Các linh mục trong các địa phận thấy cha Gioan tu sửa, biến đổi được đời sống đạo nơi xứ Ars thì biết cha có nhân đức phi thường, có ơn riêng Chúa giúp, vì vậy các ngài hay nhờ cha Gioan đến giảng và giải tội cho giáo dân trong xứ của mình. Cha Gioan vẫn có lòng ước ao làm sáng danh Chúa và cứu các linh hồn người ta nên sẵn lòng giúp đỡ các cha ấy, không hề tiếc công sức bao giờ. Cha đi đến xứ nào cũng đều lo liệu cho nhiều người có tội và cứng lòng được ăn năn trở lại. Giáo dân nghe tiếng cha có nhân đức lạ lùng, hay ăn chay hãm mình, lại thấy cha gầy gò, khuôn mặt xanh xao võ vàng nhưng vui vẻ tươi cười thì yêu mến và tôn kính cha như đấng thánh.
Thiên Chúa ban cho cha sự khôn ngoan và ơn riêng để khuyên bảo người có tội trong tòa giải tội. Ai đã nghe lời khuyên bảo nhân từ và sốt sắng của cha thì đều ăn năn ghét tội, thống hối tội và yêu mến Chúa hơn, do đó những người xưng tội với cha một lần cứ muốn xưng mãi, không muốn xưng với cha khác. Người viết tiểu sử của cha nói:
”Khi cha mở tuần tĩnh tâm ở xứ Ars, cha quen rước hai ba linh mục ở các xứ lân cận đến giảng và giải tội giúp mình, nhưng không mấy người giáo dân xứ Ars xưng tội với các cha khác, hầu hết chỉ xưng tội với cha xứ của mình”.
Linh mục ở các xứ quanh đó thấy cha Gioan làm ích nhiều cho giáo dân trong xứ của mình nên tranh nhau mời cha Gioan đến giảng và giải tội. Các cha ấy nói đùa với nhau rằng:
- Mời cha Gioan đến giúp có lợi lắm, vì cha là thợ cả, thợ khéo, ăn ít mà làm nhiều.
Cha đến giảng và giải tội ở đâu người ta đều kính trọng và yêu mến.
Trong các xứ cha đi giúp, không có xứ nào cha khó nhọc và làm sáng danh Chúa và cứu được nhiều linh hồn cho bằng xứ Trêvu. Xứ này lớn lắm, có hơn mười ngàn giáo dân nên khi mở tuần tĩnh tâm phải mời mười lăm, mười sáu linh mục đến giúp. Cho dù các linh mục khác nhân đức và thông thái, giáo dân vẫn không kính trọng và yêu mến bằng cha Gioan. Nghe tiếng chuông báo đến giờ cha Gioan Vianney giảng, dù người đang làm ngoài đồng cũng bỏ cày cuốc ở đấy mà về, người ở phố xá buôn bán thì đóng cửa chạy đến nhà thờ để nghe cha giảng. Những người đầy tớ, người làm thuê sẵn lòng chịu chủ trừ công nhật miễn là được đi nghe cha Gioan giảng và được xưng tội với cha.
Những ngày đầu tuần tĩnh tâm, người đến xưng tội với cha đã quá đông; dù cha ngồi tòa giải tội cả ngày cũng không sao hết người xưng tội. Còn từ giữa tuần đến cuối tuần thì người ta đến đông lắm, họ ngồi vây bốn phía tòa giải tội và tranh nhau đến nỗi làm đổ cả tòa giải tội. Cha Gioan giải tội cả ngày và kéo dài cho đến nửa đêm không kịp ăn uống gì. Vả lại, khi thấy những người xưng tội đông quá thì cha quên cả chuyện ăn uống của mình.
Ngày cuối cùng của tuần tĩnh tâm, cha giải tội suốt hai mươi tiếng liền, đến hai giờ sáng. Thương cha quá mệt nhọc, ban tổ chức cho hai ba người phu xông vào đám người chờ giải tội để mở lối cho cha về nghỉ. Khi vừa ra khỏi tòa giải tội, cha đói lả và kiệt sức nên không bước đi được, phải vực cha về nhà. Cha ăn uống và nghỉ khoảng một tiếng rồi lại qua nhà thờ giải tội tiếp.
