Trong bản dịch tiếng Việt, chúng ta thấy có ba cấp trong các lễ phụng vụ: lễ trọng, lễ kính, lễ nhớ. Đàng nào cũng là “lễ” hết, chỉ khác nhau ở tính từ “trọng, kính, nhớ”.
Trong nguyên bản La Tinh, thì ta không gặp mẫu số chung như vậy. Ba cấp được gọi là sollemnitas (sự long trọng), festum (lễ mừng), memoria (tưởng nhớ).
Thực ra, nếu phân tích cho sát nghĩa thì không rõ “sự long trọng” khác với “lễ mừng” như thế nào: có lễ mừng nào mà không long trọng? Và nếu “long trọng” mà thiếu “lễ mừng” thì lấy cái gì làm trọng thể đây? Ta tạm gác chuyện từ ngữ qua một bên để đi vào thực chất của vấn đề.
Trong lịch phụng vụ hiện hành (được ban hành năm 1969), chúng ta thấy có ba cấp trong các lễ phụng vụ: lễ trọng, lễ kính, lễ nhớ. Lễ nhớ lại còn được tái phân thành lễ nhớ “bắt buộc” và “không bắt buộc”. Vị chi là có tới 4 cấp chứ không phải ba. Trước đây, từ ngữ xem ra đơn giản hơn: lễ bậc nhất, lễ bậc nhì, lễ bậc ba.
Có nhiều lý do, lý do nổi và lý do chìm. Lý do nổi là để xác định ưu tiên của các ngày phụng vụ. Chẳng hạn như một lễ trọng mà trùng với Chúa Nhật thường niên thì vẫn được cử hành như thường, đang khi lễ kính và lễ nhớ thì phải nhường chỗ.
Còn nếu gặp Chúa Nhật mùa Vọng, mùa Chay, mùa Phục Sinh thì các lễ trọng cũng mất chỗ đứng luôn. Đàng sau lý do nổi còn có một lý do chìm khác, đó là muốn dành ưu tiên cho các ngày Chúa Nhật và các ngày lễ kính Chúa Giêsu, nhằm nêu bật trọng tâm của niên lịch phụng vụ là Đức Kitô.
Trước đây, các lễ các thánh vừa nhiều lại vừa được đặt trên các Chúa Nhật. Cuộc cải tổ phụng vụ sau Công Đồng Vaticanô II dành lại vị trí ưu tiên cho ngày Chúa Nhật, nhất là các Chúa Nhật mùa Vọng, mùa Chay và mùa Phục Sinh.
Một lần nữa, chúng ta cũng có thể nói tới lý do nổi và lý do chìm.
Lý do nổi là phân biệt giữa các thánh lớn và các thánh nhỏ. Dĩ nhiên các thánh được mừng ở cấp lễ trọng thì lớn hơn là các thánh mừng ở cấp lễ kính, lễ nhớ bắt buộc hay không bắt buộc.
Sự phân phối giữa các cấp bậc lớn nhỏ thì thuộc về lý do chìm, và đã nhiều lần thay đổi trải qua dòng lịch sử. Có thể tóm tắt lại như sau.
Trong các thế kỷ đầu tiên, Giáo Hội không có lịch phụng vụ phổ quát nhưng chỉ có các lịch phụng vụ địa phương. Nói cách khác, một địa phương chỉ kính các thánh của mình (hầu hết là các vị tử đạo và giám mục), chứ không biết đến các thánh của các địa phương khác. Lịch của giáo phận Rôma cũng không ra khỏi quy tắc đó.
Từ thế kỷ IV trở đi mới thấy thêm các danh sách của các thánh thuộc các giáo phận khác, được biết đến nhờ những cuộc giao lưu hoặc qua việc di chuyển hài cốt các thánh tử đạo; nhưng phải chờ đến cuộc canh tân phụng vụ dưới thời hoàng đế Charlemagne vào thế kỷ IX, thì mới có một lịch phụng vụ với các thánh phổ quát.
Nghĩa là một thánh thuộc về Giáo Hội phổ quát chứ không hoàn toàn gắn liền với một Giáo Hội địa phương nào. Đứng đầu danh sách các thánh phổ quát là Đức Mẹ Maria, rồi đến các thánh tông đồ, Thánh Gioan Tẩy giả, các thánh thiên thần. Đến khi lịch của Hoàng Đế Charlemagne được Giáo Hội Rôma chấp nhận vào thế kỷ X, thì ngoài các thánh vừa kể, các vị giáo hoàng tử đạo cũng được xếp vào hàng phổ quát.
