Cha Gioan là người rất nhân đức, luôn noi gương bắt chước Chúa Giêsu và theo lối các thánh đã hướng dẫn cách riêng cho những người được mệnh danh là Alter Christus. Cha biết rằng những nơi mà Giáo Hội phát triển với các địa phận có kỷ cương, các giáo xứ đạo đức sốt sắng hay có những vị thánh nổi tiếng từ xưa đến nay đều do lòng sốt sắng thờ phượng Chúa ngự trong Thánh Thể, năng rước lễ, năng chầu Thánh Thể và yêu mến Đức Trinh Nữ Maria.
Cha biết rằng trong nhà thờ, bàn thờ dâng lễ và nhà Tạm, nơi Chúa Giêsu hằng ngự đêm ngày, là nơi trọng nhất và đáng kính hơn các nơi khác. Trong các bí tích thì bí tích Thánh Thể là cao trọng nhất, giúp cho người ta lớn mạnh về phần hồn và giúp người ta giữ đạo cho sốt sắng. Những người ăn cao lương mỹ vị ngon lành nên thân xác khỏe mạnh, phương phi; những người năng rước Mình Thánh Chúa Giêsu làm của nuôi linh hồn mình cũng sẽ có sức mạnh chống trả chước cám dỗ của xác thịt, thế gian; họ dễ yêu mến Chúa Giêsu và tha nhân cùng dễ bằng lòng chịu khó. Ai cũng biết người năng đi lại nói chuyện với kẻ khôn ngoan thì sẽ học được cái khôn ngoan của người kia để nên khôn ngoan hơn. Do đó, những người năng chầu Mình Thánh, năng cầu nguyện với Chúa Giêsu ngự trong Thánh Thể, chẳng bao lâu sẽ học được sự khôn ngoan của Chúa mà nên khôn ngoan về phần linh hồn.
Chúa Giêsu ngự trong bí tích Thánh Thể là mặt trời thiêng liêng; giả như thế giới không có mặt trời, trái đất này sẽ trở nên tối tăm, mù mịt; nếu trái đất không nhờ ánh sáng và sức nóng của mặt trời thì lạnh lẽo buốt giá không sinh vật nào sống nổi. Vì thế, giáo xứ nào không năng chầu Thánh Thể, giáo dân không siêng năng rước lễ, thì không mong có những người đạo đức sốt sắng, không mong có vị thánh nào.
Cha Gioan rất yêu mến Mẹ Maria và biết Mẹ là Mẹ của nhân loại, là Cửa Thiên Đàng nên thúc giục người ta phải có lòng yêu mến Mẹ, nhờ sự cầu bầu thần thế của Mẹ mới mong được rỗi linh hồn, vì mọi ơn Chúa ban cho chúng ta đều qua tay Mẹ. Cha Gioan hiểu rõ điều đó nên cha lập hội Đền Tạ và hội Mai Khôi trong giáo xứ của mình.
Khi cha Gioan về nhận xứ Ars, trong giáo xứ ấy chỉ có năm người năng xưng tội rước lễ và siêng năng chầu Thánh thể; số còn lại chỉ xưng tội rước lễ một năm một lần trong mùa Phục Sinh. Nhưng vẫn có những người khô khan, dù là mùa Phục Sinh nhưng họ cũng không xưng tội rước lễ. Việc chầu Mình Thánh dường như còn quá xa lạ vì họ không quen chầu Mình Thánh riêng, thỉnh thoảng mới chầu chung vào ngày lễ Mình Máu Thánh hay ngày chầu thay cho địa phận mà thôi.
Cha Gioan Vianney thấy con chiên mình nguội lạnh khô khan như thế thì rất lo buồn nên cha than van cùng Chúa:
- Ở đây không có việc gì để làm, mà con nhàn rỗi quá thì sợ mất linh hồn nên xin Chúa cho con chiên của con sốt sắng, siêng năng rước lễ như giáo dân xứ Ecully. Ước gì con chiên của con hiểu được rước lễ là phúc cao trọng và năng rước lễ, con sẽ vui mừng sung sướng cảm tạ Chúa biết bao.
