(Đoạn Kinh Thánh - Máccô 4:35-41)
Một vài năm trước đây ở Đại Chủng Viện Kenrick-Glennon nơi quê tôi, St. Louis, có một chủng sinh tên là Michael Esswein. Nếu chương trình truyền hình “60 Minutes” muốn phúc trình về “người chủng sinh gương mẫu,” có lẽ chúng tôi sẽ đồng loạt chỉ về anh Michael: thánh thiện, thông minh, đẹp trai, hoạt bát, ân cần, được bạn bè kính nể, một cầu thủ bóng đá tài giỏi--xứng đáng là “người của năm.”
Anh Michael xuất thân từ một đại gia đình. Người chị lớn của anh là một nữ tu, và, trong dịp nghỉ mùa xuân, thứ Sáu đầu tiên của tháng Ba, năm 1993, anh Michael cùng gia đình lái xe “van” từ St. Louis xuống Connecticut để thăm người chị này. Khi đến Youngstown, Ohio, thời tiết thật xấu và đường đông đá ở xa lộ xuyên bang; chiếc xe bị trượt bánh, lao xuống mương và lật ngửa.
Anh Michael bất tỉnh nằm kẹt trong xe ở tư thế lộn ngược ở hàng ghế sau khoảng năm mươi phút, trước khi đoàn cứu cấp đến nơi. Hiển nhiên là anh bị thương nặng, và được đưa đến bệnh viện gần đó để giải phẫu. Sau tám giờ cố gắng giải phẫu, các y sĩ cho biết là anh sống sót nhưng xương sống của anh không thể chữa được, và suốt cả đời anh sẽ bị bại liệt từ cổ trở xuống.
Khi tỉnh dậy, câu hỏi đầu tiên của anh là, “Cả gia đình có sao không?” Sau đó, khi nhìn thấy sự lo sợ trên khuôn mặt của người thân yêu đứng chung quanh, và cảm thấy sự bất động của cơ thể, anh biết một điều gì trầm trọng đã xảy ra, anh hỏi, “Liệu tôi có thể làm linh mục được hay không?” Đó là con người của anh Michael Esswein.
Vào tối Chúa Nhật ngay sau khi xảy ra tai nạn, giáo xứ đã tổ chức cầu nguyện để xin chữa lành cho anh. Hôm ấy, giáo xứ St. Stephen đầy chật người, và cha sở đã hướng dẫn buổi cầu nguyện cho anh Michael thật cảm động, đặc biệt phó thác anh cho Trái Tim Cực Thánh Chúa Giêsu, vì gia đình anh đặc biệt sùng kính Thánh Tâm, chị của anh là một nữ tu dòng Cor Jesu (Thánh Tâm Chúa Giêsu), và cũng vì tai nạn xảy ra vào thứ Sáu đầu tháng. Chưa bao giờ tôi tham dự một buổi cầu nguyện thành khẩn đến thế. Sau cùng, với một giọng nói đầy lạc quan, cha sở công bố, “Khi anh Michael trở về, chúng ta sẽ tụ họp lại để tạ ơn Chúa.”
Sau mười tuần nằm bệnh viện, sau hai lần giải phẫu và điều trị quyết liệt, quả thật anh Michael đã trở về, và dĩ nhiên những người thân quen cũng tụ tập để tạ ơn Chúa. Nhưng sự buồn thảm và bi quan như chụp xuống đám đông khi anh Michael được đẩy trên chiếc xe lăn vào nhà thờ, và chỉ có đầu anh là có thể cử động được, và cũng chỉ cái đầu ấy chào hỏi giáo đoàn. Sau khi anh được đẩy lên cung thánh bằng thang dốc đặc biệt mới thiết kế, nghi thức bắt đầu, và khi đến phần đọc Sách Thánh, chính anh Michael công bố Phúc Âm Máccô 4:35-41. Khi kết thúc, chúng tôi chăm chú lắng nghe anh chia sẻ: “Mọi người đến đây là để cảm tạ Thiên Chúa, nhưng khi tôi được đẩy lên cung thánh, tất cả mọi người đều nghĩ, 'Tạ ơn gì? Người thanh niên này bị liệt cả tứ chi, suốt cả cuộc đời. Tương lai sáng lạn tiêu tan. Thật không thể coi đó là câu trả lời cho sự cầu nguyện của chúng ta!'”
Sự im lặng nặng nề trong một thánh đường đầy chật người. Sau đó anh Michael nói tiếp: “Tôi phải thú nhận cùng các bạn là trong mười tuần qua, nhiều lần tôi cũng nghĩ như vậy. Nói cách khác, trong đoạn Phúc Âm, như các tông đồ ở giữa cơn phong ba, chúng ta cũng nghĩ rằng Chúa đang ngủ và cũng không thể làm gì hơn. Nhưng thưa các bạn, hãy hy vọng”--tiếng anh Michael gào lên--”hy vọng là một quà tặng giúp chúng ta tiến bước khi tưởng rằng Chúa Giêsu đang ngủ, và chúng ta hãy cảm tạ Thiên Chúa vì món quà hy vọng vĩ đại đó!”
