(Đoạn trích Kinh Thánh: TĐCV 1:12-14)
Trong nguyện đường của North American College, khi cầu nguyện và xem lễ buổi sáng tôi thường ngồi bên phía có tòa giảng. Lý do thật đơn giản. Vào khoảng thời gian đó trong ngày, tôi cần tập trung tư tưởng. Ngồi phía này tôi có thể nhìn thẳng lên bức tranh Truyền Tin to lớn vẽ ở trên tường, và đối với tôi, việc tập trung vào Đức Maria và Thiên Thần Gabrien cung cấp cho tôi “sự cấp cứu,” đích điểm tôi cần. Theo sử gia về nghệ thuật Kenneth Clark, cảnh Truyền Tin là cảnh thường được thấy nhất trong lịch sử hội họa, do đó hiển nhiên là không chỉ có một mình tôi mới thấy nó hấp dẫn.
Khi tôi hỏi ba chủng sinh vừa từ Đất Thánh trở về trong cuộc hành hương rằng nơi nào khiến họ cảm động nhất, tuy trả lời riêng rẽ họ đều cho biết, “Nhà Thờ Truyền Tin ở Nagiarét,” và, nhất là dấu ấn ở trên sàn, Hic Verbum caro factum est (”Ở đây Ngôi Lời đã hóa thành Nhục Thể”)
Vì vậy, một lần nữa, tôi thấy mình không lẻ loi khi bị thu hút bởi biến cố Truyền Tin. Martin Luther viết, “Biến cố Truyền Tin, khi thiên thần đến với Đức Maria và đem cho người sứ điệp của Thiên Chúa, có lẽ thích hợp để gọi là lễ về nhân tính Chúa Kitô, vì sau đó chúng ta bắt đầu được giải thoát.”
Sự Nhập Thể; mầu nhiệm chủ yếu của Kitô Giáo; “tin mừng”—đó là Thiên Chúa trở nên một con người, Ngôi Lời hóa thành nhục thể, Ngôi thứ hai trong Ba Ngôi Thiên Chúa tự mặc lấy bản tính con người trong lòng của một trinh nữ. Chính chân lý đó cung cấp cho tôi một trọng điểm vào mỗi buổi sáng, chính cảnh Trinh Nữ đó đã nhắc nhở tôi về căn tính, ơn gọi, và nhiệm vụ của tôi khi khởi sự một ngày mới.
Vì, như Đức Fulton Sheen từng giảng thật hay, tin mừng thực sự là sự Nhập Thể vẫn tiếp tục, khi Ngôi Lời Thiên Chúa được trở thành máu thịt mỗi ngày trong tâm trí, trong lời nói và hành động của các môn đệ Chúa. Như thế các linh mục rất giống với Đức Maria, vì câu hỏi căn bản được đặt ra cho họ, câu trả lời mà qua đó đem lại căn tính, ơn gọi và nhiệm vụ cho họ thì rất giống với câu hỏi được đặt ra cho Đức Maria trong khi Truyền Tin: Cô có đồng ý đem xương thịt cho Con Thiên Chúa không? Liệu Thiên Chúa sẽ trở nên loài người qua con người của cô không? Cô có cung cấp cho Thiên Chúa Con bản tính loài người không? Khi tôi ngồi nhìn lên Đức Maria, nhiệm vụ, căn tính, và ơn gọi của tôi là một linh mục lại được tái khẳng định; tôi được nhắc nhở rằng trong một vài phút nữa đây, ở bàn thờ, về phương diện bí tích tôi sẽ cung cấp máu thịt cho Chúa, và tôi quyết tâm rằng trong suốt ngày hôm nay, với sự giúp đỡ của Người, Chúa sẽ lại nhập thể cho dân Người trong tôi và qua tôi.
Kể từ khi các linh mục đầu tiên đưa Đức Maria về sống với họ sau khi Thăng Thiên để chờ đợi lễ Hiện Xuống trong nhà tiệc ly, thì các linh mục của giao ước mới cũng luôn vui hưởng sự tương giao đặc biệt với Mẹ của Thượng Tế Đời Đời, điều đó có đáng ngạc nhiên không? Chính sự sùng kính Đức Mẹ trong cuộc đời linh mục mà tôi muốn đề cập.
Việc cổ vũ lòng yêu mến Đức Mẹ sẽ không thiếu thực tế và không lý thuyết suông. Tôi đưa ra tình yêu sâu đậm như con thảo đối với Đức Maria như một phương cách thực tiễn và hợp lý để luôn trở nên một linh mục trung tín và có kết quả. Tôi có thể nói rất thành thật rằng mọi linh mục làm gương cho tôi đều có một sự tín thác không lay chuyển vào Mẹ Maria; và tôi phải thú nhận rằng, khi tôi hỏi các “nhân vật phi thường” trong các anh hùng linh mục cho biết lý do về sự thành công của họ, tất cả đều coi việc trông cậy vào Mẹ Maria như đứng gần hàng đầu.
