Vào chiều ngày ấy, ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do-thái. Đức Giê-su đến, đứng giữa các ông và nói: “Bình an cho anh em!” Nói xong, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa. Người lại nói với các ông: “Bình an cho anh em! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em.” Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha ; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ.”
Một người trong Nhóm Mười Hai, tên là Tô-ma, cũng gọi là Đi-đy-mô, không ở với các ông khi Đức Giê-su đến. Các môn đệ khác nói với ông: “Chúng tôi đã được thấy Chúa!” Ông Tô-ma đáp: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin.” Tám ngày sau, các môn đệ Đức Giê-su lại có mặt trong nhà, có cả ông Tô-ma ở đó với các ông. Các cửa đều đóng kín. Đức Giê-su đến, đứng giữa các ông và nói: “Bình an cho anh em.” Rồi Người bảo ông Tô-ma: “Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin.” Ông Tô-ma thưa Người: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!” Đức Giê-su bảo: “Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin!”
Trong lần thứ ba được bài sai đi coi xứ, cha sở của tôi lúc ấy lại là đức giám mục phó của tổng giáo phận St. Louis, GM George J. Gottwald. Vào lúc ấy Đức Giám Mục Gottwald đã gần về hưu, đúng hơn là người đã quá mệt mỏi với gần 50 năm linh mục và hai mươi lăm năm giám mục. Người vẫn thích la cà ở bàn ăn của chúng tôi và nói về Công Đồng Vatican II, nhưng người rất ít đề cập đến giai đoạn khủng hoảng trong đời người, đó là thời gian chín tháng người làm giám quản tông tòa của tổng giáo phận sau khi Đức Hồng Y Joseph Ritter từ trần vào tháng Sáu, 1967.
Đó là những năm tiếp ngay sau thời tột đỉnh của công đồng với nhiều sáng tạo, sống động và những tiến triển đầy hứa hẹn trong Giáo Hội, được thúc giục bởi lời kêu gọi canh tân của công đồng: nhưng, thật không may, cũng có nhiều nghi ngờ, sai lầm, tổn thương, hoang mang và rõ ràng là ngờ nghệch. Giữa tất cả những điều ấy, Đức Giám Mục Gottwald, có thể nói người là một cha sở quê mùa chất phác và nhậm chức giám mục phó chỉ vì vâng lời, bị đẩy vào vai trò “lãnh đạn”.
Một trong những khủng hoảng là chủng viện. Một phần tư linh mục thuộc ban giảng huấn từ bỏ chức linh mục, các chủng sinh mất đi một phần mười vì bỏ chủng viện, và môn thần học thì dạy đủ mọi thứ nhưng không đề cập đến Giáo Hội. Những linh mục còn trong ban giảng huấn thì tuyên bố rằng họ sẽ gia nhập nhóm thần học đại kết, vì theo kiểu cách họ giải thích công đồng, họ cho rằng thật vô ích khi giảng dạy thần học Công Giáo--vì có lẽ nó không còn hiện hữu nữa.
Vào đầu xuân năm 1968, họ yêu cầu sự có mặt của vị giám quản tông tòa tại một cuộc được gọi là “biểu tình nơi sân trường” để trình cho người một danh sách các yêu cầu, trước sự hiện diện của các đặc phái viên đài truyền hình.
Giữa bầy sư tử, Đức Giám Mục George Gottwald bước vào một cách lo sợ, bồn chồn, ước chi người vẫn chỉ là một cha sở vô danh tiểu tốt của vùng đồi núi Ozark ở phía nam tiểu bang Missouri. Người cầm đầu ban giảng huấn và các chủng sinh ấy cho đức giám mục biết là Chủng Viện Kenrich rất có thể phải đóng cửa, vì toàn bộ việc đào tạo linh mục cũng như thần học Công Giáo đều vô giá trị. Đức giám mục nhận định rằng, giữa những hồ nghi và thăm dò của công đồng, vẫn còn các chân lý hiển nhiên, bền bỉ cần được giảng dạy cho các linh mục tương lai.
Người cầm đầu cười khảy, “A! Con thách cha có thể nói cho con biết điều gì có thể dạy cho chủng sinh ngay bây giờ mà không thay đổi hay sẽ bị thay đổi, điều gì có thể khẳng định với một chút tin tưởng! Con thách cha nói cho con biết.”
Đức giám mục ho khan khi mọi con mắt đều đổ dồn về người, khi mọi máy thu âm và thu hình đều hướng về người, khi họ chờ đợi người trả lời sự thách thức ấy. Và câu trả lời của người là gì?