Trong giáo xứ có năm người siêng năng xưng tội rước lễ và chầu Thánh thể, ba người đàn bà và hai người đàn ông. Một trong năm người đó là chị ruột của ông tiên chỉ làng Ars, bà dự lễ mỗi ngày và rước lễ một tuần ba lần cùng chầu Mình Thánh vào buổi chiều mỗi ngày. Bà ấy đã 60 tuổi, không lập gia đình mà ở với em trai và coi sóc nhà cửa cho em. Còn một bà góa nữa, đã có tuổi, ở một mình trong căn nhà rộng lớn gần nhà thờ. Bà ấy cũng ngoan đạo, năng xưng tội rước lễ và chầu Mình Thánh.
Cha Gioan về coi sóc xứ Ars được hai năm, có một người đàn bà quê ở Lyon, đã quen xưng tội với cha khi còn giúp xứ Ecully. Bà đến làng Ars mua nhà ở gần nhà thờ để lo cho phần linh hồn của mình và nhờ cha Gioan hướng dẫn sống đạo đức. Bà ấy có “của ăn của để” nên ngày ngày chỉ lo việc đọc kinh dự lễ, chầu Mình Thánh và làm các việc lành phúc đức.
Không kể ba bà đạo đức ấy, làng Ars còn hai người đàn ông ngoan đạo nữa. Một người đã có tuổi, thật thà, không có học chỉ biết quanh năm khó nhọc cày cấy ruộng nương. Ông ấy ngày nào cũng vậy, ban chiều sau khi đi làm từ ngoài đồng về, khi qua nhà thờ thì để cày, cuốc ngoài cửa, vào trong nhà thờ quỳ nghiêm trang, và người ta thấy ông nhìn chăm chú vào nhà tạm suốt cả giờ. Cha Gioan thấy ông siêng năng chầu Mình Thánh sốt sắng như thế thì mừng lắm.
Khi chầu Thánh Thể, người ta thường mở sách chầu Mình Thánh mà xem, người thì đọc kinh này, kinh kia, than thở cùng cầu xin ngoài miệng, còn ông nông dân ấy chẳng đọc kinh, cũng chẳng mở miệng thì thầm bao giờ, mắt ông chỉ chăm chăm nhìn vào nhà Tạm không lúc nào rời. Cha Gioan cũng lấy làm lạ, ngài hỏi ông ấy:
- Khi ông chầu Mình Thánh, ông đọc những kinh nào? Than thở điều gì?
Ông ấy thưa:
- Thưa cha, con không đọc kinh cũng không thì thầm kêu xin điều gì ngoài miệng; con chỉ nhìn Chúa Giêsu và Chúa Giêsu nhìn con.
Cha Gioan nghe lời ấy thì hiểu ông đã tiến rất cao trên đường thánh thiện, vì Thiên Chúa đã soi trí mở lòng và dạy dỗ cho ông biết cách chầu Mình Thánh như các thánh và các vị thần bí quen làm, là trí lòng chiêm ngắm Chúa và lắng nghe tiếng Chúa phán bảo trong lòng mình.
Làng Ars còn một người nữa, tên là Mangdi, ông là người đoan chánh và đạo đức sốt sắng. Ông làm thôn trưởng đã lâu vì là người có học, lại thanh liêm không tham của ai, không thiên tư ai, nên cả làng đều mến và sợ ông. Ông ấy có lòng kính trọng linh mục chánh xứ và hết lòng giúp cha sửa sang việc đạo.
Cha Gioan biết mình là mục tử, là chủ chiên nhưng đầu mà không có chân tay, tướng mà không có quân cũng không làm gì được nên cha dùng những người đạo đức sốt sắng giúp cha lập hội Đền Tạ, hội Mai Khôi và chỉnh trang lại việc đạo trong xứ. Sau khi giảng giải lý lẽ cùng lợi ích của hội Đền Tạ và hội Mai Khôi cho giáo dân trong xứ thì cha lập hai hội ấy. Cha đặt ông Mangdi làm hội trưởng hội Đền Tạ và bà chị ông tiên chỉ làng Ars làm hội trưởng hội Mai Khôi.
Cha Gioan lập hai hội ấy có mục đích giúp con chiên bỏ đàng tội lỗi mà trở về đường ngay nẻo chính. Có nhiều người vì nghe biết về những ơn ích phát sinh từ hội ấy, có người vì thấy ông Mangdi và bà chị ông tiên chỉ là những người trọng vọng trong làng làm đầu hai hội ấy nên đua nhau vào hội và tuân giữ nội qui chặt chẽ. Từ lúc đó, số người siêng năng chầu Mình Thánh, xưng tội, rước lễ cùng năng lần hạt Mai Khôi ngày càng đông.