Có lần tôi tham dự ngày cầu nguyện cho các linh mục của Chị Bridge McKenna, và chị thúc giục chúng tôi hãy yêu mến Đức Maria như con cái của người. Chị nói, “Không ngạc nhiên gì, các linh mục quý vị gần với người, vì quý vị cũng như người nhìn đến Chúa Giêsu--trước kia người ở mặt đất và bây giờ trên thiên đàng, và quý vị, trong Thánh Lễ--và cả hai đều nói, mà không ai có thể nói được rằng, 'Đây là mình tôi; đây là máu tôi'.”
Khi nhìn chung trường North American College, tôi thấy có nhiều lý do để cảm tạ Thiên Chúa, và một trong những lý do hàng đầu là sự sùng kính đầy sức sống đối với Đức Mẹ. Điều này từng nổi tiếng trong chủng viện của chúng tôi vì nó được thành lập vào ngày lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội năm 1859. Tôi thật vui mừng khi thấy các chủng sinh cùng nhau lần chuỗi Mai Khôi, mừng các lễ về Đức Mẹ, hăng say hành hương các đền Đức Mẹ, và phát động các việc đạo đức như hành động hoàn toàn tận hiến cho Mẹ. Như tôi thường nhắc nhở các tân chủng sinh vào ngày đầu tiên ở trường, vai trò của Đức Maria trong trường thì trổi vượt và rõ ràng như bức khảm đằng sau bàn thờ, và sự chân thành sùng kính Mẹ là một đặc điểm của đời sống chủng viện ngay tự ngày đầu.
Tương tự như vậy, Thành Thánh cũng ấp ủ một tình yêu cho Mẹ; từ các bích họa cổ xưa ở các hang toại đạo đến nhà thờ Đức Bà Cả và Santa Maria ở Trastevere; từ Salus Populi Romant đến Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp của Thánh Anphong; từ các buổi lễ ở giáo xứ và địa phương đến các bức ảnh Đức Mẹ hầu như trang hoàng mọi góc cạnh của thành phố--Mẹ đều ở đó.
Và sau đó, dĩ nhiên, một gương mẫu sáng ngời của Đức Giám Mục Rôma, là người, có lẽ hơn ai hết, đã làm sống lại sự sùng kính Mẹ Maria (*). Lòng yêu mến Mẹ Maria một cách kiên cường, chân thật, theo tinh thần Phúc Âm của đức giáo hoàng được thấy trong mọi bài diễn văn, thông điệp, lời nói, cuộc thánh du, và hoạt động tông đồ của triều đại giáo hoàng đặc biệt của người. Lời kết trong thông điệp “Ơn Sủng và Mầu Nhiệm” của đức giáo hoàng có thể dùng như một dẫn giải về toàn thể nhiệm vụ chăn dắt của người: “Xin Đức Trinh Nữ Maria chấp nhận lời chứng này như một sự tôn kính của người con, để vinh danh Ba Ngôi Thiên Chúa. Xin Mẹ làm cho lời chứng ấy sinh hoa kết quả trong tâm hồn của các anh em linh mục và mọi phần tử của Giáo Hội. Xin Mẹ làm cho lời chứng ấy trở nên men đoàn kết cho nhiều người thiện tâm, tuy họ không chia sẻ cùng đức tin, nhưng thường lắng nghe lời con và chân thành đối thoại với con.”
Chúng ta có thể xác nhận rằng niềm hy vọng của Đức Gioan Phaolô II đã được hoàn tất.
Một lần nữa, tôi cảm tạ Thiên Chúa vì sự sùng kính sốt mến đối với Đức Mẹ mà trường chúng ta được chúc phúc. Và, vì chủng viện thường là thế giới tiểu vi của Giáo Hội hoàn vũ, chúng ta không ngạc nhiên khi Giáo Hội--thật vậy, toàn thế giới—đang cảm nghiệm sự canh tân lớn lao về sự lưu ý và sùng kính đối với Mẹ. Bạn khó có thể tìm thấy một dụng cụ nào để đo lường chiều hướng thế giới tốt cho bằng tờ báo Life, và, có lẽ bạn biết là hình của Mẹ được in ngay trang bìa của số tháng Mười Hai, 1996. Trong một bài báo khá đầy đủ họ cố gắng khám phá ra điều họ gọi là “bí ẩn của Đức Maria”, để kết luận rằng sự thu hút đến Mẹ là một trong những động lực mạnh mẽ nhất thế giới, không chỉ thu hút người Công Giáo và Chính Thống Giáo như thường lệ, mà còn người Hồi Giáo, Tin Lành, Do Thái Giáo, và cả những người không thuộc giáo phái nào.