“Tôi tin kính Đức Chúa Trời là Cha phép tắc vô cùng dựng nên trời đất. Tôi tin kính Đức Chúa Giêsu là Con Một Đức Chúa Cha cùng là Chúa chúng tôi; bởi phép Đức Chúa Thánh Thần mà Người xuống thai, sinh bởi Bà Maria đồng trinh: chịu nạn đời quan Phongxiô Philatô, chịu đóng đinh trên cây Thánh giá, chịu chết và táng xác; xuống ngục tổ tông, ngày thứ ba bởi trong kẻ chết mà sống lại; lên trời ngự bên hữu Đức Chúa Cha phép tắc vô cùng; ngày sau bởi trời lại xuống phán xét kẻ sống và kẻ chết. Tôi tin kính Đức Chúa Thánh Thần. Tôi tin có Hội thánh hằng có ở khắp thế này, các thánh thông công. Tôi tin phép tha tội. Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại. Tôi tin hằng sống vậy. Amen.”
Kinh Tin Kính! Một tuyên xưng đức tin căn bản được Giáo Hội bầy tỏ ngay từ thuở ban đầu. Thưa các bạn, đây là một con người của đức tin: giữa những hồ nghi, nhạo cười và hoang mang, người dám khẳng định rằng chắc chắn có những chân lý để chúng ta hy vọng vì các chân lý ấy xuất phát từ Thiên Chúa chứ không phải từ chúng ta!
Đức tin. Một người quản lý thận trọng lượng giá những quà tặng, những báu vật, những điều mà ông đang có trong tay, với nhận thức rằng ông cần phải tiếp tục tìm về điều đó. Chúng ta là các quản lý, và có quà tặng nào trong kho lẫm nội tâm chúng ta quý giá hơn đức tin? Có lẽ chúng ta phải tích lũy chứ?
Thư gửi tín hữu Do Thái viết, “Đức tin là đảm bảo những ân huệ mà chúng ta hy vọng, là bằng chứng của sự hiện hữu của các thực thể mà hiện chưa được thấy.” Phải, bất kể những mẫu thuẫn, những vu vơ và chỉ trích đầy dẫy chung quanh chúng ta, đức tin giúp chúng ta kiên trì bám víu lấy những điều chắc chắn: Thiên Chúa hiện hữu! Người yêu thương chúng ta! Người đã mặc khải các chân lý cho chúng ta! Người đã sai Con một để trở nên “đường, sự thật và sự sống” (Gioan 14:6)! Con của Người đã cứu chuộc chúng ta bằng cái chết và sự phục sinh, và hiện vẫn sống, vẫn hùng mạnh ở với chúng ta! Tâm hồn chúng ta vững vàng trong đức tin này! Firmum est cor meum.
Đức tin chúng ta đảm bảo rằng những tuyên bố trên là sự thật, không dựa trên chứng cớ bệnh hoạn, lạnh nhạt, nhưng trên đức tin đơn sơ như trẻ thơ, một cách khiêm tốn vào Cha trên trời, Người không bao giờ lừa dối chúng ta!
Đức tin, dĩ nhiên có đối tượng của nó chứ không chỉ là những tuyên bố hay tín điều, nhưng là một con người, đó là Đức Giêsu Kitô. Chúng ta tin Người, và do đó tin ở những gì mà Người và Giáo Hội dạy bảo.
Nhiều người có các anh chị em của mình với con nhỏ. Nếu giống tôi, bạn sẽ rất thích thú khi thấy các cháu của mình và thấy đức tin của chúng nơi cha mẹ. Không dựa trên lý trí nhưng rất tự nhiên, không gò bó, như một phần của con người... Các em biết rằng:
- khi chúng khóc, mẹ chúng sẽ đến;
- khi chúng sợ, mẹ sẽ ẵm bế;
- khi chúng đói, mẹ sẽ cho ăn;
- khi chúng cô đơn, chúng chạy đến mẹ.
Đức tin... và đó là đức tin của chúng ta nơi Thiên Chúa. Charles de Foucauld nhận ra điều này khi người viết, “Vào giây phút tôi nhận thức được sự hiện hữu của Thiên Chúa, tôi không thể làm gì khác hơn là sống cho một mình Người... Đức tin lột bỏ mặt nạ của thế gian và cho thấy Thiên Chúa ở trong mọi sự. Đức tin có thể làm được mọi sự và làm cho các danh từ trở nên vô nghĩa, tỉ như lo lắng, sợ hãi, và nguy hiểm, nhờ đó người tín hữu đi qua cuộc đời một cách bình thản, với niềm vui sâu đậm--như đứa bé nắm tay mẹ nó.”