Đó là bài giảng thật xúc động về sự hy vọng mà tôi chưa bao giờ được nghe. Tôi ngồi cạnh cha chưởng ấn của tổng giáo phận và người nói thầm vào tai tôi, “Hãy phong chức cho anh ta ngày mai.”
“Hy vọng là một quà tặng giúp chúng ta tiến bước khi tưởng rằng Chúa Giêsu đang ngủ...”
“Chỉ trong Thiên Chúa mà thôi, hồn tôi mới được nghỉ ngơi yên hàn, ơn cứu độ tôi bởi Người mà đến. Người là núi đá, là ơn cứu độ, là thành lũy chở che, tôi chẳng hề nao núng” (TV 62).
Tôi xin các bạn hãy cùng tôi suy niệm về sự hy vọng, đức cậy. Trong chương trước, tôi nói về đức tin. Dĩ nhiên, nhờ đức tin mà chúng ta tin có Chúa; đức cậy là sự tin tưởng rằng Thiên Chúa sẽ giữ lời hứa! Đức Hồng Y Suenens viết: “Tôi là một người hy vọng, không vì những lý do con người, cũng không vì sự lạc quan tự nhiên đúng đắn, nhưng vì tôi tin rằng Thiên Chúa đang hoạt động trong đời tôi, trong Giáo Hội, trong thế giới, ngay cả khi danh thánh Người không được biết đến.”
Đức cậy thúc giục chúng ta trông cậy rằng Thiên Chúa, là Đấng chúng ta tin tưởng, sẽ luôn luôn yêu thương và chăm sóc chúng ta, và Người luôn giữ lời hứa--không phải là đảm bảo chúng ta luôn được hạnh phúc, được an nhàn, được thoải mái, được tuyệt hảo--nhưng hứa yêu thương, chăm sóc, thương xót và ban cho chúng ta sự sống.
Tôi nói với các bạn về đức cậy vì nhiều lý do: Phải, mỗi một con người, nhất là Kitô Hữu, cần có đức cậy. Có những lúc mọi sự dường như tối tăm, lạnh lẽo, nản lòng, và chẳng thấy mùa xuân đâu--những lần ấy chúng ta cần phải giảng giải về đức cậy.
Nhưng, quan trọng hơn cả, đức cậy--một sự hy vọng sâu xa, không thay đổi, điềm tĩnh, thản nhiên nhưng đầy trông cậy--thì thật hiển nhiên cho một linh mục! Dân chúng muốn chúng ta đem cho họ sự hy vọng, và rồi, một lần nữa “Nemo dat quod non habet” (”Chúng ta không thể cho những gì chúng ta không có”)! Một trong những điều mà các linh mục thường nghe từ giáo dân là: “Thưa cha, xin cha cầu nguyện cho con!” Điều đó có nghĩa, “Thưa cha, con cần sự hy vọng; không hiểu là con có thể vượt qua được hay không.”
Chức linh mục của chúng ta sẽ khó có thể tồn tại và khó đầy sinh lực cũng như đem lại sức sống nếu chúng ta không có đức cậy; và chắc chắn rằng chúng ta không thể phục vụ người dân nếu chúng ta không thể đem cho họ sự hy vọng mà họ khao khát.
Emil Brunner viết, “Dưỡng khí cần cho phổi thế nào thì đức cậy cũng cần cho ý nghĩa của đời sống như vậy.”
Bây giờ, trở về căn bản. Làm thế nào để chúng ta có được đức cậy? Trước hết, chúng ta không thể đạt được nhờ tài sức của chúng ta. Chúng ta không thể có được... mà chúng ta được ban cho! Đức cậy là một nhân đức được Chúa ban cho chúng ta khi rửa tội, được bổ sức bởi các bí tích khác, được nuôi dưỡng và được bảo vệ qua đời sống nội tâm mạnh mẽ phát sinh từ đức tin sống động, và được kiên cường trong sự bền chí hàng ngày vượt qua những khổ cực và khốn khó của cuộc đời. Đúng vậy, đức cậy siêu nhiên có thể được trợ giúp qua các thói quen tự nhiên như tâm trạng vui vẻ, một cá tính lạc quan, yêu đời, có cái nhìn lạc quan về đời sống, và giữa những thử thách vẫn thực tế thú nhận là “mọi sự rồi cũng sẽ qua.”