Với việc dành thẩm quyền phong thánh cho Tòa Thánh từ thế kỷ XII, các vị được đức thánh cha phong thánh cũng được kể là thánh phổ quát. Hiện tượng này đưa đến việc gia tăng các lễ kính thánh trong niên lịch phụng vụ. Năm 1173, lịch phụng vụ chỉ có khoảng 90 ngày kính các thánh; khoảng 400 năm sau, vào thời công đồng Trentô, con số này chiếm tới 220 ngày.
Cuộc cải tổ phụng vụ sau công đồng Trentô do ĐGH Piô V thực hiện (năm 1568) cắt xuống còn 130, nhưng lại tăng lên đến 270 vị vào thời Công Đồng Vaticanô II (trong vòng 400 năm).
Khi xuất bản cuốn lịch phụng vụ năm 1969, con số lễ kính các thánh đã giảm xuống còn 159, được chia làm 3 bậc: 4 lễ trọng (đó là Thánh Giuse, Gioan Tẩy giả, Phêrô và Phaolô, lễ các thánh), 17 lễ kính (dành cho các thánh tông đồ, các tổng thiên thần, hai phó tế Stêphanô và Lorensô, các thánh anh hài). Phần còn lại đều là lễ nhớ, với 50 bắt buộc, và 88 không bắt buộc.
Đó là nói về lịch phổ quát, còn mỗi Giáo Hội địa phương, mỗi dòng tu có thể xin Tòa Thánh châu phê một lịch riêng, trong đó các cấp bậc được xác định lại. Thí dụ như lễ bổn mạng chính của một địa phương (quốc gia, thành phố), của hội dòng hay vị thánh sáng lập dòng có thể được kính ở cấp lễ trọng; còn lễ bổn mạng của miền tỉnh thì được mừng như lễ kính.
Có thể nói được như vậy, nghĩa là có thánh được mừng long trọng trong lịch phổ quát nhưng lại không được tổ chức linh đình tại địa phương: ngược lại, có khi một vị thánh được mừng tưng bừng tại một địa phương nhưng lại trở thành vô danh ở địa phương bên cạnh.
Thực ra, chỉ có Chúa mới đánh giá đúng mức thế nào là một thánh vĩ đại. Lịch phụng vụ cố gắng thiết lập một hệ trật dựa theo vai trò đối với Hội Thánh. Hiểu như vậy, tiếp theo Đức Maria, phụng vụ bày tỏ lòng kính trọng đặc biệt với thánh Giuse, Thánh Gioan Tẩy giả (hai vị gần kề với Chúa Cứu thế), rồi đến các thánh tông đồ. Đó là xét theo thứ tự khách quan. Nhưng tiếc rằng hầu hết chúng ta không biết gì về tiểu sử và hoạt động của từng vị tông đồ, cho nên lòng tôn kính dành cho các đấng không được phổ biến cho lắm.
Khi bước xuống cấp thứ ba (các lễ nhớ), ủy ban duyệt lại lịch phụng vụ phải phân vân rất nhiều trong việc lựa chọn các thánh: nên ghi danh vị nào vào lịch phổ quát, còn vị nào chỉ nên trong lịch riêng của địa phương hay của dòng tu? Lấy tiêu chuẩn gì để lựa chọn?
Chúng ta biết một tiêu chuẩn đã được đề ra để làm sao cho tất cả các miền trên địa cầu đều được đại diện, thay vì chỉ tập trung vào các thánh ở Âu Châu như xưa.
Chính vì lý do đó mà chúng ta thấy sự xuất hiện của các thánh Turibio Mogrovejo, Martinô Porres, Rosa Lima của nước Pêru đại diện cho Nam Mỹ; Carôlô Luanda thuộc Uganđa đại diện cho Phi Châu; thánh Giôsaphát đại diện cho Giáo Hội Ukren; các thánh tử đạo Nhật bản, đại diện cho Á Châu; Thánh Phêrô Chanel đại diện cho Đại dương châu, vv. Các vị này được chọn không hẳn là vì nổi tiếng cho bằng tiêu biểu cho tính cách hoàn vũ của Giáo Hội Công Giáo. Như vậy, cũng có thể nói đó là một tiêu chuẩn khách quan. Thế nhưng trên thực tế, không phải tất cả các vị đó đều được mọi nơi biết đến và cử hành long trọng như nhau. Tính cách long trọng trong việc cử hành tùy thuộc vào nhiều yếu tố khác, mang tính chất tâm lý chủ quan.
