dịp lễ sinh nhật Đức Trinh Nữ. Bà đi thẳng vào nhà thờ, không đọc kinh cầu nguyện, không trông lên bàn thờ, hai mắt chỉ xem cha dâng lễ và giảng. Đến chiều người ta thấy bà vào tòa giải tội. Những người xứ Ars và các miền chung quanh đều biết bà theo Tin lành và kiêu ngạo cứng lòng lắm, nên họ để ý xem cha Gioan có khuyên bà ấy ăn năn trở lại được không. Bà ấy vào tòa giải tội một lúc lâu rồi đi ra. Hai ba ngày sau lại thấy bà ấy vào tòa giải tội, nhưng sau đó không thấy bà lên rước lễ. Họ nghi ngờ không biết bà ấy có bỏ đạo Tin lành mà ăn năn trở lại không.
Sau một tuần lễ, mọi người thấy bà ấy lên rước lễ. Nhờ ơn Chúa soi trí mở lòng, cũng như nhờ cha Gioan khuyên bảo và cầu nguyện, bà ấy đã thay đổi trở nên khiêm nhường thật, bà bỏ đạo Tin Lành, tin mọi điều Giáo Hội dạy và yêu mến Chúa còn hơn các tín hữu cũ nữa. Anh chị em bà và người nhà bà theo đạo Tin lành, khi thấy bà trở lại đạo Công giáo thì căm ghét bà ấy nên bà phải bán nhà cửa ruộng nương ở quê quán đến mua đất làm nhà ở làng Ars. Sau đó, bà sống như một người tín hữu ngoan đạo, nêu gương sáng cho mọi người, và qua đời trong sự thánh thiện.
Một người Pháp tên Mai, nhà vốn đạo gốc nhưng ông chỉ xưng tội có một lần khi còn bé mà thôi, một phần là do cơn loạn lạc cấm đạo, một phần bởi cha mẹ chết sớm nên không ai chỉ bảo. Khi trưởng thành, sang nước Ai cập, ông Mai bỏ Công Giáo theo Do Thái Giáo. Khi trở về quê hương ông bỏ Do Thái Giáo mà đi theo lạc giáo. Ông là người thông minh, trí khôn sắc sảo, nổi tiếng thông thái vào thời ấy. Sau khi theo người bạn cũ đến xứ Ars, ông được ơn ăn năn trở lại. Ông kể chuyện trở lại của ông như sau:
”Tôi ở thành phố Lyon đã tám ngày, hôm đó tôi lên xe lửa có ý đến tỉnh kia vì có công việc. Trên xe lửa tôi gặp một người bạn cũ rủ tôi đi đến Ars, ông ấy nói:
- Bác đi với tôi đến xứ Ars nhé, vì tôi nghe nói cha xứ ấy là người có nhân đức lạ lùng và làm được nhiều phép lạ.
Tôi nói ngay:
- Tôi không tin đạo, cũng không tin ai làm được phép lạ.
Ông ấy bảo tôi:
- Anh cứ đến xem thử, không những là anh tin đạo mà còn thấy cha xứ làm được phép lạ nữa.
Tôi đáp:
- Tôi đố cha xứ Ars làm cho tôi tin và trở lại đạo. Nếu cha làm được điều đó, tôi sẽ tin cha làm được phép lạ. Làng Ars nhỏ bé và nghèo nàn chẳng có gì lạ, chẳng có gì hay mà phải xem. Nhưng tôi sẽ đi để ông vui lòng và xem cha xứ Ars làm phép lạ như thế nào.
Đến xứ Ars, tôi và người bạn cùng trọ một nhà, ở chung một phòng. Sáng sớm, người bạn đánh thức tôi và nói:
- Tôi rất muốn được dự lễ của cha xứ Ars. Anh vui lòng vậy.
Tôi đáp:
- Từ khi chịu lễ lần đầu tới giờ, tôi chưa bao giờ dự lễ nữa và tôi cũng chẳng muốn dự lễ làm gì. Ông bảo làm việc gì khác, tôi sẵn lòng làm ngay, còn việc này thì tôi xin kiếu.