Không ai kể xiết trong năm lần tĩnh tâm ở xứ Trêvu, cha khó nhọc và cứu được biết bao linh hồn! Xứ Trêvu cách làng Ars khoảng hai giờ đi bộ. Sáng ngày thứ hai, cha làm lễ sớm ở nhà thờ Ars rồi mang áo dòng đi bộ xuống Trêvu. Khi đã khó nhọc giảng và giải tội ở đấy suốt tuần, tối thứ bảy, cha lại về xứ Ars giải tội cho con chiên của mình cả đêm. Đến sáng cha lại làm lễ sáng Chúa Nhật. Khi ấy là mùa đông giá rét, gió bấc mưa phùn và đường xá thì nhớp nháp và trơn trợt. Trong suốt tuần tĩnh tâm, giáo dân xứ Trêvu và các xứ lân cận đến xin ơn đại xá ở đấy, họ ngồi đâu cũng bàn tán về cha Gioan Vianney. Họ khen cha có nhân đức lạ lùng, có tài giảng, đối xử nhân từ, thương yêu khi giải tội, hay hãm mình, hay thương người nghèo v.v... Không phải chỉ những người dân quê, người nghèo, người tội lỗi thích nghe cha giảng mà cả những người giàu có sang trọng cũng muốn nghe cha khuyên bảo và muốn xưng tội với cha.
Từ bấy giờ cha Gioan nổi tiếng là người nhân đức, thánh thiện trong cả miền ấy. Cũng từ đó, không mấy khi cha đi giảng và giải tội giúp các xứ khác. Cha phải ở nhà, không đi đâu được vì giáo dân khắp nơi tuốn đến xứ Ars để xưng tội với cha mỗi ngày một đông hơn. Những người khắp nơi đến xứ Ars xưng tội với cha mỗi một năm khoảng ba chục ngàn người.
Làng Ars không có trường học, không có thầy giáo dạy trẻ em, vì thế người ta không quan trọng việc học, chỉ ham làm việc và mê mải làm ăn. Cha Gioan biết người dốt nát mê muội không biết các lẽ đạo nên họ không yêu mến Giáo Hội và giữ đạo cho sốt sắng vững vàng được. Câu “vô tri bất mộ” rất đúng, vì khi cha mới đến nhận xứ, ngài phân phát một số sách đạo cần thiết cho giáo dân nhưng chẳng mấy người biết chữ nên không đọc được. Cha thấy điều này rất trở ngại nên ước ao lập trường và tìm thầy dạy cho trẻ em nam nữ trong làng.
Ngoài ra, khắp các miền chung quanh xứ Ars, đất đai khí hậu nặng nề nên nhiều người chết sớm, không mấy người sống thọ. Khi đi giảng và giải tội cho các xứ lân cận, cha gặp nhiều trẻ mồ côi, sống đầu đường xó chợ, phần hồn phần xác bơ vơ nên cha thương xót và cầu xin kêu van Chúa ban ơn soi sáng cho cha biết cách cứu lấy chúng.
Sau khi cầu nguyện cho điều đó đã lâu, cha quyết định lập một cô nhi viện để nuôi nấng dạy dỗ những trẻ mồ côi. Bên cạnh nhà thờ xứ Ars có một căn nhà lớn, rộng khoảng bảy tám gian. Cha Gioan bán ruộng nương phần di sản của cha ở nhà quê được hai mươi lăm ngàn quan để mua ngôi nhà ấy. Sau khi mua, cha lại phải tìm người coi sóc nhà cửa và dạy dỗ các em. Bấy giờ có nhiều dòng nữ chuyên coi sóc dạy dỗ trẻ nữ, nhưng cha lại không muốn giao viện cô nhi mới lập của mình cho một dòng nữ nào cả. Trong làng Ars có hai phụ nữ, tuổi độ ba mươi, ngoan đạo, sốt sắng, ở độc thân không lập gia đình; một người là Venta, người kia là Catharina. Cha Gioan gởi hai chị ấy đến dòng nữ ở gần đó học cách chăm sóc và dạy dỗ trẻ em gần hai năm, rồi cha gọi về giao cho coi sóc căn nhà ấy nhưng không bắt họ thề giữ ba lời khấn trọng của những người trong bậc tu trì.