Trong số nhiều yếu tố, tôi xin tóm lại hai yếu tố, một nổi một chìm. Yếu tố nổi là tính cách địa phương: đối với mỗi địa phương, vị thánh của dân mình, của làng mình vốn được coi là vĩ đại nhất! Điều này không có gì lạ. Các lịch phụng vụ đều bắt đầu với các thánh thuộc một địa phương, những người được toàn dân biết đến và mộ mến; và họ cũng muốn tuyên truyền quảng cáo cho người nhà của mình, dựa theo tâm tình tự ái của dân tộc. Khi thấy các vị thánh của dân tộc mình được các nơi khác ca ngợi thì mình cũng lấy làm hãnh diện lây.
Tuy nhiên yếu tố này (mà tôi tạm gọi là yếu tố nổi) không phải lúc nào cũng đứng vững, theo kinh nghiệm được tục ngữ ghi lại “bụt nhà không thiêng”. Một thí dụ cụ thể, tuy rằng chúng ta hãnh diện vì là con cháu các thánh tử đạo Việt Nam, nhưng khi có chuyện nguy cấp thì có lẽ ít người chạy đến cầu khấn các đấng, bởi vì chưa có nhiều tiếng đồn về các phép lạ của các thánh tử đạo. Nói cách khác, đối với dân gian, một vị thánh lớn (vị thánh nổi tiếng) không hẳn là người đã góp phần vào việc kiến tạo Nước trời, hoặc đã nêu gương bắt chước Chúa Kitô, cho bằng người làm nhiều phép lạ.
Điều này xảy ra ở bên Italia với các thánh Antôn Pađôva, thánh Rita; và tại Việt Nam, với thánh Antôn, Thánh Vinh sơn Ferriê, và gần đây, thánh Martinô Porres. Nguy cơ nằm ở chỗ chúng ta coi các vị thánh đó như thần thánh đến độ quên luôn cả trung tâm đức tin của đạo Kitô, tức là Thiên Chúa nhân lành.
Lòng sùng kính các thánh dễ mang tính cách vụ lợi, theo nghĩa là chúng ta chạy chọt nhờ vả các đấng làm ơn làm phúc cho chúng ta, thay vì bắt chước gương các đấng ấy phụng sự Thiên Chúa qua việc phục vụ tha nhân. Dù sao đi nữa, các nhà chuyên viên mục vụ phải luôn lưu ý đến những yếu tố khách quan cũng như tâm lý chủ quan trong việc cỗ võ lòng tôn sùng các thánh.
Có lẽ tiếng "á thánh" dễ cắt nghĩa hơn. Theo từ điển Hán Việt, á có nghĩa là kém một bực, đứng hạng nhì; thí dụ đời xưa á nguyên là người thi đậu hạng nhì (sau trạng nguyên); ngày nay trong các cuộc thi sắc đẹp, á hậu là người đoạt giải nhì (sau hoa hậu). Theo nghĩa đó, á thánh có nghĩa là người kém ông thánh một bực, sắp làm thánh.
Từ chân phước thì dịch sát với nguyên ngữ La Tinh beatus. Beatus tự nó có nghĩa người có phước, người được hạnh phúc (vì thế đôi khi người ta cũng dịch beatus là “đấng phúc lộc”). Tuy nhiên trong thần học Kitô Giáo, từ này mang nhiều ý nghĩa khác nhau tùy theo bối cảnh, văn mạch và thời đại.
Khi vừa mở sách Tân Ước, chúng ta gặp thấy từ “beatus” trong bài giảng trên núi của Tin Mừng Thánh Matthêu, trong tuyên ngôn về 8 mối phúc thật: “Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, phúc thay ai hiền lành, phúc thay ai sầu khổ, vv. ”. Những hạng người đó được ca ngợi là có phúc, bởi vì họ được chuẩn bị thuận tiện để đón nhận Nước Thiên Chúa, được Thiên Chúa làm gia nghiệp, được nhìn thấy Thiên Chúa.
Bước sang Tin Mừng Thánh Luca, chúng ta thấy lời chúc tụng “phúc thay” được bà Ysave áp dụng cho Đức Maria: “Em thật có phúc vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em” (Lc 1,45). Điều này cũng được chính Chúa Giêsu khẳng định “Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa” (Lc 11,28).