Cho phép tôi đề cập đến lịch sử đôi chút để nhận xét rằng, trong trí nhớ của nhiều người, sự sùng kính Đức Maria đã không thường phổ thông như bây giờ. Trong những năm hồ hởi, gay go, thu dọn sau Công Đồng Vatican II, nhiều người cảm thấy rằng phong trào Cải Cách không ưa thích gì Đức Maria đã kéo dài đến tận Rôma, và sau cùng Mẹ đã bị loại bỏ trong nhà kho và bảo tàng viện. Có những lời kêu gọi hãy lưu ý đến Đức Maria một cách hợp lý, điềm tĩnh, phù hợp thần học, và sáng suốt. Ngay cả một số người bắt đầu chế nhạo lòng hiếu thảo đối với Đức Maria. Như tôi sẽ giải thích sau đây, có lẽ một số cải cách này thì cần thiết và ngay cả có ích, nhưng bây giờ chúng ta thấy một tình yêu trìu mến đối với Mẹ Chúa Giêsu thì thật mạnh mẽ và ăn sâu trong tinh thần Kitô Giáo đến độ không thể tẩy xóa được. Như Đức Hồng Y Carlo Martini mới đây nhận xét với các linh mục ở Milan: “Tôi tin rằng đã đến lúc phải có cái nhìn mới mẻ về việc sùng kính Đức Maria, để tìm ra một sự quân bình giữa thần học sáng tỏ và tình thương mến của người tín hữu Kitô. Nói cách khác, có thể chúng ta phải đương đầu với nguy cơ mất mát sự nồng ấm và xúc động trong đức tin, trong lời cầu nguyện và trong đời sống chúng ta.… Chúng ta đã đến thời điểm mà thái độ lạnh lùng, khoa học không còn đáp ứng được nhu cầu xúc cảm hiển nhiên nhờ gắn bó với Đức Maria.”
Như tôi đã gợi ý, có những thái quá đáng tiếc trong việc canh tân sự sùng kính Đức Maria thời hậu công đồng, nhưng cũng có các thái quá trong việc sùng kính Đức Maria thời tiền công đồng. Hy vọng là tôi không ngây thơ khi đồng ý với đức tổng giám mục Milan rằng có lẽ bây giờ, sau khi đã thấy các thái cực của hai phía, có thể chúng ta được ích lợi từ sự sùng kính đã canh tân và hợp lý đối với Đức Maria mà dường như đang lan tràn trong Giáo Hội ngày nay.
Trong tình yêu đích thực đối với Đức Maria, một bài giáo lý có giá trị là tông thư Marialis Cultis, 1974, của Đức Giáo Hoàng Phaolô VI, nói về thứ tự chính đáng trong việc sùng kính Đức Maria. Sau khi bác bỏ sự sùng kính có tính cách ngọt ngào, đầy cảm xúc, và đáng nghi ngờ về học thuyết của một số phong trào thời trước công đồng, cũng như bác bỏ việc coi thường vai trò trọng yếu của Đức Maria trong những năm cuối thập niên sáu mươi và bẩy mươi, Đức Phaolô VI đã kêu gọi một sự sùng kính đích thật, hăng say đối với Mẹ Maria, một “cultus“ đã được tẩy sạch mọi tì vết thường được gọi là thờ bái Đức Bà, nhưng nhấn mạnh đến vai trò không thể thay thế được của người trong công trình cứu độ.
Đức giáo hoàng đưa ra bốn điểm cần kiểm soát để biết chắc sự sùng kính của chúng ta đối với Mẹ Thiên Chúa thì thuần túy, hợp lý, và trưởng thành; đó là phù hợp với Kitô học, có nguồn gốc kinh thánh, có tính cách phụng vụ và thuộc giáo hội, và nhậy cảm với tinh thần đại kết. Bây giờ tôi đưa ra các điểm đáng duyệt xét lại này khi chúng ta tiếp tục mong muốn sự sùng kính Đức Maria của chúng ta phù hợp với Giáo Hội.
Phù hợp Kitô học: như một châm ngôn xưa có nói, “Ad Jesum per Mariam“ (”Đến với Chúa Giêsu qua Mẹ Maria”). Mục đích duy nhất mà chúng ta chú ý đến Mẹ Maria là để đến với Chúa Giêsu. Nó là sự uyên thâm đơn giản của Công Giáo, một trong những phương cách hữu hiệu, bền bỉ, thích thú và dịu dàng để gần với Chúa Giêsu đó là nắm lấy tay của Mẹ Người. Người phụ nữ mà những lời sau cùng được ghi lại trong Phúc Âm, “Hãy thi hành bất cứ gì Đức Giêsu bảo,” thì phản đối và khinh chê bất cứ toan tính nào đưa người lên trên hay đi trước Con của người.