Cha mới lo liệu việc ấy được mấy ngày thì có một phụ nữ ngoài ba mươi tuổi, cũng đạo đức sốt sắng ở gần đấy, xin vào giúp việc. Cha nhận và giao cho làm vườn, làm bếp, giặt đồ cho nhà trẻ. Ngày khai trường chỉ có những trẻ nữ làng Ars và ít nhiều trẻ từ những xứ gần đấy đến học. Hai cô dạy giáo lý và mọi việc nữ công gia chánh, tuy không đòi học phí nhưng nếu ai muốn dâng cúng đóng góp bất cứ gì thì hai cô cũng nhận.
Cha Gioan lập nhà ấy cốt để cứu những trẻ mồ côi, không còn cha mẹ chăm sóc. Không bao lâu, các trẻ mồ côi từ các xứ lân cận kéo đến đông hơn sáu mươi đứa; có trẻ mới tám, chín tuổi, có trẻ mười ba, mười bốn, mười lăm lại có đứa mười tám, mười chín tuổi. Cha Gioan không những dạy dỗ cho các trẻ ấy mà còn nuôi nấng, may vá, và lo liệu mọi điều cần thiết cho chúng. Những trẻ ấy ở cô nhi viện lâu chóng tùy đứa, có đứa năm, sáu năm, có đứa hơn mười năm. Khi các trẻ đó đã học xong văn hóa và giáo lý, và những nghề thông dụng thì đi làm, có đứa lập gia đình, có đứa vào dòng tu. Viện mồ côi rất có nề nếp, vì có người chăm sóc kỹ càng nên các trẻ ngoan ngoãn nết na. Cha Gioan thấy công việc mình làm sáng danh Chúa thì vui mừng và chịu khó chăm sóc, dạy bảo các trẻ. Mỗi ngày, lúc ăn cơm trưa xong, cha đến cắt nghĩa giáo lý cho chúng độ nửa giờ. Những người trong làng cũng đến cô nhi viện để nghe cha cắt nghĩa giáo lý. Sau này khi người ta đến đông quá, không ngồi trong nhà ấy hết được, cha đưa ra nhà thờ mà cắt nghĩa giáo lý chứ không ở trong cô nhi viện.
Từ đó cho đến khi qua đời, cha làm việc ấy mọi ngày không bỏ một lần nào. Nhân dịp cắt nghĩa giáo lý, cha giảng nhiều lý lẽ, khuyên bảo người có tội ăn năn trở lại. Có nhiều người nghe và ghi chép lời cha cắt nghĩa rồi in ra sách để lưu lại cho hậu thế. Những lý lẽ cha Gioan giảng đầy sức thuyết phục, rõ ràng và dễ hiểu; giọng nói thiết tha sốt sắng khiến người nghe phải động lòng.
Thấy những trẻ mồ côi ngoan ngoãn, nết na, cha biết Chúa luôn thương yêu trẻ con cách đặc biệt, hay nhận lời chúng cầu xin nên cha hay nhờ chúng cầu nguyện. Khi cha muốn cầu xin ơn gì hay muốn khỏi sự khó khăn nào, cha bảo những trẻ mồ côi làm tuần ba hay chín ngày cầu nguyện cho ý chỉ của mình. Cha nói:
- Có nhiều người cứng lòng đã ăn năn trở lại nhờ những trẻ mồ côi cầu nguyện.
Hoặc có người hỏi:
- Cha lấy gì để nuôi bảy mươi người trong hai mươi lăm năm, từ khi lập viện cô nhi cho đến khi bề trên ra lệnh giao nhà ấy cho dòng nữ?
Khi mới lập, cha đã quyên góp được một số tiền khá lớn, cha mua ruộng cùng làm ruộng được mấy năm, rồi không làm ruộng nữa nhưng cho người ta thuê làm ăn chia. Dù vậy, bấy nhiêu ruộng cũng không đủ cung cấp gạo thóc cho bảy, tám mươi người ăn, nhưng Thiên Chúa, Đấng hay giúp những người có lòng quảng đại, nên cũng thường giúp đỡ cha Gioan.