Từ đó, văn chương Kitô Giáo trong các thế kỷ đầu tiên gọi những tín hữu chết trong ơn nghĩa Chúa là beati”, những người đang vui hưởng hạnh phúc bên cạnh Chúa, bởi vì trước đây họ đã đi theo con đường các mối phúc thật. Nói khác đi, các “beati” (các phúc nhân, các chân phúc) là chính các vị thánh, những người đã tuân giữ luật Chúa, đã sống đạo đức thánh thiện.
Đúng thế. Như vừa nói, những tín hữu đã sống đời đạo đức thánh thiện, đã đi theo con đường bát phúc, thì sau khi qua đời, được hưởng hạnh phúc vĩnh cửu bên cạnh Chúa, thông dự vào chính sự thánh thiện của Chúa. Vì thế không lạ gì mà trong các thế kỷ đầu tiên, phụng vụ dùng trà trộn các tiếng “chân phúc” và “thánh nhân”. Một trường hợp điển hình là Đức Maria. Các sách Phụng Vụ vừa gọi là thánh Maria (sancta Maria), vừa gọi là chân phước Maria (beata Maria).
Từ khi có sự thay đổi quan điểm Giáo Luật về sự thánh thiện.
Nãy giờ, chúng ta bàn về khái niệm về chân phúc và sự thánh thiện dưới khía cạnh thần học, trong mối tương quan với Thiên Chúa. Từ thế kỷ XVI trở đi, Tòa Thánh sử dụng hai từ này theo khía cạnh khác, đó là sự tôn kính trong phụng vụ. Cho dù một tín hữu đã nổi tiếng thánh thiện, đã thực hành các nhân đức cách anh hùng, nhưng sau khi họ qua đời, không được phép gọi họ là “beati” (phúc nhân) bao lâu chưa có nghị định của Tòa Thánh.
Thiết tưởng cũng nên biết rằng trong thiên niên kỷ thứ nhất, việc nhìn nhận đời sống thánh thiện của các tín hữu thuộc thẩm quyền của các giám mục. Từ việc công bố bộ luật năm 1234, thẩm quyền được dành cho Tòa Thánh. Duy Đức Giáo hoàng mới có thẩm quyền phong thánh, nghĩa là ghi danh tánh một người tín hữu vào sổ các thánh. Đó là ý nghĩa của tiếng canonizatio: canon là danh mục, sổ bộ; canonizatio là ghi danh vào sổ bộ. Một khi người tín hữu nào được canonizatio thì được gọi là “thánh”, và được phép tôn kính công khai.
Và cho đến thế kỷ XV, các thánh (sancti) cũng được gọi là beati (chân phúc) như trước kia.
Thế nhưng, sang thế kỷ XVI, Tòa Thánh cho phép một vài nơi được tôn kính vài người tuy nổi tiếng thánh thiện nhưng chưa được phong thánh: những vị đó được gọi là beati (chân phúc) chứ không được gọi là sancti (thánh). Các nghị định này được gọi là beatificatio, và trở nên thông dụng từ thế kỷ XVII.
Với sắc lệnh ngày 13/ 3/ 1625 của ĐGH Urbanô VIII (được kiện toàn với đoản dụ Caelestis Hierusalem ngày 5/7/1634), sự phân biệt từ ngữ trở nên rõ ràng: beatificatio là phong chân phước, canonisatio là phong thánh. Việc phong chân phước cho phép được tôn kính một tôi tớ Chúa; nhưng sự tôn kính này được giới hạn trong một hội dòng, một Giáo Hội địa phương. Với việc phong thánh, sự tôn kính mang tính cách bắt buộc trong toàn thể Giáo Hội.
Việc tôn kính bao gồm nhiều chi tiết. Trước tiên, được phép đặt chân dung (hình ảnh) lên trên bàn thờ. Tiếp đến, các tín hữu có thể đọc kinh nhờ xin vị chân phước chuyển cầu. Thêm vào đó, hằng năm lịch phụng vụ dành một ngày kính nhớ với bài lễ và kinh nguyện.
Những thủ tục phong thánh đã được thay đổi trải qua thời đại. Nói chung, để được phong chân phước, cần phải chứng tỏ rằng người tín hữu đã sống đời đạo hạnh. Tiêu chuẩn đo lường mức độ đạo hạnh quen gọi là “thực hiện các nhân đức anh hùng”, nghĩa là họ đã thực hành tất cả các nhân đức (tóm lại trong ba nhân đức đối thần - tin, cậy, mến - và bốn nhân đức trụ - khôn ngoan, công bằng, mạnh bạo, tiết độ) một cách phi thường.