Phúc âm Chúa Giêsu đã kể dụ ngôn này: “Nước trời giống như chủ nhà kia gieo lúa tốt trong ruộng mình... Khi lúa lớn lên, đầy tớ thấy cỏ lùng mọc lên cùng với lúa thì muốn nhổ đi ngay nhưng chủ nhà bảo:
- Hãy chờ tới mùa gặt, đừng nhổ bây giờ, kẻo nhổ cỏ lại nhổ phải lúa chăng?
Vì thế, khi linh mục muốn sửa tính nết xấu của con chiên, phải lựa lúc thuận tiện, chờ dịp tốt mới làm, nếu vội vàng hay sốt sắng quá, nhiều khi chẳng được kết quả mà lại còn thiệt hại nữa.
Khi các linh mục sửa tính mê nết xấu của con chiên, các cha phải sống hiền lành nhân từ, hết dạ yêu thương họ. Các cha phải bắt chước người Samaritanô nhân hậu, lấy dầu là thứ êm dịu mà xức vào thương tích, đừng lấy giấm là thứ chua xót mà xức cho con chiên, nghĩa là đừng buồn giận gắt gỏng quở trách, đừng nóng tính, quạu cọ với ai, phải luôn hiền lành, nhân từ và nhường nhịn như cha Gioan. Khi cha Gioan Vianney già yếu, ngài nói với một linh mục kia:
- Từ khi tôi về xứ này cho tới nay gần bốn mươi năm. Tôi chưa hề giận dữ, quát mắng, quở trách một con chiên lần nào.
Từ khi cha Gioan về xứ Ars, nhiều người đã mềm lòng và bớt khô khan; nhất là từ lúc cha lập hội Đền Tạ và hội Mai Khôi, số người sốt sắng ngày càng tăng thêm mãi. Dù những người khô khan vẫn còn đa số, cha thấy đã đến lúc thuận tiện cho việc sửa tính hư nết xấu của con chiên nên cha quyết định thi hành.
Giáo dân xứ Ars có ba thói xấu là họ rất mê xem xiệc, xem ca nhạc. Ngày lễ trọng hay Chúa Nhật, đàn ông đàn bà, già trẻ lớn bé rủ nhau đi xem xiệc hay ca nhạc ở cuối nhà thờ. Thanh niên nam nữ cũng hay khiêu vũ, nói chuyện ở sân nhà thờ, làm chia trí những người đang đọc kinh, dự lễ trong nhà thờ. Những điều nghịch mắt khó coi làm gương mù rất nặng, nhất là đối với trẻ con và những thiếu niên mới lớn.
Thói xấu thứ hai là làng Ars có ba bốn quán rượu. Ngày Chúa Nhật, lễ trọng, đàn ông trong làng họp nhau ở mấy quán rượu đó nhậu nhẹt say sưa, cãi vã, đánh nhau cả ngày, nhiều khi cha Gioan đi thăm kẻ liệt về, gặp những người say nằm rũ rượi bên đường.
Thói xấu thứ ba là không giữ luật kiêng việc xác ngày Chúa Nhật và các ngày lễ buộc, nhất là trong vụ mùa thu hoạch. Dự lễ về là họ làm việc ngoài đồng hay trong nhà cho đến tối. Còn khi không phải mùa gặt hái, họ không đi làm ngoài đồng nhưng làm việc ở nhà luôn tay cả ngày.
Cha Gioan dùng sự cầu nguyện, ăn chay, hãm mình và giảng dạy ở nơi công cộng, khuyên bảo riêng để dẹp những thói xấu ấy. Ông thôn trưởng cũng dùng chức quyền của mình mà giúp cha hết sức. Ông ra lệnh cấm những đoàn ca nhạc đến làng, đe dọa phạt tiền những người say rượu, bắt nhốt những người đánh nhau, cãi nhau. Vì dân làng vừa nể vừa sợ thôn trưởng nên đa số vâng lời, chỉ một số ít người không xem lời ông ấy ra gì.
