của Trí Dũng
Sân ga chiều nay vắng bóng người. Có phải vì cơn mưa nhẹ phảng phất bao nỗi niềm tâm sự? Hay tại khung cảnh của buổi chiều mưa trên bến sân ga? Có lẽ tình và cảnh như hòa quyện vào nhau nên mình bỗng dưng thấy nao nao lòng, nên tâm hồn mình như chìm vào giai điệu lời ca của nhạc sĩ họ Trịnh: “người nằm co như loài thú”? Chợt nhìn xung quanh, thấy ở góc lối dẫn vào nhà ga, có hai người đang nằm co ro trong túi ngủ.
Hình ảnh ấy làm mình nhớ lại những dịp ghé Paris, mình cũng thường thấy những người nằm co bên lề đường hay dưới hầm tàu điện ngầm. Lúc đầu, mình tự hỏi sao những người ấy lại sống vô gia cư? Tại sao một đất nước phồn thịnh lại có những hình ảnh con người “co ro” như thế? Mình cũng “chạnh lòng” bỏ vài xu vào cái đĩa. Nhưng xem ra họ dửng dưng, mắt dõi nhìn vào chốn xa xăm nào đó như thể mình không có đó. Sau này mình được nghe giải thích rằng, họ thích sống tự do như thế! Có cho tiền họ thì núi cũng phải lở! Từ đó, mình không còn hình ảnh “tốt” về “người nằm co” nữa.
Ngồi nghĩ suy về hình ảnh những “người nằm co” kia, chợt mình liên tưởng đến hình ảnh của “người nằm co” trong Kinh Thánh. “Một người kia từ Giêrusalem xuống Giêrikhô, dọc đường bị rơi vào tay kẻ cướp. Chúng lột sạch người ấy, đánh nhừ tử, rồi bỏ đi, để mặc người ấy nửa sống nửa chết”(Lc 10,30). Khi nhớ tới con người đáng thương ấy, mình không quên người Samaria nhân hậu. Ông đi đường và gặp kẻ xấu số đó. Ông chạnh lòng thương nên liền vội “lại gần, lấy dầu lấy rượu đổ lên vết thương cho người ấy và băng bó lại, rồi đặt người ấy trên lưng lừa của mình, đưa về quán trọ mà săn sóc. Hôm sau, ông lấy ra hai quan tiền, trao cho chủ quán và nói: Nhờ bác săn sóc cho người này, có tốn kém thêm bao nhiêu, thì khi trở về, chính tôi sẽ hoàn lại bác (Lc 10,33-35).Đúng là “người nằm co” tội nghiệp đầy thương tích ấy đã gặp may, bởi vì trước đó có hai vị tư tế gặp thấy người này nhưng đều “làm ngơ”.
Vậy là sao? Phải chăng có cái gì đó như là khoảng cách giữa lý thuyết và thực hành? Khoảng cách ấy càng lớn hơn giữa việc nghe Lời Chúa và thực thi Lời Người? Làm sao hai vị tư tế “con nhà đạo” lại có thể dửng dưng trước kẻ đang ở vào hoàn cảnh đáng thương? Không biết hai ông có “nghĩ lại” về hành động của bản thân? Nhưng nếu mình ở địa vị của hai ông, thì mình có cư xử giống họ không? Có một vị tu sĩ kể lại kinh nghiệm này: hôm ấy, ông giảng bài Tin Mừng về người Samaria nhân hậu. Trước giờ lễ, ông bảo một cộng tác viên hóa trang thành người bị thương tích, rồi nằm ở trước cửa nhà thờ. Sau khi Thánh Lễ kết thúc, mọi người ra về, và thật ngạc nhiên có tới 99% số người nghe bài Tin Mừng hôm ấy chẳng hề để ý gì đến “người bị thương” ấy! Chắc hẳn mình cũng nằm trong thành phần 99% số người đó, tuy không vô cảm với Lời Chúa, nhưng mình thiếu nhạy cảm trong việc thực hành Lời Người. Mình có thể chìm sâu trong suy niệm Lời Người, hiểu biết Lời Người nhiều hơn… nhưng bảo phải bắt tay làm những gì Lời Người truyền dạy thì mình như e ngại, thoái thác, viện đủ lý do để “hoãn thi hành nghĩa vụ” đối với Chúa và anh em.
Thầy Giêsu kể câu chuyện về người Samaria nhân hậu là để trả lời câu hỏi của một người thông luật “ai là người thân cận của tôi?”. Sau khi kể xong câu chuyện ấy, Thầy Giêsu hỏi ông thông luật: “Vậy theo ông nghĩ, trong ba người đó, ai đã tỏ ra là người thân cận với người đã bị rơi vào tay kẻ cướp?” Người thông luật trả lời: “Chính là kẻ đã thực thi lòng thương xót đối với người ấy”. Ðức Giêsu bảo ông ta: “Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy” (Lc 10,36-38). Khi nghe xong câu chuyện ấy, ông thông luật kết luận nhanh chóng ai là người thân cận của kẻ nằm co: đó là “kẻ đã thực thi lòng thương xót đối với người bị cướp”. Mình dễ dàng đồng ý ngay với ông thông luật. Mỗi câu chuyện cảm động nào đó luôn khiến người nghe có những kết luận nhanh chóng đâu là thật và đâu là giả, đâu là đúng đâu là sai… Nhưng Thầy Giêsu không dừng lại ở những kết luận suông ấy, mặc dù chúng phát sinh từ chính sự “nghiệm” ra của người nghe. Thầy muốn người nghe câu chuyện phải thực hành: “hãy đi và làm như vậy”. Câu chuyện kết thúc ở đây. Ông thông luật ấy có làm theo lời Thầy Giêsu không? Hai vị tư tế đã bỏ đi khi thấy “người nằm co” bên vệ đường; người Samaria thì ở lại chăm sóc kẻ khốn khổ ấy. Còn ông thông luật? Còn mình? Ở đây, “người nằm co” đã đặt ra hai thái độ chọn lựa khác biệt: từ chối hoặc đón nhận. Mình chọn thái độ nào đây?