Tính cách phi thường này không những chỉ muốn nói lên tầm độ xuất sắc của tôi tớ Chúa nhưng còn chứng tỏ tác động khác thường của Chúa Thánh Thần trong đời họ. Nói thế, không có nghĩa là bất cứ vị chân phúc nào cũng thực hiện tất cả bảy nhân đức cách phi thường; thường mỗi vị nổi bật một vài nhân đức nào đó, thí dụ đức mạnh bạo nơi các vị tử đạo. Dù sao, nhân đức trổi vượt hơn cả là đức ái.
Không cần, nếu ta hiểu là phải làm phép lạ lúc còn sống. Bởi vì việc thực hiện các nhân đức cách phi thường đã là một phép lạ rồi. Còn khi nói đến thủ tục phong chân phước sau khi đương sự đã chết thì khác.
Thủ tục thay đổi tùy theo thời đại. Trong bộ luật hiện hành, thủ tục phong chân phước bắt đầu bằng việc điều tra về việc thực hành các nhân đức anh hùng. Bước tiến sau đó sẽ thay đổi tùy theo hồ sơ có phải là một vụ tử đạo hay không. Nếu là một vị tử đạo, thì chỉ cần chứng minh sự kiện chết vì đức tin là xong. Còn nếu không phải là vị tử đạo thì đòi phải có một phép lạ. Cần phải ghi nhận là phép lạ diễn ra sau khi đương sự đã qua đời chứ không phải là lúc sinh tiền.
Giáo Hội đòi hỏi phép lạ ra như để biết chắc rằng vị tôi tớ Chúa đang hưởng phúc bên cạnh Chúa, và có thể chuyển cầu cho chúng ta.
Trước khi trả lời câu hỏi, cần phải nhấn mạnh rằng không phải là các thánh thì thánh thiện hơn các chân phước. Vì thế thiết tưởng dịch chân phước là “á thánh” thì không đúng, bởi vì xét về sự đời sống thánh thiện thì chân phước và hiển thánh đều như nhau.
Không phải là với việc phong thánh thì chân phước trở nên thánh thêm chút nữa. Như đã nói trên đây, sự khác biệt chỉ có tính cách Giáo Luật, mở rộng tầm mức tôn kính từ chỗ nhiệm ý đến mức bó buộc và phổ quát. Nhưng đó là nói theo nguyên tắc đặt ra hồi thế kỷ XVII, chứ ngày nay không còn giá trị mấy nữa, nhất là từ sau Công Đồng Vaticanô II.
Thực vậy, lịch phụng vụ phổ quát được cải tổ sau công đồng đã quyết định giảm thiểu các ngày kính các thánh, bởi vì muốn chú trọng hơn vào Đức Kitô. Do đó, lịch phổ quát chỉ kính những thánh nào nổi tiếng hoặc vì tượng trưng những vùng khác nhau trên thế giới.
Bây giờ đi vào câu hỏi đã nêu. Thủ tục phong thánh hiện nay chỉ đòi thêm một phép lạ nữa. Như vậy là không cần phải mở lại hồ sơ về việc thực hành các nhân đức anh hùng. Hồ sơ nay đã đóng với việc phong chân phước. Vì vậy mà tôi mới nói là vị hiển thánh không thánh thiện hơn chân phúc tí nào hết.
Để kết thúc mục giải đáp này, thiết tưởng nên nói qua những dự án cải tổ thủ tục phong thánh mà một số học giả đã nêu lên từ Công Đồng Vaticanô II.
1/ Có tác giả đề nghị trở lại với tập tục của thiên niên kỷ thứ nhất, nghĩa là để cho mỗi Giáo Hội địa phương thiết lập danh sách các phúc nhân, không cần sự can thiệp của Tòa Thánh. Tôi nghĩ rằng đề nghị này khó chấp nhận.
2/ Một đề nghị khác yêu cầu loại bỏ hồ sơ phép lạ khỏi thủ tục phong thánh, nghĩa là sau khi hoàn tất hồ sơ nhân đức anh hùng thì công bố chân phúc ngay. Điều này vẫn còn được tranh luận.