Làng Ars có thông lệ đến ngày lễ bổn mạng, họ mở hội, tiệc tùng, ca nhạc, khiêu vũ suốt bảy tám ngày. Người ở những làng chung quanh cũng đến xem, đến chơi ở đấy. Năm đó, cha Gioan bàn với thôn trưởng bỏ thông lệ ấy đi vì chẳng ích lợi gì mà sinh nhiều tội lỗi, nhưng những người khô đạo và ham chơi không chịu. Bọn họ kéo nhau lên chính quyền cấp huyện và tỉnh xin phép cho được mở ngày hội như mọi năm. Chính quyền cấp huyện cho phép, họ đem giấy phép về trình cho ông trưởng thôn, ông ấy nói:
- Chính quyền cấp huyện là cấp trên cho phép mở hội thì tôi phải chịu nhưng các anh không lấy lệnh cấp trên mà dọa tôi được mãi đâu, có ngày tôi sẽ trị các anh, các anh không nể tôi, tôi sẽ không nể các anh, từ rầy về sau tôi không làm ngơ lầm lỗi của các anh như trước đâu.
Những người khô khan, ham chơi vẫn quyết mở hội như mọi năm nhưng nhiều người biết trưởng thôn đã cấm, hay nghe lời ông ấy ngăm đe thì sợ; một phần vì nghe lời cha xứ giảng giải, can gián nên họ ở nhà và bắt vợ con không được đi hội. Những người đàn ông và đàn bà đã vào hai hội Đền Tạ và Mai Khôi cũng đồng lòng ở nhà không đi hội. Ngày hội làng Ars năm ấy tẻ nhạt, chẳng được đông vui như mọi năm, đến năm sau thì bỏ hẳn.
Những đoàn ca nhạc, múa rối, làm xiệc đến diễn vào các dịp lễ, thấy người đi xem càng ngày càng thưa thớt nên không đến nữa. Còn những quán rượu thấy ế, không còn khách nên dẹp tiệm chuyển sang nghề khác làm ăn.
Sau khi đả phá được hai thói xấu trên, cha Gioan cố gắng phá thói làm việc ngày Chủ Nhật và các ngày lễ buộc. Cha thường lấy những lý lẽ chắc chắn và sốt sắng cùng lời Chúa Giêsu mà giảng giải cho con chiên về vấn đề kiêng việc xác ngày Chúa Nhật:
- Anh chị em đừng quá lo lắng đến thức ăn hay áo mặc. Sự sống không quí hơn của ăn và thân xác không trọng hơn áo mặc hay sao? Thiên Chúa ban cho anh chị em thân xác, lẽ nào Người lại không ban của ăn nuôi sống nó và vải để che thân nó? Vì thế, anh em đừng lo lắng bối rối: Chúng tôi sẽ ăn gì, mặc gì? Vì Thiên Chúa đã biết anh chị em cần những điều ấy: nhưng anh chị em hãy tìm Nước Thiên Chúa trước và làm các việc lành phúc đức, rồi mọi sự khác Thiên Chúa sẽ ban thêm cho anh chị em. Anh chị em chớ lo ngày mai làm chi, việc ngày mai để ngày mai lo, vì ngày nào có sự khốn khó của ngày ấy.
Anh chị em đừng chỉ lo tìm kiếm của ăn nuôi xác ở đời tạm này mà thôi, nhưng phải lo tìm của thiêng liêng nuôi linh hồn mình nữa. Con người không phải như con vật chỉ có xác mà con người còn có linh hồn giống hình ảnh của Thiên Chúa. Người ta sống không nguyên bởi bánh nuôi thân xác nhưng còn bởi của ăn thiêng liêng là ơn Chúa, lời Chúa, Thánh Thể và các việc tin, cậy, mến, sự cầu nguyện cùng các việc lành phúc đức.
Người nào làm việc xác ngày Chúa Nhật cùng các ngày lễ buộc là ăn cướp của Thiên Chúa. Trong một tuần lễ có bảy ngày. Thiên Chúa giữ lại một ngày còn sáu ngày kia Người đã ban cho anh chị em. Anh chị em được phần hơn mà chẳng lấy làm đủ, lại ăn cướp phần của Thiên Chúa. Của cướp được là của phi nghĩa, là của độc chẳng làm ích, chỉ làm hại mà thôi. Vậy anh chị lấy ngày Chúa Nhật và các ngày lễ buộc là ngày của Thiên Chúa mà làm việc xác là ăn cướp của Thiên Chúa, không sinh ích lợi gì mà còn phải thiệt hại nữa. Ước chi anh chị em nhớ lời các thánh đã truyền lại rằng: “Ai muốn ra ngặt nghèo túng bấn thì có hai cách này: Một là làm việc xác ngày Chúa Nhật cùng các ngày lễ buộc; hai là ăn cướp ăn trộm, ăn gian của người ta”.