Về mặt lý thuyết, dĩ nhiên mình sẽ chọn thái độ của người Samaria. Tuy nhiên, về mặt thực hành, chọn lựa thì quả không dễ dàng gì, bởi vì hành vi ấy cùng lúc thực hiện hai nhiệm vụ: từ bỏ và phiêu lưu. Từ bỏ điều vốn dĩ quen thuộc với mình, gắn bó với mình sâu đậm, là sự an toàn của bản thân và dường như là một phần cuộc đời mình nữa. Cho nên, từ bỏ đòi hỏi nhiều can đảm lắm. Rồi sau khi quyết định từ bỏ điều đó để chọn điều ý nghĩa nhất đối với bản thân mình thì mình cũng phải thực hiện điều mình chọn ấy, nghĩa là biến nó thành hiện thực. Và đây là cuộc phiêu lưu nó dẫn mình đến nơi mình không bao giờ biết trước. Cuộc phiêu lưu này không hề có chỉ dẫn, cũng chẳng thấy có dấu hiệu nào báo trước việc mình làm sẽ sớm hoàn thành. Khởi đầu cuộc phiêu lưu là lên đường, thế thôi! Do vậy, chọn lựa sẽ khiến mình khổ gấp đôi, khổ vì phải từ bỏ và khổ vì không biết con đường phía trước mình sẽ đi.
Thế nên, mình cần phải tìm an bình trước khi quyết định chọn lựa. Tại sao? Bởi vì, nếu không có bình an, sự chọn lựa của mình sẽ phát sinh những xung đột nội tâm lớn chúng làm cho mình không thể vững tin vào quyết định chọn lựa của mình. Chẳng hạn hằng ngày, mình luôn nghe thấy những tin tức thế giới chuyển tải toàn nội dung khổ đau. Thiên tai, lũ lụt, bệnh tật, đói nghèo đã phác họa nên bức tranh thảm sầu về thế giới con người. Mình muốn ra đi giúp đỡ người nghèo, bệnh tật, ốm đau, như đúng tinh thần Phúc Âm mà mình đã hấp thụ từ lâu. Tại sao tôi được yên ấm ở đây trong khi có nhiều người ngoài kia đang cần đến sự giúp đỡ ? Tại sao tôi có thể hài lòng với cuộc sống an bình trong khuôn viên nhà dòng này được khi mà quanh tôi còn biết bao hoàn cảnh đáng thương ? Sao tôi không đến với họ, giúp đỡ họ, nâng đỡ họ ? Sao tôi lại ích kỷ đạo đức thế ? Những câu hỏi đó làm cho tâm hồn mình bị giằng xé, không còn bình an nữa.
Vậy làm thế nào có được bình an trước khi quyết định chọn? Trước tiên, mình phải thừa nhận rằng có một “người nằm co” đang ở trong tâm hồn mình. “Người nằm co” ấy đang bị thương nặng do các cuộc xung đột nội tâm: giữa lý tưởng và thực tế, giữa tình và lý, giữa các luồng tư tưởng hay ý nghĩ trong tâm trí mình… Mình sống trong sự xung đột, trong sự phân tranh giữa hai lực lượng ở hai chiến tuyến đó thì chẳng tránh khỏi bị chúng gây nên “những vết thương lòng”. Cho nên “người nằm co” ấy cần được chữa trị. Mình không thể dửng dưng bỏ “người nằm co” ấy để theo đuổi những việc bên ngoài. Và đây là bước tiếp theo: mình phải tiếp xúc với “người nằm co”. Mình phải nhận chân rõ đâu là lý tưởng, đâu là thực tế; chỗ nào là tình, chỗ nào là lý; ý nghĩ nào là tiêu cực, ý nghĩ nào là tích cực… Điều đó cũng có nghĩa mình phải“lại gần, lấy dầu lấy rượu đổ lên vết thương cho “người nằm co” ấy và băng bó vết thương lại”.
Như thế, mình chỉ có thể “băng bó những vết thương” cho “người nằm co” đang sống quanh mình khi mình biết “băng bó những vết thương” cho “người nằm co” đang hiện diện trong con người mình. Làm được điều đó tức là mình đã nối thành công mối dây liên kết giữa lý thuyết và thực hành, giữa việc nghe Lời Chúa và thực thi Lời Người. Mối dây liên kết ấy có lẽ ví như đoàn tàu đang đưa mình đi từ thành phố này đến thành phố nọ vậy.