Có thể nào quá đáng trong sự sùng mộ đối với Mẹ Maria không? Vậy thì, có thể quá đáng trong sự sùng mộ sai lầm đối với Đức Maria chứ! Tuy nhiên, thật khó có thể quá đáng sùng kính Mẹ một cách chân thành, thích hợp. Như Thánh Bernard đã giảng, “Đừng nghĩ rằng chúng ta làm mất đi vinh dự của Người Con bởi chúng ta quá đáng tôn vinh Người Mẹ, vì người càng được vinh dự bao nhiêu, thì Con người càng được vinh dự hơn bấy nhiêu.” Hãy lắng nghe Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nhớ lại sự sùng kính Đức Maria của người trong thời thơ ấu:
Vào lúc ơn gọi đi tu của tôi ngày càng phát triển… một sự thay đổi xảy ra trong sự hiểu biết của tôi về sự sùng kính Mẹ Thiên Chúa. Tôi từng tin rằng Đức Maria dẫn chúng ta đến với Chúa Kitô, nhưng vào lúc đó tôi bắt đầu nhận ra rằng Chúa Kitô cũng dẫn chúng ta đến với Mẹ của Người. Có lúc tôi bắt đầu thắc mắc về sự sùng kính Đức Maria, vì tin rằng, nếu sự sùng kính ấy quá đáng, nó có thể nguy hại đến sự thờ phượng bó buộc đối với Chúa Kitô. Vào lúc ấy, tôi được giúp ích rất nhiều bởi cuốn sách của Thánh Louis Marie Grignion de Montfort, “Treatise of True Devotion to the Blessed Virgin” (Luận thuyết về sự sùng kính đích thật đối với Đức Trinh Nữ). Trong sách đó tôi tìm thấy câu trả lời cho các thắc mắc. Phải, Đức Maria đem chúng ta đến gần với Chúa Kitô hơn; người thực sự dẫn chúng ta đến với Người, nếu chúng ta sống mầu nhiệm của người trong Chúa Kitô… Đây là nguồn gốc của khẩu hiệu Totus Tuus, chữ viết tắt của hình thức phó thác mà phải đọc là: Totus tuus ego sum et omnia mea Tua sunt. Accipio Te in mea omnia. Praebe mihi cor Tuum, Maria. (Con hoàn toàn thuộc về người, và tất cả những gì con có đều là của người. Con đưa người vào mọi sự thuộc về con. Hãy cho con trái tim của người, ôi Đức Maria).
Nếu sự chú ý của chúng ta đối với Đức Maria chỉ dừng ở nơi người, đó là điều sai lầm. Người rất thích là một khí cụ cho một cùng đích, cùng đích đó là được ở với Con của người. Một sự tôn kính Đức Maria đích thật, chân thành, chính thống thì luôn luôn phù hợp Kitô học.
Tương tự, sự sùng kính phải có nguồn gốc kinh thánh, Đức Phaolô VI nói như vậy. Tất cả những gì chúng ta cần cho sự sùng mộ phong phú, bền bỉ đối với Đức Maria thì được tìm thấy trong Kinh Thánh. Điều này không có nghĩa là cả một chuỗi những ngày lễ, danh hiệu, lần hiện ra, kinh kệ, thánh ca, thi phú, và truyền thống của Giáo Hội thì đều sai lạc. Không, chúng cần đón nhận và hữu ích vì xuất phát từ sự mặc khải sinh động của Thiên Chúa về người con gái được chọn của Người mà đã được ghi lại trong Sách Thánh, được trao lại qua Truyền Thống, và được gìn giữ bởi huấn quyền. Một sự sùng kính thuần tuý và đích thật đối với Mẹ Maria thì không lệ thuộc vào những việc hiện ra, những bí mật, những phép lạ và những mặc khải mới. Thomas Merton nói rất đúng, “Vì Thiên Chúa tiết lộ rất ít về Đức Maria, những người không biết chút gì về Chúa và điều mặc khải thì thường thêm vào một số điều mà Thiên Chúa đã cho chúng ta biết về người.”
Sự tôn kính Đức Maria đích thật thì có nền tảng Kinh Thánh.
Thứ ba, sự sùng kính có tính cách phụng vụ và thuộc giáo hội. Phương cách phong phú để Giáo Hội vinh danh Đức Maria thì trong các lời nguyện chính thức của Giáo Hội, trong việc cử hành ngày lễ kính và mãn nguyện với các kinh phụng vụ mà chúng ta đã có. Một lần nữa, những sự sùng kính và lời nguyện riêng tư thì đáng khen ngợi, một khi chúng đưa dẫn chúng ta đến lời ca tụng chung của Giáo Hội, là phụng vụ. Chữ được dùng bởi Đức Giáo Hoàng Phaolô VI là thuộc giáo hội, vì chúng ta đã quá mệt mỏi với những việc sùng kính quá cá nhân và quá đáng.
Sau cùng, Đức Phaolô VI nói, chúng ta phải để ý đến chiều kích đại kết trong sự sùng kính Đức Maria. Về phương diện tích cực, điều này có nghĩa chúng ta phải hăng hái chia sẻ với anh chị em Tin Lành sự phong phú của việc sùng kính đích thật đối với Đức Maria; về phương diện tiêu cực, điều này có nghĩa chúng ta phải nhậy cảm về những băn khoăn canh tân và có tính cách phúc âm được gây nên bởi những sai lầm và quá đáng trong quá khứ.