Cha Gioan chịu khó giảng giải, khuyên bảo con chiên lâu năm, điều đó không vô ích, vì sau này con chiên vâng lời cha mà tuân giữ ngày lễ rất nghiêm nhặt. Dù lúa ngoài đồng có bị nước ngập hay lúa lên mộng, không ai dám làm việc xác trong những ngày lễ khi linh mục chưa cho phép. Có một năm giữa mùa gặt hái, khi mọi người đang tham dự Thánh lễ vào sáng Chúa Nhật, bỗng nhiên, gió thổi mạnh, mây kéo đến nghịt trời. Ai ai cũng đoán là cơn mưa sắp ập tới. Mọi người đều nóng lòng sốt ruột lắm vì nhà nào cũng đang phơi lúa, phơi rơm đầy sân. Cha Gioan lên tòa giảng khuyên bảo mọi người hãy yên lòng, vì trời sẽ không mưa mà còn nắng to nữa. Cha vừa dứt lời thì sấm sét vang rền và mưa lác đác, nhưng tất cả mọi người đều quỳ nguyên tại chỗ dự lễ, không có ai chạy về nhà dọn lúa dọn rơm. Đúng như lời cha Gioan đã tiên đoán, trời chỉ mưa lác đác vài hột rồi sau đó gió thổi mạnh làm tan mây, trời quang mây tạnh và nắng to.
Cha Gioan không coi việc dẹp được thói xấu làm việc xác ngày Chúa Nhật của con chiên làm đủ, cha còn khuyên bảo họ làm nhiều việc lành trong ngày ấy nữa. Thiên Chúa và Giáo Hội đã truyền cho người ta nghỉ phần xác để có thời giờ thong thả mà lo cho phần hồn, làm việc phúc đức nên cha đề ra nhiều việc lành cho con chiên làm trong ngày ấy. Sáng Chúa Nhật sau khi lễ về và cơm nước xong, người ta thay phiên nhau đến đọc kinh lần hạt trong nhà thờ. Quá trưa, cha Gioan dạy giáo lý, lần hạt, chầu Mình Thánh. Đến tối, khi nghe chuông báo hiệu, mọi người lại đến nhà thờ đọc kinh và nghe giảng nữa, nên ngày Chúa nhật không lúc nào trong nhà thờ không có người đọc kinh, lần hạt.
Một linh mục thuật lại:
- “Tôi hay đến làng Ars và thấy làng ấy thật tốt về đạo đức mà cũng đẹp về phần đời. Tôi không thấy ai cãi cọ chửi rủa nhau bao giờ. Khi nhà thờ đánh chuông nguyện kinh Truyền Tin, những người làm ngoài đồng và những người đang đi trên đường đều quỳ xuống đọc kinh. Các ngày Chúa Nhật cùng các ngày lễ buộc có nhiều người chịu lễ và người ta thay phiên nhau vào nhà thờ đọc kinh, lần hạt, nghe giảng, chầu Mình Thánh từ sáng đến tối, nhà thờ lúc nào cũng đông đúc, tấp nập”.
Đức Giáo Hoàng Lêô nói: “Các thánh và những người đạo đức, từ xưa đến nay tất cả đều hãm mình, ăn chay, hành hạ thể xác của mình”.
Khi cha Gioan còn thanh niên đang học Latinh, ngài hãm mình bằng cách ăn cơm với muối, ăn nước canh chứ không ăn thịt cá hay các đồ ăn khác. Những năm cha giúp xứ Ecully, cha bắt chước cha Balley ăn chay, hãm mình, hành hạ thể xác, và khi làm chánh xứ Ars, cha càng ăn chay hãm mình hành xác hơn nữa. Có người thấy cha ăn chay hãm mình quá đáng như thế thì không hiểu vì sao cha vẫn sống và làm việc nhiều giờ được như vậy.
Cha ăn chay, hãm mình, hành xác, trước hết vì cha muốn bắt xác thịt phải vâng phục linh hồn, cha muốn làm cho nó ra yếu nhược để không chống cưỡng với linh hồn được. Lý do thứ hai cha ăn chay, hãm mình, phạt xác là để đền tội. Cha dâng thân xác cha làm của lễ cho Thiên Chúa, để xin Người tha tội cho con chiên của mình, và soi sáng mở lòng cho họ được ăn năn trở lại, chừa bỏ đường tội lỗi.