Điều căn bản là chúng ta phải nuôi dưỡng một đời sống tâm linh mạnh mẽ. Có lẽ bạn từng nghe về sự nghịch lý của cơn bão--giữa những phong ba, hủy hoại, và sức mạnh của cơn bão, là “tâm bão,” một nơi êm ả, yên lặng như tờ. Đời sống nội tâm của chúng ta cũng vậy: giữa cơn bão táp của những bất ngờ, thất bại, khủng hoảng, thảm kịch, hay chỉ là sự nhàm chán hàng ngày trùm lấp chúng ta, là một chỗ bình an, êm đềm và thanh thản, là nơi Chúa ngự, mà từ đó chúng ta có niềm hy vọng. Sự cầu nguyện hàng ngày, Thánh Lễ, lòng đạo đức, linh hướng, kinh nhật tụng, và các bí tích--sự điều dưỡng này cốt để nuôi “tâm bão” bên trong mà từ đó chúng ta có được niềm hy vọng để đi qua cuộc sống.
Bạn có thể thấy điều đó, tỉ như, nơi Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II. Những ai trong các bạn được vinh dự tham dự Thánh Lễ riêng của người thì thật xúc động khi thấy người chìm đắm trong sự cầu nguyện trước khi, trong khi, và sau khi dâng lễ. Những ai tìm kiếm lý do cho một sức mạnh vô biên, xác quyết và sự hy vọng của người thì không cần tìm đâu xa.
Tôi nhận thấy điều này nơi anh Tom Mucha, một chủng sinh đang điều trị bệnh ung thư máu, khi tôi nói chuyện điện thoại với anh một vài năm trước đây. Giữa những đau đớn cùng cực, với cơ hội sống sót mong manh, anh cho thấy một sự bình thản nội tâm, một ý nghĩa của đức cậy, mà điều đó chỉ phát sinh từ một đời sống nội tâm mạnh mẽ được tôi luyện bằng sự thử thách gắt gao của đau khổ.
Bạn thấy điều đó được chứng tỏ nơi đời sống các thánh, như Thánh Maximilian Kolbe, là người, khi chịu đau khổ cùng với chín tù nhân khác đang bị chết dần mòn vì đói khát trong xà lim, thì người vẫn chứng tỏ một sự điềm tĩnh, một sự bình an, một đức cậy mà đức tính ấy đã phấn khích các bạn đồng tù trong khi các lính canh điên tiết vì thất bại.
Điều này lệ thuộc ở đời sống nội tâm, mà từ đó “tâm bão” được phát xuất từ đức tin mà chúng ta đã đề cập đến trước đây, chúng ta tin như con trẻ rằng mọi sự đều trong bàn tay quan phòng của Thiên Chúa, mọi sự đều có thể đối với Người, và dù rằng thánh ý Người bị nhiều người coi thường nhưng vương quốc của Người không ai có thể ngăn cản được, và sau cùng mọi sự sẽ có ý nghĩa vì, như Thánh Phalô viết, “với những ai có đức tin thì mọi sự đều ăn khớp với nhau.”
Những người Duy Phúc Âm (Fundamentalist) có thể dạy chúng ta một vài điều về vấn đề này. Lướt qua các đài truyền hình hay phát thanh hôm Chúa Nhật, chắc chắn bạn sẽ nghe một vài mục sư lớn tiếng nói rằng, “Sự chiến thắng đã giành được! Cuộc chiến đã chấm dứt! Chỉ còn một số giao tranh nhỏ mà chúng ta phải đụng độ, nhưng đó chỉ là những tàn lực của kẻ thù! Alleluia.”
Những gì họ nói là điều Thánh Bernard đã nói: “Nếu Đức Kitô ở với chúng ta, ai có thể chống nổi chúng ta? Nếu bạn tin là sẽ thắng thì bạn sẽ chiến đấu với sự tin tưởng. Với Đức Kitô và cho Đức Kitô, chắc chắn sẽ chiến thắng.”
“Chỉ trong Thiên Chúa mà thôi, hồn tôi mới được nghỉ ngơi yên hàn, ơn cứu độ tôi bởi Người mà đến. Người là núi đá, là ơn cứu độ, là thành lũy chở che, tôi chẳng hề nao núng” (TV 62).
Tôi rất thích câu chuyện về Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII mà Đức Ông Loris Capovilla kể lại, người là thư ký riêng của đức giáo hoàng. Hàng đêm, khoảng nửa khuya, trước khi đi ngủ, Đức Giáo Hoàng quỳ trước Thánh Thể. Người duyệt qua tất cả những khó khăn đã gặp trong ngày: một đức giám mục đến nói với người về việc các linh mục bị thảm sát và các nữ tu bị hãm hiếp ở Congo; một vị lãnh đạo quốc gia nói với người về cuộc chiến ở trong nước và xin người giúp đỡ; những người bệnh tật đến xin người chúc lành; những người tị nạn viết thư xin giúp đỡ; các cuộc bách hại mới xảy ra bên kia bức Màn Sắt. Khi người duyệt qua các khó khăn, kiểm điểm lại lương tâm xem người đã đáp ứng thế nào, và sau cùng, người hít một hơi thật dài và nói, “Lạy Chúa, con đã làm tất cả những gì con có thể... Đây là Giáo Hội của Chúa! Con đi ngủ. Tạm biệt Chúa.”