3/ Một ý kiến khác (xem ra thực tế hơn) là trở lại với thời buổi thủ tục phong thánh mới ra đời hồi thế kỷ XIII, nghĩa là loại bỏ sự phân biệt giữa chân phúc và hiển thánh. Khi đã hoàn tất các hồ sơ thì phong thánh luôn, khỏi cần phong chân phước nữa. Ý kiến này xem ra đang được nghiên cứu kỹ lưỡng, bởi vì ngày nay sự phân biệt giữa chân phước và hiển thánh không còn rõ rệt nữa. Việc phong thánh không tăng gia gì thêm danh giá cho tôi tớ Chúa: ở đâu mà người ta đã tôn kính vị đó thì họ vẫn tiếp tục trước và sau khi phong thánh; còn ở đâu mà người ta không kính thì sau ngày phong thánh cũng chẳng thay đổi thái độ.
Cách riêng, nghi thức phong chân phước và nghi thức phong thánh chỉ khác nhau về vài chi tiết thứ yếu. Trước Công Đồng Vaticanô II thì nghi thức rất khác nhau. Trong nghi thức phong chân phước, thì Hồng y tổng trưởng đọc sắc lệnh của đức thánh cha trong một thánh lễ do một chức sắc giáo triều chủ toạ, không có sự hiện diện của đức thánh cha. Còn trong nghi thức phong thánh thì chính đức thánh cha chủ toạ. Thế nhưng từ năm 1971 trở đi, đức thánh cha đích thân chủ sự thánh lễ trong đó người đọc công thức phong chân phước và phong thánh. Điều này làm cho các tín hữu không nhận thấy sự khác biệt giữa hai nghi thức nữa. [Lưu ý: Từ năm 2005, Đức Bênêđictô XVI đã trở lại tập tục cổ truyền: người chỉ chủ toạ lễ nghi phong thánh; còn lễ nghi phong chân phước được uỷ thác cho Hồng y Tổng trưởng bộ phong thánh]
Trước khi trả lời các câu hỏi, tôi muốn nêu lên một nhận xét về từ ngữ.
Ở miền Bắc, người ta nói đến “thánh quan thầy”, còn trong Nam người ta nói “thánh bổn mạng”. Theo Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn Ngữ Học, quan thầy là “kẻ có thế lực, dùng kẻ khác làm tay sai để làm những việc phi nghĩa, trong quan hệ với tay sai của mình” (như vậy là nghĩa tiêu cực rồi), nhưng chúng ta không thấy từ “bổn mạng”, có lẽ bởi vì từ ngữ này chỉ lưu hành trong Nam mà thôi; ở ngoài Bắc, hạn từ tương đương là “bản mệnh” được định nghĩa là “số mệnh của bản thân mỗi người”.
Cũng nên biết ngoài Bắc, người ta cũng nói đến “thiên thần bản mệnh”, còn trong Nam thì gọi là “thiên thần hộ thủ”. Trong tiếng La Tinh, thiên thần hộ thủ hay bản mệnh là “angelus custos” (có nghĩa là vị thiên sứ “gìn giữ”, “canh phòng”), còn thánh bổn mạng hoặc thánh quan thầy là “sanctus patronus”.
Patronus có nghĩa là người bảo trợ, che chở (cùng một gốc với pater là người cha), được dùng để gọi ông chủ của các gia nhân và nô lệ, hoặc là kẻ đỡ đầu bênh vực trong một vụ kiện. Không hiểu vì sao ngoài Bắc người ta không nói “thánh bản mệnh”.
Sau nhận xét thứ nhất về từ ngữ trong tiếng Việt, tôi xin thêm nhận xét thứ hai trong các ngôn ngữ châu Âu. Bên Việt Nam, người ta nhận một vị thánh vào lúc rửa tội, và gọi là thánh “bổn mạng” (hay“quan thầy” ), để xin người cầu bầu che chở, và phần nào cũng trở nên mẫu gương nhân đức.
Lấy tiêu chuẩn gì để chọn thánh bổn mạng? Có khi người ta dựa theo tục lệ, thí dụ trong một gia đình hay xứ đạo, tất cả các người nam đều nhận thánh Giuse, (hoặc Phêrô, Phaolô, vv.), và tất cả các người nữ đều mang tên thánh là Maria (hoặc Anna, Têrêsa, vv). Có khi người ta nhận tên thánh của người đỡ đầu, hoặc của cha xứ, hoặc do lòng sùng kính đối với vị ấy. Dù sao, tên thánh được ghi vào sổ rửa tội, nhưng không xuất hiện trên giấy chứng minh nhân dân hoặc hộ chiếu, và dĩ nhiên là chỉ có những người theo đạo Công Giáo mới nhận tên thánh.