Nhân đây, một sự phát triển đại kết rất được hoan nghênh, như bạn đã biết, là Kitô Hữu cải cách và duy phúc âm đang từ từ quý mến vai trò của Đức Maria. Một trong những nghiên cứu hiện đại về Đức Maria có ảnh hưởng lớn, như bạn có lẽ đã thấy, là cuốn “Mary Through the Centuries” (Đức Maria qua các thế kỷ) của học giả Jaroslav Pelikan, thuộc giáo phái Luther. Tôi nhớ một vài năm trước đây khi thảm kịch xảy ra với chuyến bay 800 của hãng TWA, Tiến Sĩ Forrest Church, mục sư của nhà thờ All Souls thuộc giáo phái Unitarian, Nữu Ước, nhận định: “Dân chúng thường hỏi, 'Sao Chúa lại để một điều như vậy xảy ra?' Nhưng rồi họ quay về với nhau và cầu nguyện cho nạn nhân, và tôi thấy nhiều người cầu nguyện với Đức Maria… để được giúp đỡ và được nuôi dưỡng. Và tôi muốn nói đến sự nuôi dưỡng trong một phương cách mạnh mẽ, chứ không phải yếu đuối. Người sẽ thay mặt họ đưa những câu hỏi khó khăn của họ lên Thiên Chúa! Người sẽ nâng họ lên và giúp họ tiến bước! Tôi ghen với đạo Công Giáo vì Đức Maria.”
Phải, bạn nghe đó! Đây là từ một người Unitarian!
Do đó, một sự sùng mộ đích thật đối với Đức Maria thì phù hợp với Kitô học, có nguồn gốc kinh thánh, có tính cách phụng vụ và thuộc giáo hội, và trưởng thành về phương diện đại kết.
Bây giờ, hãy đón nhận kho báu của đời sống Kitô Hữu này, là tình yêu của chúng ta đối với Mẹ Thiên Chúa, và xem người có thể giúp đỡ đặc biệt thế nào với các linh mục. Thánh Bernardine ở Siena nhận xét, “'Đây là mẹ của con.' Qua lời này, Đức Maria, bởi tình thương người gánh chịu, trở nên người Mẹ, không chỉ của Thánh Gioan, nhưng của mọi người.”
Anh em thân mến, đó không phải là ích kỷ hay độc quyền để cho rằng tình mẫu tử của người được áp dụng đặc biệt cho các linh mục. Người yêu mến Chúa Giêsu hơn ai hết. Thật có ý nghĩa khi kết luận rằng những ai đồng hình dạng với Con của người qua chức thánh, những ai hành động trong danh Người, được đặc biệt tự nhận người là mẹ chung của họ.
Người ta thường nói phương cách hiển nhiên nhất người giúp chúng ta là qua sự cầu bầu của người. Thánh Philip Neri kết luận: “Không cách nào tuyệt hảo hơn để có được ơn Chúa bằng cách tìm kiếm ơn ấy qua Đức Maria, vì Con của người không thể từ chối người bất cứ điều gì.”
Các linh mục không thể sai lầm khi quay về với người, như Con người đã làm, vị tư tế đầu tiên của giao ước mới. Nhất là trong lúc thử thách, cám dỗ và cô đơn chúng ta có thể tìm thấy trong người một đôi tai biết lắng nghe và một đôi vai êm ái—và, tin tôi đi, tôi biết điều đó từ cảm nghiệm. Bạn sẽ thấy rằng các linh mục nào đang chiến đấu với sự khiết tịnh, điều độ, hồ nghi, tuyệt vọng và bệnh tật đều có một tương giao mật thiết với người. Như thế, hiển nhiên nhất, người giúp chúng ta vì người là đấng cầu bầu mạnh thế. Thánh quan thầy của chúng ta, Cha sở họ Ars, đã giảng, “Chỉ cần quay về với Đức Maria để được nghe Chúa nói với người, 'Mẹ ơi, con không thể từ chối mẹ điều gì.'”
Người Pháp có một câu rất đúng: Nếu muốn biết bí quyết thành công của một người đàn ông, Cherchez la femme (”hãy tìm người đàn bà”). Vậy thì, chúng ta hy vọng chắc chắn là tác vụ linh mục của chúng ta sẽ có kết quả và thành công. Nếu, “hãy tìm người đàn bà”, đó là người đã gây ra điều đó, và người đàn bà đó trong đời sống linh mục là Bà Maria. Như người chồng trở về nhà từ sở làm và trút mọi khó khăn lên vợ ông, thì chúng ta cũng có thể tìm thấy đôi tai lắng nghe và đôi mắt trìu mến khi chúng ta giãi bầy tâm sự với Đức Maria. Tôi không muốn nói đến tình cảm ủy mị ở đây. Tất cả những gì tôi biết là điều đó hữu hiệu, và Chúa Giêsu biết rõ điều Người thi hành khi từ bàn thờ thập giá Người giao phó chính Mẹ của Người cho các linh mục đầu tiên.