Cha luôn nhớ câu chuyện trong Phúc Âm, khi các thánh Tông Đồ muốn trừ quỷ ám trong một người kia mà không trừ được, các ngài hỏi Chúa Giêsu tại sao không trừ được quỷ ấy. Chúa Giêsu phán: “Giống quỷ này phải cầu nguyện, ăn chay, hãm mình mới trừ được”. Cha Gioan Vianney tin thật, các linh mục muốn khuyên giáo dân của mình bỏ đàng tội lỗi ăn năn trở lại thì trước hết phải ăn chay, hành xác mình trước đã.
Sau này có một cha chánh xứ thấy cha Gioan đã khuyên được giáo dân của mình bỏ đàng tội lỗi, khô khan, ươn lười mà trở nên đạo đức, sốt sắng thì hỏi cha Gioan:
- Cha có phúc lắm vì đã lo được cho giáo dân của cha trở nên sốt sắng ngoan đạo. Còn tôi đã khó nhọc làm đủ mọi cách để giáo dân được ăn năn trở lại mà không làm được. Bây giờ tôi ngã lòng không biết làm thế nào nữa.
Cha Gioan tiếp:
- Cha đã làm mọi cách, mọi phương thế cho con chiên bỏ đàng tội lỗi. Vậy cha đã ăn chay, hãm mình, nằm đất, hành xác chưa? Cha đã làm phúc bố thí cho người nghèo chưa? Cha có thức khuya dậy sớm, cầu nguyện kêu van và hành xác mấy tháng, mấy năm rồi? Nếu cha chưa làm những việc ấy thì cha chưa làm mọi việc, chưa dùng hết mọi phương thế để giáo dân ăn năn trở lại.
Cha Gioan kể ra bấy nhiêu điều cho vị linh mục kia thấy những cách mà cha đã dùng, đã làm cho bổn đạo xứ Ars bỏ đàng tội lỗi, ăn năn trở lại cùng Thiên Chúa. Vì cha Gioan luôn nhớ lời Chúa Giêsu phán cùng các tông đồ: “Giống quỷ này cần có cầu nguyện ăn chay mới có thể trừ được”.
Bởi đó cha đã ăn chay hãm mình, hành xác trọn đời, nhất là trong mười năm đầu tiên cha mới nhận xứ Ars. Chúng ta không thể kể hết mọi cách ăn chay hãm mình, hành xác của cha vì ngài rất khiêm nhường, luôn giấu những điều ấy, chẳng kể cho ai nghe. Sau đây là những điều người ta xem thấy và nhiều người biết vì cha Gioan không thể giấu được.
Cha chỉ ăn mỗi ngày một bữa và có nhiều khi cha nhịn ba ngày liền không ăn một chút gì. Một ngày kia, ông thôn trưởng đến nhà xứ có việc, thấy cha nằm trên giường không sao dậy được. Ông ấy hỏi:
- Thưa cha, cha bị làm sao mà mặt cha tái mét không còn chút thần sắc vậy?
Cha Gioan đáp:
- Tôi đói, đã ba ngày không ăn chút nào, xin ông cứu tôi với.
Như đã kể ở trên, mỗi ngày cha chỉ ăn một bữa mà bữa ấy là hai ba củ khoai, có khi là một củ. Một tuần lễ cha chỉ luộc một nồi khoai để ăn cả tuần; đến cuối tuần, những củ khoai ấy đã thiu, đã mốc meo rồi nhưng cha vẫn ăn. Mỗi ngày, vào giờ đánh chuông nguyện kinh Truyền Tin, cha từ nhà thờ về phòng lấy khoai trong nồi ra ăn, lúc một củ, lúc hai ba củ nhưng cha không bao giờ ăn đến bốn củ.
Cha không ngồi, chỉ đứng mà ăn, và uống vài ly nước lã thế là xong bữa. Hết tuần, lại luộc nồi khoai khác. Khi không có khoai, cha ăn bánh tráng hay uống bát nước bột pha loãng, hay bát cháo. Đến lúc tuổi già sức yếu, cha uống thêm một chén cà phê, có khi là một cốc sữa hay một bát chè. Thỉnh thoảng cha ăn một bát bánh miến và hai ba miếng thịt để vâng lời bề trên buộc giảm bớt việc ăn chay, hãm mình quá đáng, nhưng cha buồn lắm. Cha nói:
- Hồi xưa có ai làm bếp cho tôi đâu, tôi tự làm bếp lấy và tôi cũng chẳng ngồi ăn lâu như bây giờ. Có ngày tôi ăn hai ba củ khoai, có ngày tôi ăn ba cái bánh đa rồi uống bát nước lã là xong bữa.