Đó là một con người hy vọng! Thánh Gioan Vianney nói: “Khi bị cám dỗ mất đức cậy, tôi chỉ còn một cách duy nhất: phủ phục dưới chân nhà tạm như một con chó nhỏ dưới chân ông chủ.”
“Chỉ trong Thiên Chúa mà thôi, hồn tôi mới được nghỉ ngơi yên hàn, ơn cứu độ tôi bởi Người mà đến. Người là núi đá, là ơn cứu độ, là thành lũy chở che, tôi chẳng hề nao núng” (TV 62).
Tôi xin đưa ra đây một vài nhận xét thực tế về đức cậy, hy vọng có thể giúp ích cho sự đào luyện linh mục.
1. Đức cậy có thể là một cố gắng đặc biệt cho các linh mục vì thường chúng ta không thấy được các kết quả nhãn tiền, ngay lập tức của công việc chúng ta làm. Một bác sĩ có thể thấy bệnh nhân mình lành bệnh, ngay cả người thợ ống nước cũng có thể thấy là nước không còn rò rỉ, nhưng ít khi chúng ta thấy các kết quả ngay lập tức, hiển nhiên của công việc một linh mục.
Có ai biết bài giảng của chúng ta có ảnh hưởng như thế nào?
Có ai biết lời khuyên nhủ của chúng ta trong toà giải tội có giúp ích gì không?
Có ai biết những hôn nhân mà chúng ta giúp chuẩn bị có tốt đẹp không?
Có ai biết những em mà chúng ta giúp Rước Lễ Lần Đầu, bây giờ có còn giữ đức tin không?
Bây giờ, đừng vội cho là tôi sai, cuộc đời linh mục là một cuộc đời đem lại nhiều phần thưởng, nhiều niềm vui, nhiều thoả mãn nhất. Nhưng có nhiều khi chúng ta băn khoăn không biết những gì chúng ta thi hành có đem lại ý nghĩa gì không, hay có tốt đẹp không, vì công việc của chúng ta là trong sự cộng tác với ơn sủng của Thiên Chúa, mà ơn sủng ấy tác động một cách âm thầm, vô hình, nhẹ nhàng, từ từ, và ít khi tạo nên những kết quả rực rỡ, màu mè.
Vậy, bạn phải làm gì sau khi bỏ nhiều thì giờ bóp đầu bóp trán để soạn bài nói chuyện cho giáo dân mà chẳng ai xuất hiện?
Bạn phải làm gì khi ngồi hàng giờ trong tòa giải tội và không ai đến, mà chỉ có một vài ông bà lão quen thuộc từng giặt giũ khăn thánh nhà xứ?
Bạn phải làm gì khi bỏ nhiều thời giờ chuẩn bị cho cha mẹ các em rước lễ lần đầu, và tất cả những gì họ muốn thảo luận là không biết con gái có nên đội voan và con trai có nên khoác áo vét?
Bạn phải làm gì khi hăng hái chuẩn bị cho đôi nam nữ bước vào đời sống hôn nhân, trong khi điều họ lưu tâm là lối lên cung thánh có đủ dài cho bản nhạc?
Điều tôi muốn nói là nếu hạnh phúc của chúng ta khi làm linh mục, ý nghĩa chúng ta tìm thấy trong thừa tác vụ, được dựa trên việc nhìn thấy các kết quả hiển nhiên, ngay lập tức, thì chúng ta sẽ thất vọng khủng khiếp. Đó là khi đức cậy xuất hiện: chúng ta tin rằng trong một phương cách bí ẩn nào đó, Thiên Chúa sẽ hoạt động qua chúng ta, ngay cả khi chúng ta không thấy các hiệu quả.
Điều này đặc biệt đúng trong những năm đầu sau khi bạn chịu chức, khi bạn thật hăng say và lý tưởng, náo nức bắt đầu, và bỗng dưng phải đối diện với đời sống buồn tẻ của giáo xứ. Đó là khi bạn cần đến đức cậy--Thiên Chúa đang hoạt động cách mạnh mẽ trong chúng ta, qua chúng ta, bất kể con người chúng ta, ngay cả khi chúng ta không thể thấy được các kết quả.