Một trong những bạn thân linh mục của tôi thì rất thương mẹ của anh, nhất là sau cái chết của cha anh. Sau khi chồng chết, bà phải chiến đấu với bệnh trầm cảm, và ngay cả phải nằm bệnh viện. Thật cảm động khi thấy bạn tôi âu yếm chăm sóc mẹ anh. Một trong những ngày được nghỉ, anh vội đến nhà bà để thăm hỏi nhưng chỉ để thấy rằng bà đã tự kết liễu đời mình. Bạn có thể tưởng được anh tan nát đến thế nào.
Một vài tuần sau tang lễ, anh tiếp tục chương trình đã được dự định cả năm trước và anh đến Rôma để tham dự cuộc tĩnh tâm cho các linh mục. Đó là thời điểm suy nhược nhất của anh. Chưa bao giờ anh cảm thấy quá cô đơn, quá mồ côi. Anh cho biết, khúc quanh quan trọng xảy đến trong phần cầu nguyện khi một tấm ảnh Mẹ và Con được rước vào sảnh đường. Vào lúc ấy, khi nhìn đến tấm ảnh, được hàng ngàn anh em linh mục vây quanh cầu nguyện, anh mới thấy rằng Đức Maria thật sự là Mẹ của anh. Anh đã cùng với người ở dưới chân thập giá. Anh bật khóc nức nở, và hai linh mục gần đó đã đỡ anh ra ngoài và lắng nghe anh kể lại thảm kịch khi mẹ anh tự tử và chính anh đã khám phá ra Đức Maria vào giây phút trước giờ cầu nguyện. Anh coi tình tiết đó là một khởi đầu cho sự tái sinh tinh thần cho anh.
Bởi thế, người ở đó cho mọi linh mục.
Nhưng tôi dám chắc rằng người còn có thể giúp đỡ chúng ta bằng gương mẫu của người, và tôi có một số thực tiễn trong đầu, một trong những điều đó là không ai có thể bằng người để dậy bảo chúng ta về tính chất trần tục của Giáo Hội. “Đức Maria là đấng cứu độ chúng ta từ một Kitô trừu tượng,” Coventry Patmore nhận xét. Một Thiên Chúa được thụ thai và được ở trong lòng người, được sinh ra trong một chuồng thú vật, được bú mớm từ bầu sữa của người, khóc trên vai người, và lớn lên do sự chăm sóc của người, thì không thể trừu tượng và hão huyền. Cũng vậy, Người—hay Thân Thể Mầu Nhiệm của Người, là Giáo Hội—cũng không luôn luôn ngăn nắp, gọn gàng, có thể đoán trước, và sạch sẽ.
Tuy nhiên, nhiều khi chúng ta mong đợi Giáo Hội luôn như vậy, có phải không? Cha sở của chúng ta phải tuyệt hảo, giáo dân nâng đỡ, đức giám mục luôn luôn lưu ý, Giáo Triều đầy khả năng, sự bài sai thật ly kỳ, chương trình có thể tiên đoán được, và Giáo Hội thì thật thanh khiết và sạch sẽ như mới. Trời đất! Tỉnh dậy đi chứ anh em! Đức Maria sẽ sửa lưng chúng ta! Bạn đang làm việc cho một Thiên Chúa là người không thể kiếm được ngay cả một căn phòng tươm tất cho Con duy nhất của Người, và bạn muốn có một Giáo Hội mà mọi phân công đều lý tưởng hết sao?
Trước đây tôi có trích câu mà Walker Percy viết cho tiểu thuyết gia Mary Lee Settle khi bà trở lại Công Giáo. “Đó là một tổ chức rất bừa bãi mà bạn dính dáng vào.” Như một linh mục có lần nói với tôi khi mới là chủng sinh. “Nếu con muốn tất cả đều lịch sự, sạch sẽ, chỉnh tề, ngăn nắp, hãy gia nhập Anh Giáo.” Có ai nói với tôi rằng, vào lúc trốn sang Ai Cập, Đức Maria đã sẵn sàng gặp lại Thiên Thần Gabrien để từ chối. Không có gì là tiện nghi và thoải mái về bất cứ gì—nó có thể lộn xộn, lôi thôi lếch thếch, trần tục--tất cả đồng nghĩa với “hiện thân,” và khốn cho linh mục nào không nhớ đến điều đó.
Đức Maria dậy chúng ta rằng tinh thần môn đệ, phục vụ Con của người, đem đến điều không chắc chắn. Các linh mục có thể hãnh diện về tiểu sử tóm lược của mình, và vạch ra mọi con đường sự nghiệp. Đức Maria mỉm cười và nói, khi bạn xin vâng với Chúa bạn từ bỏ mọi tiện nghi quý giá nhất của bạn—tương lai và sự an toàn hoạch định cuộc đời. Hãy sẵn sàng để ngạc nhiên, một chút béo bở, một chút cắt tỉa, một chút Bêlem, một chút tình tiết lạc trong đền thờ. Nói cách khác, hãy chuẩn bị cho những điều không chắc chắn.