Sẽ bi thảm là chừng nào nếu chúng ta coi thường đức tin, một khía cạnh nguyên thủy của đời sống chúng ta! Một tinh thần quản lý chểnh mảng! Một trong những lý do khiến các linh mục sẩy chân và vấp ngã, hoặc tại sao họ co quắp lại thành những người độc thân cẩu thả, gắt gỏng, không lo lắng và lười biếng, thì không dính dáng gì đến ơn gọi nhưng tất cả chỉ vì đức tin! Như Đức Giám Mục Sheen có nói, “Sự khủng hoảng trong linh mục không phải vì vấn đề căn tính nhưng vì đức tin!”
Một linh mục mà khi còn nhỏ tôi rất khâm phục đã từ bỏ chức linh mục vào lúc tôi đến làm việc tại đại chủng viện. Tôi rất bối rối. Anh gửi cho tôi một lá thư mà thỉnh thoảng tôi vẫn đọc lại, trong đó anh nói, “Phải, con đã mất ơn gọi linh mục, nhưng, con phải thú nhận, con đã mất đức tin nhiều năm trước đó. Và không có gì khốn khổ cho bằng một linh mục mà không có đức tin!” Thật quá đúng.
Như Thánh Phaolô viết cho Timôtê: “Nhưng, là một người tận hiến cho Thiên Chúa... anh phải cố trở nên... tràn đầy đức tin... “ (1 Tim 6:11-12). “Với đức tin và đức mến nơi Đức Kitô Giêsu, anh hãy gìn giữ những lời lành mạnh tôi dạy bảo như mẫu mực. Anh đã được giao phó để theo đuổi một điều gì quý báu; hãy bảo toàn nó với sự trợ giúp của Thánh Thần ngự trong chúng ta!” (2 Tim. 1:13-14).
Các anh em thân mến, điều này rất liên hệ đến sự đào tạo, đến ơn gọi của chúng ta, đến tất cả mọi lý do tại sao chúng ta ở đây, bởi vì dân chúng nhìn đến chúng ta như những người có đức tin!
Có câu chuyện nói về Đức Mahatma Gandhi: Từ một nơi hẻo lánh trong nước Ấn, một người mẹ có con thơ đã phải trải qua cuộc hành trình lâu mười một tiếng đồng hồ để gặp Đức Gandhi và xin người giúp đỡ cho đứa con trai ba tuổi của bà, nó ngang bướng, lúc nào cũng náo động, không chịu ngủ, luôn luôn phá phách.
Đức Gandhi trả lời, “Nói cho tôi biết đủ mọi thứ về nó. Cho tôi biết nó nói gì, mặc gì, ăn gì, chơi đùa như thế nào, mơ thấy gì, chơi với ai.” Người mẹ kể lại tất cả. Sau giây phút im lặng, Đức Gandhi nói, “Tôi biết điều khó khăn đó, nhưng một tháng nữa tôi mới cho bà biết. Hãy trở lại đây.”
Đúng một tháng sau, người mẹ này lại vất vả trải qua cuộc hành trình mười một tiếng đồng hồ đến gặp Đức Gandhi, bà hỏi, “Con trai của tôi có gì sái quấy?” Vị thánh sống này trả lời, “Nó ăn quá nhiều đường. Đừng để nó ăn đường nữa thì nó sẽ yên.”
Người phụ nữ, phần nào khuây khỏa vì tìm ra nguyên do, phần nào khó chịu và nói, “Nếu câu trả lời quá đơn giản như vậy, sao tôi phải cực nhọc đến đây một lần nữa? Sao ông không cho tôi biết từ tháng trước?”
Đức Gandhi trả lời: “Tôi không thể cho bà biết vào lúc ấy, chỉ vì tôi cũng đang ăn đường.”
Tôi nghĩ đây là một hình thức của câu chúng ta thường nói nemo dat quod non habet (”không ai có thể cho cái mà họ không có”)! Đức Gandhi biết rằng, trước tiên ông phải thi hành những gì mà ông sẽ khuyên bảo người khác.
Chúng ta tốn nhiều thì giờ khi là linh mục--ở tòa giảng, toà giải tội, phòng tiếp khách, lớp học, giường bệnh, nhà quàn--để nói với dân chúng rằng, “Hãy có đức tin!” Nhưng, chúng ta có đức tin không? Chúng ta có phải là người có đức tin chưa?