Mùa Chay đầu tiên khi tôi ra giúp xứ, ông chủ tịch của Hội LMTT nói: “Thưa cha. Tối hôm ấy cha phải giúp chúng con hồi tưởng lại quá khứ khi bước vào mùa Chay.” Lẽ ra tôi phải biết rằng vì ông này không hăng say lắm nên bãi đậu xe lúc nào cũng còn dư chỗ. Nhưng tôi dành thật nhiều giờ để chuẩn bị bài nói chuyện về các nhân vật trong các chặng Đàng Thánh Giá. Khi đến đêm quan trọng ấy--chỉ có hai ông xuất hiện! Dĩ nhiên tôi không cần đến “microphone”. Chỉ có hai người! Thật não lòng. Tôi cũng không được an ủi gì nhiều khi trở về nhà xứ, gặp cha sở và người phán một câu, “ồ, phải chi tôi dặn cha là kiểu cách ấy không bao giờ hiệu quả.”
Mười hai năm sau, tôi đến thăm một bà trong giáo xứ ấy bị bệnh Lou Gehrig (liệt tủy sống). Ông chồng thật dịu dàng, chăm sóc bà, không bao giờ rời bà. Khi ông tiễn tôi ra cửa, tôi bày tỏ sự thán phục về sự tận tụy của ông đối với bà. Ông nói, “Ô, thưa cha có gì đâu. Con chỉ cố gắng bắt chước ông Simon mà cha đã dạy.” Tôi nhìn ông, bối rối. “Phải, cha có nhớ là đêm mùa Chay năm ấy khi cha nói với chúng con là cũng như ông Simon vác đỡ thánh giá Chúa thì chúng ta cũng phải như vậy khi giúp người khác vác thập giá. Con chỉ cố gắng giúp nhà con vác thập giá của bà ấy mà thôi.”
Thật xứng với sự chờ đợi... và đức cậy giúp chúng ta chờ đợi.
Điều đó cũng đúng với việc đào luyện trong đại chủng viện, vì nó đòi hỏi một đức cậy đích thực để tin tưởng rằng mọi việc mà các chủng sinh đang thi hành sẽ thực sự giúp ích cho họ sau này khi làm linh mục. Các môn học, các buổi huấn luyện, các trông đợi của thầy cô--thật dễ hiểu là lúc ấy họ có thể hỏi rằng, “Sao vậy? Điều này có ích gì cho tôi? Điều này giúp tôi trở nên một linh mục tốt lành như thế nào?” Nhưng, sự chờ đợi có giá trị, và đức cậy giúp chúng ta chờ đợi và kiên nhẫn tin tưởng rằng các hạt mầm được gieo bây giờ chắc chắc sẽ mang lại hoa quả sau này.
2. Trong những năm gần đây, một trong những hiểu biết sâu sắc về thừa tác vụ linh mục là chúng ta cần được xác nhận. Các linh mục cần sự xác nhận--từ anh em linh mục, từ giám mục, cha sở, giáo dân, gia đình và bạn hữu. Chắc chắn là chúng ta cần, và tạ ơn Chúa vì những phát triển trong đời sống Giáo Hội trong những năm gần đây đã đem lại sự xác nhận mà các linh mục cần. Tuy nhiên--và tôi không muốn bi thảm hóa--đừng trông mong vào điều đó! Khi điều đó xảy đến, tạ ơn Chúa, nhưng, hãy tin tôi đi, rất nhiều khi bạn không nghe những câu “cám ơn,” không nghe ai khen “cha giảng hay quá,” hoặc “giáo xứ này thật có phước khi cha về.” Và nếu chúng ta lệ thuộc vào những xác nhận ấy, nếu chúng ta trông đợi vào sự ưa thích của quần chúng, tiếng hoan hô, và sự mãn nguyện bên ngoài, hãy coi chừng!
Tôi thường nghe từ các linh mục trẻ--”Cha sở của con không bao giờ nói rằng con làm việc được.” “Khi con được nghe từ đức giám mục là khi người gửi thư dặn xin tiền lần thứ hai.”
Trong một giáo xứ mà tôi đi giúp, cha sở nhờ tôi khởi sự một chương trình giáo lý cho thiếu niên. Người khuyến cáo rằng đã nhiều người khởi sự và đã thất bại. Tôi thực sự lo lắng cho một chương trình mà cứ hai tối Chúa Nhật một lần với những đôi vợ chồng trẻ giúp tôi giảng dạy giáo lý, sau đó là ăn pizza hoặc chơi thể thao. Đêm khai mạc có đến năm mươi tám phần trăm giới trẻ hiện diện. Tôi trở về nhà xứ và hồ hởi phúc trình sự thành công cho cha sở, người đang xem truyền hình và chỉ nói rằng: “Cha có nhớ tắt đèn trong 'gym' và khóa cửa không?”