Bên châu Âu thì khác, tên thánh cũng là tên riêng và được ghi vào các giấy tờ hành chánh, thí dụ Karl Marx: Marx là họ, Karl tên riêng, tức là Thánh Carôlô (cũng giống như tên của Đức Gioan Phaolô II: Karol Wojtyla).
Lấy tiêu chuẩn gì đặt tên? Nhiều tiêu chuẩn lắm, và ta thấy có một điều trái ngược giữa văn minh Âu Tây và văn minh Đông Phương ở chỗ là bên Tây người ta lấy tên của bố mẹ, ông bà, cô bác để đặt cho con cháu (thí dụ hai vị tổng thống Hoa Kỳ Georges Bush bố và Georges Bush con), đang khi bên Đông thì tuyệt đối cấm không được réo tên của cha ông (vì như vậy là bất kính). Dù sao, thì không hề có chuyện là tất cả mọi người nam trong một gia đình hay trong một làng đều mang một tên thánh như là ở Việt Nam mình, bởi vì vị thánh đó là tên riêng chứ không phải là thánh bổn mạng.
Bên Ý, ngày lễ kính thánh mà mình mang tên được gọi là “festa onomastica” nghĩa là ngày mừng tên riêng (onoma tiếng Hy Lạp có nghĩa là tên, cùng gốc với nomen trong tiếng La Tinh), tuy rằng ngày nay, người ta mừng lễ sinh nhật hơn là mừng lễ tên thánh.
Có chứ, nhưng người ta mừng lễ thánh bổn mạng của cộng đoàn, chứ không phải của cá nhân. Bổn mạng của cộng đoàn bao gồm nhiều thực thể lắm: có thể là một làng, một thành phố, một quốc gia, một nghề nghiệp, một giáo xứ, một giáo phận, một dòng tu. Chúng ta có thể lấy một thí dụ cụ thể là đài Vatican nhận thánh Gabriel làm bổn mạng, bởi vì Thiên Sứ Gabriel truyền tin cứu độ cho Đức Maria, cho nên được chọn làm bổn mạng của những người có nhiệm vụ truyền thông tin tức.
Cách đây mấy tháng, chúng ta bế mạc năm linh mục kỷ niệm Thánh Gioan Vianney: người được đặt làm bổn mạng các cha xứ bởi vì người đã từng là một cha xứ gương mẫu. Hiểu như vậy, ta thấy hầu như ngành nghề nào cũng nhận một vị thánh bổn mạng từ một vị nào đó có dính dáng đôi chút với lãnh vực chuyên môn. Chẳng hạn như: các hoạ sĩ nhận Thánh Luca (bởi vì tục truyền người đã vẽ nhiều bức tranh), các thợ mộc nhận thánh Giuse vì lý do dễ hiểu, các ngư phủ nhận Thánh Phêrô tông đồ, các nhạc sĩ nhận thánh Cêcilia (mặc dù cơ sở lịch sử không được mạnh cho lắm), cũng tương tự các tài xế nhận thánh Cristophorô (tục truyền ông đã cõng Chúa Giêsu qua sông), vân vân.
Đúng vậy, và thường các lễ bổn mạng của các địa phương được mừng trọng thể hơn là các thánh bổn mạng của nghề nghiệp, bởi vì lễ bổn mạng của một địa phương thường do nhà cầm quyền dân chính hoặc giáo quyền tổ chức, và có sự tham gia của đông đảo dân chúng.
Như đã nói trên đây, cộng đoàn địa phương có thể là một giáo xứ, một giáo phận, hoặc một quốc gia, và gần đây, kể cả một đại lục nữa, như ta thấy trường hợp của châu Âu. Năm 1964, ĐTC Phaolô VI đặt Thánh Biển-đức làm bổn mạng châu Âu, bởi vì các đan sĩ của dòng đã góp phần rất lớn vào công cuộc rao giảng Tin Mừng cho đại lục cũng như trong việc bảo vệ các kho tàng văn hoá trước những cuộc xâm lăng của ngoại bang.
Kế đó, vào năm 1980, Đức Gioan Phaolô II thêm hai Thánh Cirillo và Mêtôđiô, bởi vì hai vị này đã có công trong việc truyền giảng Tin Mừng cho các dân tộc Đông Âu và đã sáng chế chữ viết cho họ.