Mẹ chúng ta cho thấy cần phải trung tín trong những lúc vui cũng như lúc buồn khi sống tinh thần môn đệ. Người ở đó vào giây phút hạnh phúc nhất—đêm Giáng Sinh đầu tiên. Và người ở đó vào giây phút buồn thảm nhất--dưới chân thập giá. Tương tự, đời linh mục chúng ta cũng có Bêlem và Canvê. Người dậy chúng ta bài học, đó là điều xảy ra cho chúng ta thì không quan trọng bằng với ai điều đó xảy ra, vì điều quan trọng hiển nhiên là, ở chiếc nôi hay ở thập giá, người gần gũi với Chúa Giêsu. Đó là trung tín.
Ảnh hưởng của Đức Maria sẽ giảm đi rất nhiều nếu chúng ta chỉ muốn câu chuyện của người ở đêm Giáng Sinh chứ không ở Canvê, chúng ta chỉ muốn Mẹ và Con chứ không muốn Pietà. Bởi đó chúng ta trung thành với Giáo Hội khi còn tươi mát, đầy sức sống và hứa hẹn, sinh động và bặt thiệp—như Hài Nhi ở Bêlem; và chúng ta trung thành với Chúa Kitô và Giáo Hội khi lâm tử, bất động, chảy máu và tan nát—như ở Canvê.
Như châm ngôn có nói, “Thiên Chúa có thể không ưa thích ai đặc biệt, nhưng Mẹ Người thì có.” Đức Maria là một thí dụ tiêu biểu cho sự chăm sóc đặc biệt những người nào đó, có thể nói là người đau yếu, bị lãng quên, nghèo, tội lỗi và gặp khó khăn, và người làm gương cho sự lưu tâm của một mục tử đích thật. Chúng ta gọi người là “đấng an ủi người muộn phiền,” “nơi nương náu của kẻ tội lỗi”, “sức mạnh của người đau yếu,” “sự giúp đỡ người Kitô Hữu”. Như một người mẹ tốt lành luôn chứng tỏ tình thương đặc biệt cho bất cứ người con nào đau yếu, khó khăn, hay bị bỏ rơi, thì Đức Maria cũng vậy đối với các con tinh thần. Tỉ như, hãy đến Lộ Đức, đừng hy vọng tìm thấy những người giầu có, mạnh khoẻ, béo tốt, hay ưu tú, nhưng hãy xem những người quằn quại, méo mó, và bệnh tật thể xác cũng như tinh thần, họ đang phơi mình trong sự chăm sóc của người.
Vì vậy một linh mục tốt lành cũng phải có một tâm hồn rộng mở cho những ai có nhu cầu. Chúng ta có những người được ưa thích đặc biệt, và đó là người bệnh tật, nghèo nàn, bị lãng quên, tội lỗi. Hãy để ý người mục tử nhân hậu: trong buổi tiệc cho giáo dân, họ sẽ dành nhiều thời giờ cho những người từng xa cách Giáo Hội; họ sẽ lái xe xa hơn một chút đến thăm một nơi chỉ có vài gia đình Công Giáo và dừng chân thăm hỏi người đau liệt. Được mời tham dự hai mươi bữa tiệc sau khi Rước Lễ Lần Đầu, họ chỉ tham dự bữa tiệc mà em đó mồ côi; trong tất cả các em chơi bóng rổ, sau trận đấu họ sẽ để ý rủ các em không được chơi đi ăn pizza hay hamburger. Đức Maria dậy chúng ta chứng tỏ sự lưu tâm đặc biệt đối với những người có nhu cầu--người đau yếu, nghèo nàn, tội lỗi, và gặp khó khăn, họ là những người được người ưa thích đặc biệt, và họ cũng phải là những được chúng ta lưu tâm.
Tôi thấy phấn khởi bởi gương mẫu của Cha Juan Julio Wicht, một linh mục ở Lima, Peru, là một trong các con tin ở toà đại sứ Nhật một vài năm trước đây. Nhóm khủng bố muốn tha cho người; họ nói người được tự do ra về bất cứ lúc nào người muốn. Nhưng người đã không đi; người muốn ở lại với người dân, để hỗ trợ họ, an ủi họ, cầu nguyện với và cho họ. Đó là một linh mục vĩ đại, vì biết ơn gọi của mình là gần với những người cần đến người.
Đức Maria có thể dậy chúng ta về phẩm giá và tôn trọng phụ nữ. Người thì cương quyết, tín cẩn, và có một vai trò thiết yếu trong chương trình của Thiên Chúa. Thiên Chúa vinh danh người hơn tất cả mọi người, và, khi làm như vậy, như Đức Gioan Phaolô II nhắc nhở chúng ta trong Mulieris Dignitatem, đã chấm dứt mọi nhận định rằng nữ giới thì thứ yếu và ít quyền lợi hơn nam giới. John Ruskin nhận xét, “Toàn thể Âu Châu trong thời kỳ Kitô giáo, có lẽ chẳng có mái nhà nào vô tội mà sự hiện diện qua hình ảnh của Đức Mẹ đã không đem lại sự thánh thiêng cho bổn phận và sự an ủi cho những thử thách và đời sống của nữ giới.”