Xưa Thánh Vicentê, lúc lập dòng tuy khó nghèo chẳng có của cải gì hết, mà còn nuôi hai ba tỉnh lớn trong thời đói khát, lập nhiều nhà thương nuôi trẻ mồ côi, nuôi kẻ liệt cùng làm nhiều việc vĩ đại làm sáng danh Chúa và Giáo hội. Thánh Vicentê chẳng có của riêng, chỉ biết giảng dạy, khuyên bảo rồi Chúa mở lòng những người giàu có dâng cúng tiền bạc cho ngài làm phúc cứu những người đói khát bần cùng, ngày nay Thiên Chúa cũng mở lòng cho người ta dâng của cải cho cha Gioan để nuôi những trẻ mồ côi đã nhận làm con cái của cha.
Ở đây chúng ta chỉ trích dẫn hai ba tích mà thôi.
Cha mua một căn nhà, dù khá lớn nhưng vẫn không đủ chỗ cho bảy, tám mươi người ở. Hơn nữa, phải lấy hai gian làm trường học cho những trẻ làng Ars và những xứ quanh nên nhà đó trở nên chật chội, phải làm nhà khác. Dịp làm nhà mới này, cha phải vất vả lắm, phải khiêng gạch, trộn hồ, làm hết mọi việc không khác gì người làm công.
Khi căn nhà đã làm xong, đến ngày trả công thợ mà chẳng còn đồng nào nên cha lo lắm, không biết phải làm thế nào. Cha cầm tràng hạt đi ra ngoài đồng ruộng một mình, để suy nghĩ, liệu cách kiếm tiền, vì không lẽ không trả tiền cho thợ. Cha vừa đi vừa lần hạt kêu van Mẹ Maria cứu giúp trong cơn túng cực này; mới đi được một quãng cha gặp một người khách lạ, ăn mặc lịch sự, cỡi ngựa và hỏi:
- Cha có phải là cha xứ Ars không?
Cha Gioan đáp:
- Phải.
Người ấy hỏi tiếp:
- Sao cha có vẻ lo lắng buồn bã vậy? Có phải giáo dân của cha làm buồn lòng cha không?
Cha Gioan đáp:
- Không. Giáo dân của tôi ngoan đạo lắm, họ không làm tôi buồn đâu, nhưng tôi lo lắng vì...
Bấy giờ cha mới kể nguyên do. Người ấy nghe nói thì lấy trong túi ra mười đồng tiền vàng đưa cho cha Gioan, rồi thúc ngựa chạy đi, cha chẳng kịp hỏi điều gì.
Lần khác, cha đã mua thiếu người làng Ars sáu ngàn ký thóc để nuôi trẻ mồ côi, đến ngày hẹn trả tiền cha không có một đồng thì ngài lo lắm, không biết làm thế nào để trả cho người ta. Cha lại cầm tràng hạt đi bách bộ ra đồng ruộng. Khi trở về được nửa đường, cha gặp một cô gái ăn mặc bình thường. Cô ta chào cha và hỏi rằng cha có phải là cha chánh xứ Ars không, cha đáp:
- Phải!
Cô ta nói:
- Đây là tiền của người kia bảo con đem dâng cho cha và xin cha cầu nguyện cho họ.
Cha Gioan hỏi:
- Người ấy không xin lễ, chỉ xin cha cầu nguyện cho họ thôi sao?
Cha Gioan lấy tiền đó trả tiền thóc, không những đủ mà còn dư.
Viện cô nhi nhiều khi đói vì hết gạo, không còn tiền. Bấy giờ hai cô coi sóc trẻ ở đấy chạy đến báo với cha Gioan nhà hết gạo, cha phải chạy đủ cách để kiếm tiền đong gạo, đi xin nhà này, nhà kia, vay chỗ này, mượn chỗ nọ. Thiên Chúa nhân lành vô cùng hay giúp cha những dịp túng cực như thế. Kẻ ra mặt làm phúc rõ ràng, người ẩn danh không cho ai biết. Có nhiều lần Chúa đã làm phép lạ, người ta hay kể lại chuyện sau đây vì sự lạ lùng và rõ ràng hơn hết, và vì nhiều người xem thấy và ở đâu người ta cũng biết.