Sau cùng, vào lúc khai mạc Thượng Hội Đồng Giám Mục châu Âu (ngày 1/10/1999), Đức Gioan Phaolô II thêm ba vị thánh nữ: Birgitta nước Thuỵ điển, Catarina Siena (nước Ý), Edith Stein (nước Đức, gốc Do Thái): cả ba đã góp phần vào việc kiến thiết sự thống nhất châu Âu. Đối với châu Mỹ, vào ngày 23/1/1999, Đức Gioan Phaolô II đặt Đức Mẹ Guadalupe làm bổn mạng.
Có nhiều tiêu chuẩn. Tiêu chuẩn đơn giản nhất là nguyên quán, nghĩa là bởi vì thánh có liên hệ máu mủ với người dân địa phương, hoặc người đã đến truyền giáo tại đây. Giả như Giáo Hội Việt Nam nhận các thánh tử đạo làm bổn mạng thì đó là điều hiển nhiên; nước Ấn Độ nhận Thánh Phanxicô Xavier làm bổn mạng bởi vì không những thánh nhân đã đặt chân đến đây mà còn bởi vì thi hài của người được an táng tại Goa. Thánh Giuse được cha Đắc Lộ nhận làm bổn mạng nước Việt Nam bởi vì cha đã cập bến Cửa Bạng vào ngày lễ của thánh nhân.
Không, một linh mục không có thẩm quyền đặt một vị thánh làm bổn mạng cho cả một quốc gia. Quyết định nhận thánh Giuse làm bổn mạng được công đồng Đàng ngoài họp tại Phố Hiến ngày 16/2/1670 do đức cha Lambert de la Motte chủ toạ đã đề nghị lên Toà Thánh đặt thánh Giuse làm bổn mạng địa phận Đàng ngoài, và đề nghị này được đức thánh cha Clêmentê X chấp thuận (tông hiến Apostolatus Officium ngày 23/12/1673). Nên biết là cũng vào năm 1670 đức cha Lambert de la Motte đã đặt thánh Giuse làm bổn mạng dòng Mến Thánh Giá.
Thực ra khi trở lại lịch sử Giáo Hội, thì thẩm quyền đặt thánh bổn mạng mới được Giáo Luật xác định từ năm 1630 dưới thời đức thánh cha Urbanô VIII. Trước đó, nhiều khi chính quyền địa phương cũng đặt thánh bổn mạng, nhưng sắc lệnh của đức Urbanô VIII dành riêng cho Tòa Thánh việc phê chuẩn.
Nên biết là trong Giáo Luật cũ, lễ thánh bổn mạng của một địa phương được cử hành trọng thể và trở thành lễ buộc. Sau Công Đồng Vaticanô II, bộ Phụng tự đã duyệt lại quy định bằng một văn kiện ban hành ngày 19 tháng 3 năm 1973, quy định thể thức nhận thánh bổn mạng, có thể tóm vào 5 điểm sau đây:
1/ Có thể chọn Đức Mẹ, các thiên thần và các thánh làm bổn mạng, nhưng không được chọn Thiên Chúa; việc chọn các chân phúc cần phải xin phép trước. Theo quy tắc mỗi cộng đoàn chỉ được chọn một vị bổn mạng. Việc lựa chọn có thể khởi sự từ cuộc vận động, thăm dò ý kiến, trưng cầu dân ý, nhưng tiến trình pháp lý chính thức bắt đầu với hai thẩm quyền: chuẩn y và công nhận.
2/ Thẩm quyền chuẩn y đề nghị (approbatio) là giám mục nếu là bổn mạng giáo phận, hội đồng giám mục nếu là giáo tỉnh, miền, quốc gia; tỉnh hội nếu là bổn mạng tỉnh dòng, tổng hội nếu là bổn mạng của toàn dòng. Thẩm quyền chuẩn y của các pháp nhân khác (thí dụ các hiệp hội, phong trào, cơ quan) thì thuộc Tòa Thánh.
3/ Thẩm quyền công nhận (confirmatio) là Bộ Phụng tự. Hồ sơ xin công nhận gồm có đơn thỉnh cầu, biên bản những cuộc trưng cầu ý kiến hoặc đề nghị.
4/ Văn thư công nhận có thể là nghị định cho Bộ trưởng bộ Phụng tự ký, nhưng trong trường hợp đặc biệt, có thể là một tông thư của đức thánh cha.
5/ Sau cùng, về cách thức mừng lễ bổn mạng: nếu là bổn mạng của một địa phương, làng, thành phố, dòng tu thì được cử hành như “Lễ trọng”; nếu là bổn mạng của giáo phận, giáo tỉnh, tỉnh dòng thì được cử hành như “Lễ kính”.