Bạn thấy, bất cứ tôn giáo nào cho rằng Ngôi Hai Thiên Chúa đã mặc lấy xác phàm trong lòng một phụ nữ, và chính Thiên Chúa đã chờ đợi sự đồng ý của một phụ nữ trước khi tiến hành chương trình của Người, và một con người duy nhất ở trên thiên đàng với hồn và xác là một phụ nữ thì tôn giáo đó, Giáo Hội đó, phải nhận biết phẩm giá của phụ nữ, thực sự bình đẳng, và Giáo Hội đó là người bảo vệ mọi quyền lợi của phụ nữ trong ý nghĩa cơ bản nhất của nó. Pelikan nhận xét về biến cố Truyền Tin, “Toàn thể chương trình cứu độ trong tình trạng hồi hộp chờ đợi. Bởi vì nếu Thiên Chúa không cưỡng ép, Thiên Chúa nài nỉ, thì Đức Maria phải tự do và độc lập hành động để điều đó xảy ra. Điều này khiến cho người không chỉ là một chỗ chứa thụ động.”
Và như tiểu thuyết gia Mary Gordon nhắc nhở, “Sự sùng kính Đức Maria là một tổng hợp khách quan mọi ao ước nguyên thủy đã dẫn con người đến đời sống đức tin. Người là hiện thân của khao khát của chúng ta muốn trọn vẹn là con người nhưng vượt trên sự chết. Sự ghét bỏ phụ nữ là di sản của sự chết; trong Đức Maria, là Mẹ và Nữ Vương, chúng ta thấy, lời hứa cứu độ được hóa thành xương thịt trong một hình thể con người mà nó đã đụng đến những khao khát cổ xưa nhất của chúng ta…”
Bạn muốn biết một gương mẫu đối xử với người nữ? Hãy xem cách Thiên Chúa đối xử với Đức Maria.
Tôi muốn nhắc đến cách sau cùng Đức Maria giúp các linh mục. Người nhắc nhở các linh mục về căn tính của họ.
Tâm lý gia và tác giả Robert Coles nhận xét rằng thường giây phút đầu tiên một trẻ sơ sinh nhận biết căn tính của nó là khi nó nhìn thẳng vào mắt mẹ nó và thấy hình ảnh của nó. Vì giây phút đầu tiên này, trong con mắt của mẹ nó, trẻ sơ sinh nhận biết một ai đó thật khác biệt, nhờ đó nó có căn tính.
Có thể nào tôi đề nghị rằng một phương cách hữu hiệu để chúng ta khám phá ra căn tính linh mục của mình là nhìn vào đôi mắt của Đức Mẹ không? Trong đó, chúng ta thấy sự phản chiếu của Chúa Giêsu, và trong đó chúng ta thấy chính mình.
Có thể nói theo nghĩa đen là người đã mang Ngôi-Lời-hóa-thành-nhục-thể ở trong lòng. Người cảm thấy sự cục cựa, lớn dần, và đời sống của Thần-nhân bên trong lòng. Do đó, chúng ta cũng phải bắt chước người để Chúa Giêsu chuyển động, tăng trưởng, và đến với đời sống bên trong chúng ta. Đó là căn tính của chúng ta là linh mục.
Vào tháng Sáu 1996 tôi đến viếng Đền Đức Mẹ Guadalupe. Nhờ đọc trước tài liệu, tôi thấy bàng hoàng về câu chuyện đôi mắt của Đức Maria. Dưới sự khảo sát có tính cách khoa học, tinh vi tấm tilma mà trên đó, như bạn biết, có in hình Đức Maria, các học giả khám phá rằng trong đôi mắt của Đức Trinh Nữ có hình bóng của một người khác, và người đó đúng với sự diễn tả về ông Juan Diego.
Ngày tôi đến viếng đền là trong cuộc hành hương cho các linh mục. Đứng trên bục ngay trước hình Đức Mẹ, tôi quan sát, cầu nguyện và nhìn xem hàng chục, hàng trăm linh mục, già và trẻ, đau yếu và mạnh khoẻ, da trắng, da vàng, da nâu, và da đen, đi qua trước người, nhìn vào đôi mắt người. Và tôi tưởng tượng ra hình ảnh của mỗi một linh mục trong đôi mắt Đức Trinh Nữ, như khi người nhìn đến mỗi người chúng ta với cùng một tình yêu mãnh liệt, say đắm như người đã nhìn đến Chúa Giêsu, đến Juan Diego. Người giúp chúng ta khám phá, làm sâu đậm thêm, và kiên trì trong căn tính, ơn gọi và tác vụ của chúng ta.
Vergine Immacolata! Aiutateci!
(”Hỡi Trinh Nữ Vô Nhiễm Nguyên Tội! Xin giúp chúng con!”)