Có một ngày cô nhi viện không còn gì để ăn. Cha Gioan đã vất vả cả buổi sáng mà không được gì. Người thì không còn của gì để giúp, người thì đã giúp nhiều nên không muốn giúp nữa. Cha Gioan buồn bã lo lắng đến độ gần nản chí. Từ trẻ đến nay cha chỉ phải một lần buồn bã lo lắng như thế, đó là khi học Latinh không được, toan bỏ học mà về nhà làm ăn.
Lúc đó, cha nhớ có lần đã cầu xin Thánh Phanxicô Regis và thánh nhân đã thương mà nhận lời cứu giúp mình trong cơn túng quẫn ấy, do đó cha chạy đến xin thánh nhân giúp mình trong cơn khốn khó này. Cha Gioan quỳ cầu nguyện một lúc lâu, rồi cha cầm lấy hộp đựng xương Thánh Phanxicô Regis, đang để trên bàn thờ trong phòng cha, rồi đi vào nhà kho để lúa. Bấy giờ trong nhà kho chỉ còn hai ba đấu thóc, cha vùi hộp xương vào số thóc còn lại, rồi để đấy mà đi về.
Sáng hôm sau, cô coi sóc trẻ mồ côi đến nhà xứ vừa nói vừa khóc với cha Gioan:
- Thưa cha, hôm qua nhà chúng con đã phải nhịn đói, nếu hôm nay không có gì ăn, có khi phải cho các trẻ về vì bắt chúng ở lại, sợ chúng chết đói mất.
Cha Gioan nói:
- Cô hãy đi với cha xem trong nhà kho có còn thóc chăng?
Ôi! Lạ lùng thay! Khi mở cửa nhà kho ra thì thấy bốn gian nhà đầy thóc, đổ cao lên đến xà nhà. Khi thấy dấu lạ Chúa tỏ lòng thương các trẻ mồ côi như thế, mọi người mừng rỡ biết bao; còn cha vừa mừng vừa buồn, mừng vì Chúa thương các trẻ mồ côi và ban cho nó của ăn, buồn vì mình đã không trông cậy Chúa đủ.
Cô Catharina, người coi sóc trẻ mồ côi kể lại nguyên do cha buồn:
- Khi cha Gioan thấy Chúa thương trẻ mồ côi dường ấy nên đến nhà chúng con phàn nàn tự trách mình: “Hôm qua cha thấy mình không tìm được của nuôi chúng con, cha đã ngã lòng trông cậy vào Chúa và dự định giải tán viện, cho chúng con về. Thiên Chúa đã làm phép lạ này để trách cha vì kém lòng trông cậy vào Người.”
Suy gẫm lời cha Gioan, chúng ta thấy cha khiêm nhường sâu thẳm dường nào. Việc này đồn thổi khắp vùng ấy, mọi người làng Ars và nhiều người phương xa đua nhau đến xem kho thóc của cha Gioan; hôm trước chẳng có thóc, hôm sau thóc đầy lên tới nóc.
Cha Gioan nuôi nấng dạy dỗ trẻ mồ côi được hai mươi năm; trong những năm đó, số trẻ khi thì bảy mươi, lúc tám mươi đứa. Những trẻ sống nơi nhà ấy, khi ra ngoài đời, chúng sống đạo rất tốt và biết làm ăn; có người hiếm muộn đến xin trẻ đem về nhận làm con nuôi; có người hỏi vợ cho con trai mình trong số những thanh nữ lớn lên trong nhà ấy; lại có một số trẻ dâng mình cho Chúa trong dòng tu. Không những nhà ấy cứu được nhiều trẻ mồ côi mà còn làm ích cho những trẻ xứ Ars đến học hành ở đấy suốt năm.