Thật sự là các cha sở, các giám mục phải xác nhận công việc chúng ta, nhưng thường thì không. Đức cậy, dĩ nhiên, dạy chúng ta rằng sự xác nhận đích thực, sự xác nhận mà chúng ta khao khát và thực sự trông nhờ vào, chỉ đến từ Thiên Chúa. Nếu đến từ người khác, alleluia! Đừng trông chờ vào đó hay để sự hăng say của bạn tiếp tục lệ thuộc vào đó!
“Chỉ trong Thiên Chúa mà thôi, hồn tôi mới được nghỉ ngơi yên hàn, ơn cứu độ tôi bởi Người mà đến. Người là núi đá, là ơn cứu độ, là thành lũy chở che, tôi chẳng hề nao núng” (TV 62).
3. Chúng ta bị cám dỗ đặt hy vọng vào nhiều thứ, và chúng bắt đầu tiêu hủy chúng ta. Một số là những điều tốt: chúng ta đặt tin tưởng vào bạn hữu, vào các giám mục, vào Tòa Thánh, vào tiếng tốt của chúng ta, và sự thoả mãn khi thi hành công việc tốt đẹp. Nhưng bạn phải biết, ngày ấy sẽ đến khi ngay cả những đối tượng tốt lành, chính đáng để tin tưởng cũng sẽ bỏ rơi chúng ta; do đó nếu chúng ta đặt hết tin tưởng vào những điều chính đáng ấy, một ngày kia chúng ta sẽ thất vọng.
Có ai buồn hơn là một linh mục đặt hết tin tưởng vào hy vọng được thăng quan tiến chức trong giáo hội nhưng lại kết thúc bằng những cay đắng và phẫn uất?
Nếu bạn biết về cuộc đời Đức Tổng Giám Mục John Ireland, một trong những nhân vật nổi tiếng của lịch sử Công Giáo Hoa Kỳ, bạn sẽ thấy người chấm dứt một sự nghiệp sáng chói trong tuyệt vọng chỉ vì “mũ đỏ” (chức hồng y) không bao giờ đến.
Ngay cả các bạn hữu chúng ta cũng sẽ bị thuyên chuyển, hay lạc hướng, hay bỏ rơi chúng ta... chúng ta yêu thương họ và cần đến họ, nhưng chúng ta không thể đặt hy vọng nơi họ.
Trong cuộc đời linh mục, chúng ta không thể hy vọng được lương cao, được đức giám mục hậu đãi, được bài sai chỗ tốt, được đề bạt trong giáo hội, được mọi người hoan hô. Nếu có, chúng ta chấp nhận chúng với sự lãnh đạm, biết ơn theo kiểu của Thánh Y Nhã, nhưng chúng ta cũng có thể sống mà không có những thứ đó, vì “chúng ta không đặt hy vọng nơi các hoàng tử.”
Tôi nói với các chủng sinh năm thứ nhất của North American College khi họ đến đây ngày đầu tiên, “Các bạn vừa từ bỏ gia đình, bạn hữu, sự an toàn, những dự đoán... Mọi sự đều thay đổi ngoại trừ một điều--đức tin của bạn và sự tương giao với Chúa Giêsu Kitô: Người không thay đổi dù hôm qua, hôm nay hay ngày mai! Và có lẽ việc học hỏi đích thực ở đây ngay tại Rôma, xa cách mọi thứ quen thuộc và xác thực, là để dạy chúng ta rằng Người, và chỉ có Người, là nguồn hy vọng đích thực của chúng ta--trông mong vào bất cứ gì hay bất cứ ai khác trong cuộc đời này sẽ dẫn đến sự tuyệt vọng.”
“Đừng đặt tin tưởng vào quyền lực, hay hy vọng hão huyền vào địa vị. Đừng để tâm đến người giầu sang, ngay cả khi họ đang thịnh vượng” (TV 62).
4. Một đức tính quan trọng phát sinh từ đức cậy, và đó là sự bền chí. “Hãy trung thành... luôn luôn trung thành!” Tôi nhớ Đức Giáo Hoàng Phaolô VI nói với lớp chúng tôi trong buổi lễ truyền chức sáu, “Khi một người chấp nhận đời sống linh mục, sự chấp nhận đó thì mãi mãi!” Để giữ được điều đó, không bị nhạt nhẽo, để tiếp tục chiến đấu can trường, để vẫn trung thành, để luôn bền chí, ngay cả khi hồ nghi, hoang mang, chán nản--tất cả là từ đức cậy.
“Xin Thiên Chúa là Đấng đã khởi sự công việc tốt lành nơi bạn, giờ đây sẽ hoàn tất điều ấy cách tuyệt hảo!” Giáo Hội đã cầu xin như thế trong ngày phong chức, và chúng ta hy vọng rằng lời cầu nguyện ấy được nhận lời hàng ngày trong đời sống linh mục chúng ta. Nguyên tắc cổ điển là Thiên Chúa không bao giờ đòi hỏi chúng ta phải làm việc gì đó mà không ban những ơn cần thiết để hoàn thành việc ấy. Điều đó đem lại hy vọng; điều đó khích động chúng ta kiên trì trong ơn gọi linh mục.