Người bạn tôi dỗ dành:
- Nếu anh không muốn dự lễ vì yêu mến Chúa thì ít ra anh hãy dự lễ để vui lòng tôi. Vì tôi ước mong điều này từ lâu lắm. Xin anh hãy đi với tôi, tôi sẽ liệu cho anh chỗ đàng hoàng và tiện thể anh được nhìn thấy cha Gioan rõ ràng.
Tôi trả lời:
- Tôi không thèm dự lễ, không thèm xem cha xứ Ars, tôi chỉ đi cho ông vui lòng thôi.
Khi tôi vào nhà thờ, người bạn dành cho tôi một ghế nhìn về hướng phòng áo. Tôi mới ngồi được một lúc thì thấy phòng áo mở ra, và cha Gioan, cha chính xứ mặc áo lễ đi ra nhà thờ dâng lễ. Lúc cha đi ngang qua tôi, cha nhìn tôi và tôi nhìn cha. Hai ánh mắt vừa chạm nhau, tôi vội cúi xuống không dám nhìn nữa. Đôi mắt cha như thấu suốt tâm can tôi, nên tôi xấu hổ lấy tay che mặt đi. Suốt giờ lễ, thân xác tôi quỳ yên như tượng các thánh trên bàn thờ, không động đậy một chút nào, nhưng lòng tôi xôn xao bối rối quá sức, không sao diễn tả được.
Khi lễ vừa xong, tôi đứng lên ra về. Lúc đi ngang qua cửa phòng áo, tôi nghe tiếng cha xứ bảo mọi người ngồi trong phòng áo:
- Xin các ông các bà ra khỏi đây.
Vừa nói cha vừa bước ra cầm tay tôi dắt vào phòng áo và đóng cửa lại. Bấy giờ, trong phòng áo chỉ có một mình tôi và cha Gioan. Cha vẫn nắm tay tôi cách hiền lành thương xót, còn tôi cứ cúi mặt xuống, không dám ngẩng lên nhìn mặt cha. Được một lúc, tôi thưa với cha:
- Thưa cha, lòng con xôn xao bối rối quá sức như có một gánh nặng đang đè trên con.
Bấy giờ, cha lấy lời dịu dàng mà nói với tôi:
- Con hãy vất gánh đó đi. Con hãy bỏ gánh đó lại đây. Hãy quỳ xuống xưng tội. Chúa Giêsu sẽ cất gánh nặng trên mình con. Người sẽ yên ủi và ban bằng an cho con như lời Người đã phán: “Hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng hãy đến cùng ta, vì ta sẽ bổ sức và nâng đỡ cho”.
Tôi nghe những lời dịu dàng đầy thương xót đó thì bớt bối rối và sợ hãi. Tôi quỳ xuống dưới chân cha xưng thú hết mọi tội lỗi. Xưng tội xong, tôi thấy nhẹ nhàng, tâm hồn bằng an ngay lập tức. Cha yên ủi tôi và bảo:
- Con hãy tĩnh tâm chín ngày, xin Thánh Philomena cầu bầu cho con được ăn năn trở lại thật lòng.
Lúc xưng tội tôi không hề khóc, vậy mà khi vừa sấp mình xuống trước bàn thờ Thánh Philomena tôi khóc nức nở. Càng khóc bao nhiêu thì tâm hồn tôi càng thanh thản bình an bấy nhiêu.
Ông Mai vâng lời cha Gioan tĩnh tâm đúng chín ngày, sau đó ông xưng tội và chịu lễ. Ông nói:
- Từ khi có trí khôn đến nay, tôi chưa bao giờ cảm thấy bình an và vui sướng như lúc này.
Vì ông Mai là người nổi tiếng thông thái nên khi ông ăn năn trở lại ở xứ Ars, mọi người đều biết. Sau khi đã ăn năn trở lại, ông trở về quê quán, bỏ hết mọi việc đời, chỉ chuyên lo đọc kinh cầu nguyện, làm việc lành phúc đức, được hai năm thì ông qua đời bình an.
Năm 1852, một họa sĩ rất khô khan tên là Phanxicô không hề đọc kinh dự lễ, hầu như ông đã bỏ đạo. Một người bạn rủ ông đến xứ Ars:
- Người ta đồn cha xứ Ars giải tội suốt ngày đêm, làm phép lạ chữa các bệnh tật, chúng ta hãy đi xem có thật không?