Có nhiều người biết công ơn cha Gioan đã lập ra nhà ấy và vất vả coi sóc, nhưng cũng có nhiều người không biết ơn cha, lại phê bình chê bai. Đầu tiên là những người trí thức chê các cô giáo không được đào tạo trường lớp, không có bằng cấp quốc gia chứng nhận, họ chê việc dạy trẻ trong làng lẫn lộn với trẻ mồ côi, chê vì nhà trường vừa làm trường học, vừa làm nhà trẻ vừa làm viện cô nhi. Sau đó những linh mục cũng góp tiếng chê trách cha Gioan, là ngài dùng giáo dân mà không sử dụng người của nhà dòng trong việc coi sóc dạy dỗ trẻ con. Các cha nói công việc của cha Gioan không bền, chỉ cần cha chết là nhà ấy tan ngay. Nếu giao cho nhà dòng, thì công việc mới bền lâu được, vì nhà dòng có người kế tiếp nhau mãi, người này chết, bề trên thay người khác ngay. Còn những giáo dân mà cha Gioan trao phó công việc của nhà ấy, khi họ chết không chắc tìm được người khác thay thế.
Hơn nữa, những người trong làng Ars, nhất là những người giàu có thấy con mình học chung một trường với trẻ mồ côi thì không vui lòng; nhiều người còn bắt bẻ và chê trách nhiều điều khác nữa. Vì thế, các bề trên xem xét các lý do đó thật kỹ càng, rồi ra lệnh cho cha Gioan phải giao viện mồ côi cho nhà dòng coi sóc. Cha Gioan cúi đầu vâng phục bề trên như vâng lời Thiên Chúa.
Tháng 11 năm 1847, cha Gioan giao nhà, vườn, đất và mọi sự cho bà bề trên dòng nữ, không hề kêu trách một lời nhưng lòng cha đau đớn và tiếc xót vì cha đã khó nhọc, tốn nhiều công của mà lập nên và coi sóc nhà ấy lâu, nên cha thương nhà ấy lắm. Nhưng cha nghĩ rằng, Chúa để xảy ra như vậy là để mình luyện tập từ bỏ lòng yêu chuộng mọi sự thế gian, để không còn dính bén đến những của cải tạm bợ đời này, để yêu mến Chúa thiết tha hơn. Đó là điều làm cha bằng an thư thái như không có điều gì xảy ra.
Cha Gioan luyến tiếc viện cô nhi cũng đúng vì nhà ấy làm ích cho người ta rất nhiều. Vì cha quen cắt nghĩa giáo lý cùng giảng giải, dạy dỗ những trẻ mồ côi mỗi ngày nên về sau trở nên người giảng lôi cuốn nhất trong thời ấy. Cũng vì lợi ích này nữa, đó là giúp cho cha có cơ hội khuyên bảo người có tội ăn năn trở lại. Khi giáo dân xứ Ars còn khô khan nguội lạnh, cha hay nhờ các trẻ mồ côi cầu nguyện, và sau cùng mỗi khi gặp người cứng lòng không chịu ăn năn, cha lại nhờ trẻ mồ côi cầu nguyện cho người ấy, vì cha thường nói:
- Lời cầu nguyện của con trẻ rất đẹp lòng Chúa và giúp người có tội ăn năn trở lại nhiều lắm.
Thiên Chúa khôn ngoan vô cùng, Người sắp xếp mọi việc mưu ích cho phần rỗi người ta, nên định cho cha Gioan thôi việc chăm sóc trẻ mồ côi để dành nhiều thì giờ mà làm việc khác quan trọng hơn, làm sáng danh Chúa và làm ích cho các linh hồn hơn. Chúa muốn cho cha nhường phần chăm sóc trẻ mồ côi cho người khác, để giao cho cha việc cứu linh hồn các giáo hữu ở khắp thế giới kéo đến xứ Ars mỗi ngày một đông. Việc ấy thật nặng nề, dù cha Gioan có làm đêm ngày vẫn không sao xuể được nên đức giám mục phải sai ba bốn linh mục đến giúp cha. Như vậy, cha Gioan còn thời giờ nào mà chăm sóc những người mồ côi như trước được.
I: SƠ LƯỢC TIỂU SỬ CỦA THÁNH GIOAN VIANNEY
II: TỪ KHI CHA GIOAN NHẬN XỨ ARS
III: DÂN CHÚNG TỪ KHẮP NƠI KÉO ĐẾN XƯNG TỘI VỚI CHA GIOAN TRONG NHỮNG NĂM 1826 - 1859
IV: CHA GIOAN VIANNEY CHỮA BỆNH PHẦN XÁC, PHẦN HỒN
V: NHỮNG NHÂN ĐỨC MÀ CHA GIOAN THƯỜNG LUYỆN TẬP