5. Đức cậy thì đặc biệt cần thiết trong lời nguyện của chúng ta. Sự kiên nhẫn, bền bỉ, kiên trì mà Thầy căn dặn chúng ta, những điều đó là nhờ ở sự cầu nguyện hiệu quả được phát sinh từ đức cậy. Lỗi lầm lớn nhất mà chúng ta có thể phạm khi chúng ta gặp khó khăn trong việc cầu nguyện là bỏ cuộc, mất đức cậy. Đừng từ chối rằng cũng có khi sự cầu nguyện thì chán chường, không hữu ích, nhạt nhẽo, nhiều chia trí, và khô khan. Đây là những khi cần đến đức cậy:
Hãy nhớ đến Thánh Gioan Thánh Giá. Người có thói quen ghi lại những gì xảy ra trong sự cầu nguyện hàng ngày. Trong một giai đoạn dài của cuộc đời, có lẽ giai đoạn “đêm tối của một linh hồn,” người ghi nhận một chữ: nada. Không có gì cả! Điều gì xảy ra trong lời cầu nguyện của tôi hôm nay? Nada! Không chỉ một ngày, mà nhiều ngày, nhiều tuần, nhiều tháng, nada! Nhưng người giữ hy vọng, tin tưởng rằng điều gì đó sẽ xảy ra. Và chúng ta, dĩ nhiên, biết “câu chuyện kết thúc thế nào,” người được coi là một trong rất ít người thực sự đạt được tầm mức của sự cầu nguyện thần bí.
Đồng thời, đức cậy giúp chúng ta chiến đấu với tội lỗi. Tất cả những gì có khuynh hướng xấu, chúng ta chống trả--thiếu kiên nhẫn, ngồi lê đôi mách, lười biếng, không trong sạch, nóng nẩy, thiên kiến, lời nói nham hiểm, bất cứ gì--chúng ta đạt được chút tiến bộ rồi lại thất bại, và có những lúc bị cám dỗ tuyệt vọng muốn từ bỏ hành trình tiến đến sự tuyệt hảo. Đừng bao giờ! Một cha giải tội khôn ngoan từng nói với tôi, “Sau cùng, điều đáng kể không phải là bao nhiêu lần chúng ta thành công hay thất bại, nhưng là chúng ta khởi sự thế nào sao khi thất bại.” Điều đó cần đến đức cậy! Đức Tổng Giám Mục Fulton Sheen nhắc nhở chúng ta rằng trong đời sống tâm linh không có đồng bằng, mà chỉ có đồi núi và thung lũng, và chìa khóa để thăng tiến trong việc nên thánh là đừng mất hy vọng khi ở thung lũng.
6. Trong thư thứ nhất của Thánh Phêrô, chúng ta đọc, “Hãy luôn sẵn sàng để giải thích cho bất cứ ai chất vấn về niềm hy vọng nơi anh chị em” (1 Phêrô 3:15).
Bạn thấy không, một đức cậy sống động thì hay lây và sẽ thu hút người khác. Kết quả của nó là bình thản, hân hoan, điềm tĩnh, hóm hỉnh, không bị lo lâu--và những đặc tính này rất lôi cuốn người khác. Như thế, dân chúng được thu hút đến Chúa Giêsu và Giáo Hội của Người qua các linh mục đầy hy vọng. Nhưng đó không phải là loại lạc quan tếu, nông cạn, hồ hởi bên ngoài. Đó là một sự tín thác có thật, kiên quyết nơi Thiên Chúa dựa trên một đức tin sâu đậm, phát sinh từ cảm nghiệm, và được hỗ trợ bởi lý lẽ.
Đó là lý do mà Giáo Hội mong đợi bạn hiểu biết sâu xa về thần học, để bạn có thể, như Thánh Phêrô đã nói, “giải thích lý do cho niềm hy vọng của bạn.”
Không vì thế mà chúng ta “phải biết tất cả.” Dân chúng không mong đợi câu trả lời của chúng ta, mà chỉ muốn một đảm bảo là thực sự có câu trả lời, một lý lẽ mà ngày nào đó, một chỗ nào đó câu trả lời ấy sẽ tỏ hiện, ngay cả bây giờ còn giấu kín. Điều đó đem cho họ niềm hy vọng.