Phanxicô nhạo bạn mình:
- Hay anh có ý đi xưng tội chứ gì?
Người bạn đáp:
- Tôi đi xưng tội cũng được, vì tôi vẫn quen xưng nên chẳng ngại gì.
Phanxicô đáp:
- Anh muốn xưng kệ anh. Khi anh xưng tội, tôi sẽ đi săn.
Ngày hôm sau, hai người lên xe đến xứ Ars. Phanxicô đem theo súng và chó như chuẩn bị đi săn. Hai ông đến xứ Ars vào giữa trưa, đúng lúc ấy cha Gioan từ nhà thờ về nhà xứ. Hai ông thấy rất đông người quỳ chật hai bên đường đi, người hôn áo, người hôn tay, xin cha chúc lành. Cả hai thấy lạ nên đến gần để xem cho rõ. Cha Gioan ngước nhìn Phanxicô và con chó, cha nói:
- Con chó của ông đẹp lắm. Phải chi linh hồn của ông cũng đẹp như nó.
Cha chỉ nói bấy nhiêu rồi tiếp tục đi và chúc lành cho mọi người. Nhưng lời cha nói chẳng khác gì như gươm sắc đâm qua tâm hồn Phanxicô. Nghe lời ấy, ông xấu hổ cúi mặt xuống, trong lòng bối rối sợ hãi, chẳng còn nghĩ gì đến chuyện săn bắn, ăn uống chơi bời nữa. Ông vào nhà thờ đọc kinh cầu nguyện. Tối hôm ấy, ông vào tòa xưng tội, ăn năn khóc lóc về tội lỗi của mình. Sau khi đã ăn năn trở lại, ông về nhà thu xếp mọi việc, xin vào một dòng tu để đọc kinh cầu nguyện và hãm mình đền tội trong suốt quãng đời còn lại. Sau ba mươi sáu năm tu dòng, ông qua đời trong sự thánh thiện, năm 1888.
Một người kia cứng lòng, chẳng những không tin, không giữ đạo mà còn phỉ báng, nói xấu đạo, cho rằng các linh mục chỉ bày vẽ để lừa dối dân quê kiếm tiền. Vợ con anh ta thì sốt sắng ngoan đạo. Anh làm ngơ cho vợ con mình đọc kinh, xưng tội, chịu lễ vì nghĩ rằng tôn giáo chỉ dành cho đàn bà và trẻ con mà thôi, còn đàn ông có địa vị, có học thức mà đọc kinh lần hạt như đàn bà trẻ con thì không hợp, không đáng làm. Khi anh nghe cha Gioan làm phép lạ chữa lành nhiều người bệnh tật và khuyên bảo được nhiều người ăn năn trở lại, anh cho là cha phù phép, có bùa mê hoặc người ta và mưu mánh đánh lừa dân ngu.
Năm ấy, vợ anh rủ đến xứ Ars, anh bằng lòng đi ngay vì nghĩ là có dịp để nhạo cười những người có đức tin và những người đạo đức. Đến xứ Ars, anh vào nhà thờ như đi xem hát, không tỏ ra một chút tôn kính nào. Khi thấy nhiều người quỳ chật cả nhà thờ, họ đọc kinh lần hạt sốt sắng, chen nhau vào tòa giải tội, anh lấy làm khó chịu và khinh dể những người ngu đần và càng trách móc cha xứ Ars là đã lừa dối thiên hạ quá sức.
Đang khi anh đi đi lại lại quan sát mọi việc trong nhà thờ, cha Gioan ở trong tòa giải tội nhìn ra trông thấy anh, ngài ra dấu gọi anh đến gần và bảo hãy theo cha vào phòng áo. Anh lấy làm lạ, không biết cha có ý gì nhưng vẫn đi theo. Khi vừa vào phòng áo, cha Gioan vừa nói vừa ra dấu bảo anh quỳ xuống xưng tội, nhưng anh không quỳ, cứ đứng như thế mà nói với cha:
- Tôi không tin, tôi không xưng tội.