Có một lần, bà Catherina là người coi sóc viện mồ côi xin cha chịu khó ăn nhiều hơn, đừng ăn chay, đừng ăn ít quá kẻo kiệt sức không làm việc được, cha trả lời:
- Tôi khỏe mạnh, tôi có sức. Tôi chẳng ăn nhiều mới khỏe. Tôi ăn mỗi ngày hai ba củ khoai, mỗi đêm ngủ một giờ là tôi đủ khỏe để làm được mọi việc rồi.
Cha Gioan nói thế chứ ngài chẳng khỏe mấy, càng ngày cha càng yếu đi và kiệt sức nên khi từ phòng riêng ra nhà thờ và lúc ở nhà thờ về phòng, cha phải bám theo tường, theo vách, phải bám vào cái nọ cái kia để khỏi ngã; giọng nói của cha càng ngày càng nhỏ đi, cha nói không ra tiếng như người hết hơi vậy. Lần kia cha nói với một linh mục:
- Nhiều khi tôi mệt quá, chẳng còn hơi sức và nói không ra tiếng, nhưng đến lúc tôi phải giảng thì lại thấy có sức khỏe và nói được to tiếng.
Khi đức giám mục đến kinh lược xứ Ars, đức cha hỏi ngài:
- Cha có ăn cỏ, ăn rễ cây như các thánh tu rừng khi xưa không?
Cha Gioan thưa:
- Thưa đức cha, con đã ăn thử một tuần lễ nhưng con không chịu được nên phải thôi.
Điều ấy có thật, vì có lần bà Catharina thấy cha đang bứt cỏ trong vườn mà ăn. Ngày nọ đức giám mục truyền cho cha ngồi cùng bàn với mình rồi ép ngài ăn đủ thứ, ăn mỗi thứ một hai miếng. Cha vâng lời bề trên nhưng sau khi ăn xong độ một giờ, cha phát bệnh, đau bụng khó chịu lắm. Thấy vậy, từ đó đức giám mục không dám ép cha ăn nữa, để mặc cha muốn ăn thế nào tùy ý.
Trong hạnh Thánh Phanxica có kể rằng: “Khi người nghèo đến xin của bố thí nơi nhà thánh nữ, bà mở túi xách của nó ra, lấy các đồ thừa người ta đã bố thí cho nó mà giữ lại cho mình, rồi lấy thức ăn ngon lành cho nó. Bà thánh ấy muốn ăn đồ thừa của người nghèo để được nên giống Chúa Giêsu.”
Cha Gioan lấy tích ấy làm gương mẫu mà cha cố gắng noi theo. Các thức ăn cha mua và con chiên dâng cho thì cha đem đổi lấy thức ăn của người ăn mày. Khi trong nhà không có đồ ăn gì mà đổi thì cha bỏ tiền ra mua lại thức ăn thừa ấy. Người viết hạnh tích cha kể:
”Có một hôm tôi vào nhà xứ thấy cha đang ăn những của đã đổi được, hay là mua của người nghèo, cha mời tôi ăn nhưng khi thấy những thức ăn ấy, tôi kinh tởm và buồn nôn, không sao ăn được. Cha bảo với tôi: 'Chúng ta ăn những thực phẩm mà người nghèo ăn thì chúng ta có phúc, vì Chúa Giêsu thương những người nghèo cách riêng. Khi tôi được ăn những thức ăn của người nghèo thì tôi thích thú như được ngồi ăn cùng mâm với Chúa Giêsu vậy'.”
I: SƠ LƯỢC TIỂU SỬ CỦA THÁNH GIOAN VIANNEY
II: TỪ KHI CHA GIOAN NHẬN XỨ ARS
III: DÂN CHÚNG TỪ KHẮP NƠI KÉO ĐẾN XƯNG TỘI VỚI CHA GIOAN TRONG NHỮNG NĂM 1826 - 1859
IV: CHA GIOAN VIANNEY CHỮA BỆNH PHẦN XÁC, PHẦN HỒN
V: NHỮNG NHÂN ĐỨC MÀ CHA GIOAN THƯỜNG LUYỆN TẬP