Tôi nhớ có lần tham dự tang lễ của một em bé mới một tuổi chết bất thình lình vì cảm cúm thường, em là con của hai người rất tích cực hoạt động và họ phải vất vả trên sáu năm thì mới mang thai em. Nhà thờ đầy chật người, các cha mẹ đều mủi lòng. Cha sở cũng xúc động đến độ phải mất một thời gian lâu sau Phúc Âm thì người mới giảng được, và sau cùng người nói, “Nếu tất cả quý ông bà anh chị em nghĩ rằng tôi sẽ giải thích lý do tại sao em từ trần, thì quý ông bà sẽ thất vọng. Thực sự tôi cũng không hiểu tại sao em chết. Ngay cả với niềm trông cậy nơi Thiên Chúa, điều đó dường như không có ý nghĩa lắm. Nhưng nếu không có sự trông cậy đó, cái chết của em thật sự vô nghĩa.”
Cha mẹ em cho tôi biết, đó là những lời mang lại cho họ nhiều ý nghĩa nhất trong thời gian tăm tối.
“Kinh Tin Kính đẹp nhất là khi chúng ta tuyên xưng vào lúc tăm tối,” Cha Padre Piô đã nói như thế.
7. Thiên đàng là nơi mà mọi hy vọng của chúng ta sẽ được no thoả, và chúng ta không bao giờ sợ hãi để nói về thiên đàng.
Khi tôi sống ở Hoa Thịnh Đốn, tôi thường đến giúp trung tâm “Gift of Peace” do các nữ tu dòng Bác ái Truyền Giáo trông coi những người đang chết vì bệnh AIDS. Thỉnh thoảng tôi rửa tội, xức dầu, cầu nguyện hay giải tội cho những người sắp chết. Các chị thì luôn luôn phấn khởi kể cho tôi biết khi có người từ trần mà họ đã tuyên xưng đức tin, ăn năn sám hối, xin Chúa tha thứ, vì các chị tin tưởng là họ sẽ lên thiên đàng. “Lý do tại sao chúng con thi hành công việc này,” một chị giải thích rằng, “là để đưa các linh hồn lên thiên đàng.”
Phải, họ lau chùi những người sắp chết trong tuyệt vọng, băng bó các vết thương của họ, thay tã cho họ, đút cho họ ăn, và chăm sóc những người mà không ai muốn để ý. Nhưng động lực của họ là giúp các linh hồn lên thiên đàng.
Chúng ta bối rối khi nói với dân chúng về thiên đàng, có lẽ chúng ta sợ người ta cho rằng chúng ta quá đạo đức, quá ở thế giới bên kia, hay không lo lắng gì đến những vấn đề đời này. Nhưng đôi khi gánh nặng cuộc đời này có thể nghiền nát dân chúng đến độ họ khao khát muốn nghe ai đó nói về một nơi chốn “mà mọi nước mắt sẽ được lau khô,” và, nếu linh mục chúng ta không nói hay không thể thi hành điều đó, thì còn ai nữa?
Như chúng ta cầu xin trong bài tụng ca “Benedictus” trong ngày lễ kính Thánh Agnes: “Điều tôi mong ước, giờ tôi đã thấy; điều tôi hy vọng, giờ tôi đã được; nơi thiên đàng tôi được liên kết với Người mà nơi trần thế tôi hằng yêu mến với tất cả tâm hồn.”
“Chúng ta không dám thốt nên lời cầu nguyện hay đem một lối thoát cho sự đau khổ của chúng ta! Điều gì đó đã chết trong mỗi người chúng ta, và điều đã chết đó là Hy Vọng,” Oscar Wilde đã viết như thế, và dường như điều này mô tả đặc điểm của chúng ta ngày nay. Người Công Giáo nhìn đến các linh mục như những con người đầy hy vọng để hướng dẫn họ, theo như lời của Đức Thánh Cha, “đi qua ngưỡng cửa hy vọng.”
Tôi nhớ có theo dõi cuộc phỏng vấn của Đức Hồng Y Law trên truyền hình ở bên ngoài Tòa Bạch ốc mà người vừa mới gặp Tổng Thống Bush nhằm ngăn cản một cuộc chiến có thể xảy ra với Iraq, một đặc phái viên hỏi: “Thưa Hồng Y, người có mất hy vọng không?”
Đức hồng y trả lời: “Tôi đang trong công tác hy vọng!”
Phải, chúng ta “đang trong công tác hy vọng.” Chúng ta là những người mà, trong con thuyền sắp sửa chìm giữa cơn phong ba, vẫn tiếp tục tiến bước dù Chúa Giêsu dường như đang ngủ.
Chúng ta hãy cầu nguyện:
Lạy Thiên Chúa, tin tưởng vào lời hứa vô cùng của Người, con hy vọng sẽ được tha thứ mọi tội lỗi, được ơn sủng của Người trợ giúp, và được sự sống đời đời qua công nghiệp của Đức Giêsu Kitô, là Chúa và là Đấng Cứu Độ của con. Amen.