Nhưng đôi mắt cha Gioan cứ nhìn chăm chú vào anh khiến anh phải quỳ xuống. Cha Gioan thấy anh đã vâng lời thì kể cho anh nghe tất cả những tội anh đã phạm, bao nhiêu lần, ở nơi nào. Anh nghe cha kể ra hết các tội mình đã phạm cách rõ ràng thì quá bỡ ngỡ và ngạc nhiên. Ngay lúc ấy, ơn Chúa tác động và vì lời cha Gioan cầu nguyện, anh xưng thú tất cả tội phạm với lòng thống hối, đau đớn và thật sự dốc lòng chừa. Khi anh đã xưng tội và làm các việc đền tội xong, lúc đứng lên ra về, cha Gioan bảo anh phải luôn luôn giữ tâm hồn trong sạch vì không bao lâu nữa anh sẽ chết. Việc ấy xảy ra đúng như lời cha Gioan đã báo trước. Sau đó một năm, anh bị chết bất ngờ không kịp lãnh nhận các bí tích sau cùng. Người vợ thấy chồng mình chết bất ưng, sợ rằng chồng mình không được rỗi linh hồn, nhưng khi gặp cha Gioan, ngài nói:
- Con hãy yên lòng, chồng con đã được rỗi linh hồn nhưng đang còn ở luyện ngục. Con hãy chịu khó làm việc lành để cứu linh hồn chồng con mau ra khỏi luyện ngục, chóng về thiên đàng.
Những câu chuyện về người ăn năn trở lại nhiều lắm không kể hết được. Không phải chỉ có nước Pháp thôi mà các nước khác đều có người trở lại khi đến xứ Ars. Một linh mục nói:
- Trong xứ của tôi, có hơn mười người tội lỗi, cứng lòng đã ăn năn trở lại ở xứ Ars.
Linh mục khác nói:
- Trong những giáo dân tôi coi sóc, những người đi đến xứ Ars, đã thấy cha Gioan, nghe cha giảng và xưng tội với cha Gioan thì ngoan đạo và sốt sắng hơn những giáo dân khác bội phần. Một điều rất lạ là những người mà cha Gioan đã khuyên bảo để ăn năn trở lại, họ giữ được lòng sốt sắng và giữ đạo vững vàng cho đến chết, không có mấy người tái phạm.
Một linh mục kia nói:
- Trong xứ tôi, một người rượu chè be bét đã hơn ba mươi năm nay, không chịu nghe ai khuyên bảo, nhưng khi đến xứ Ars, xưng tội với cha Gioan, ông ta ăn năn dốc lòng chừa.Từ lúc ấy cho đến giờ, ông không đụng đến một giọt rượu nào nữa, lại còn trở nên một người đạo đức sốt sắng, xưng tội, rước lễ, một tháng một lần, làm gương sáng khiến mọi người lấy làm lạ.
Những người đến xứ Ars, chỉ cần gặp cha Gioan một lần thì đều cảm mến nhân đức của cha, luôn nhớ đến cha, chỉ muốn đến xứ Ars để gặp cha. Có nhiều người phải đi xa lắm, vừa tốn thời giờ vừa hao phí tiền bạc để đến xứ Ars một năm, một hai lần. Điều ấy không có gì lạ vì người khô khan gặp cha Gioan thì trở nên sốt sắng, người có tội thì ăn năn trở lại, người nhân đức thì càng thêm nhân đức hơn. Hết thảy mọi người đều hưởng nhờ ơn ích nơi cha Gioan.
I: SƠ LƯỢC TIỂU SỬ CỦA THÁNH GIOAN VIANNEY
II: TỪ KHI CHA GIOAN NHẬN XỨ ARS
III: DÂN CHÚNG TỪ KHẮP NƠI KÉO ĐẾN XƯNG TỘI VỚI CHA GIOAN TRONG NHỮNG NĂM 1826 - 1859
IV: CHA GIOAN VIANNEY CHỮA BỆNH PHẦN XÁC, PHẦN HỒN
V: NHỮNG NHÂN ĐỨC MÀ CHA GIOAN THƯỜNG LUYỆN TẬP