Phải, dân chúng nhìn đến chúng ta như những người có đức tin, dù rằng đức tin của họ thường sâu đậm hơn chúng ta. Thật xấu hổ khi các linh mục yếu đức tin, bởi cách họ sống, điều họ nói, điều họ làm hay không làm. Ngày nay, dân chúng phải đối diện với biết bao linh mục là những người nhạo cười đức tin, công khai chỉ trích huấn quyền và bỏ qua những chân lý của Giáo Hội.
Tôi nhớ có lần cử hành Thánh Lễ đêm Giáng Sinh tại giáo xứ nơi bố mẹ tôi sinh sống chỉ để nghe vị linh mục trong bài giảng nói với dân chúng rằng, Phúc Âm mà họ vừa nghe, tất cả chỉ là hoang đường, được giàn dựng, có lẽ chẳng bao giờ xảy ra cả. Bạn có thể tin nổi không? Tôi nhớ có lần trong lớp giáo lý tân tòng, một người yêu cầu vị linh mục giảng dạy giải thích thêm về sự hiện diện thực của Chúa Giêsu trong hình bánh, thì vị linh mục này lại nói rằng học thuyết này không bền vững, đang bị đặt lại vấn đề và được tái công thức hóa bởi các thần học gia sáng giá nhất ngày nay.
Như cha linh hướng của tôi là Đức Ông John Tracy Ellis thường nói, “Không, Giáo Hội không có mọi câu trả lời, nhưng chắc chắn Giáo Hội có nhiều hơn bất cứ tổ chức nào trên trái đất!” Và, vì Chúa, các linh mục của Giáo Hội không phải trung thành và yêu mến Giáo Hội hay sao?
Tại cực điểm của niên lịch phụng vụ, Đêm Phục Sinh, Giáo Hội yêu cầu mọi người nghĩ lại câu hỏi: Chúng ta có phải là một dân có đức tin hay không? Qua từng phần của Kinh Tin Kính, Giáo Hội hỏi, Bạn có tin không? Tôi coi đó là một phần thiết yếu của việc chăm sóc tâm linh mà chúng ta không ngừng tự hỏi mình khi kiểm điểm lương tâm chúng ta về đức tin.
Chúng ta có tin Thiên Chúa không? Tôi hy vọng là có! Nhưng, chúng ta có tin nơi Thiên Chúa, Đấng mật thiết can dự vào cuộc đời chúng ta, Đấng từng mặc khải chính mình cũng như các chân lý về Người và phương cách mà Người muốn chúng ta sống hay không? Chúng ta có tin Người đã mặc lấy xác phàm trong lòng Đức Trinh Nữ Maria, Người thực sự đã sinh ra, đã sống, đã chịu đau khổ, đã chết, đã sống lại, đã lên trời, và đã ban Thần Khí Người xuống hay không?
Chúng ta có tin Thiên Chúa là Đấng đã tạo nên chúng ta theo hình ảnh và giống Người, và Đấng đã tiền định cho chúng ta sự vĩnh cửu, một vĩnh cửu với Người hoặc không có Người? Chúng ta có tin Đấng đã thở hơi vào chúng ta một linh hồn bất tử, và đem cho chúng ta căn tính cũng như được làm người, và có thể chia sẻ sự sống của Thiên Chúa được ban cho chúng ta trong ơn huệ không sao sánh được, gọi là ơn thánh hóa không?
Chúng ta có tin Thiên Chúa hằng sống và quyền năng trong lời chúng ta cầu nguyện cũng như trong Giáo Hội được phát sinh từ cạnh sườn của Con của Người, mà Người tiếp tục hoạt động trong bảy bí tích, thực sự hữu hiệu và chu toàn những gì bí tích ấy biểu thị; đó là bí tích rửa tội mà qua đó chúng ta trở nên con cái Thiên Chúa và đền thờ của Chúa Thánh Thần; đó là bí tích Thánh Thể mà nhờ đó chúng ta thực sự được lãnh nhận Chúa chúng ta, chính mình, máu, linh hồn, và thiên tính của Người; đó là bí tích hòa giải mà nhờ đó tội lỗi chúng ta được tha thứ?
Chúng ta có tin là Người tiếp tục dạy dỗ chúng ta trong Kinh Thánh và Truyền Thống của Giáo Hội, được cẩn thận duy trì bởi các vị thừa kế các tông đồ, các giám mục, nhất là đấng kế vị Thánh Phêrô không?
Tôi có tin là Thiên Chúa ấp ủ tôi cách riêng và đã gọi tôi ngay từ khi tôi được thụ thai trong lòng mẹ, và Người đã có một kế hoạch cho tôi, Người đã gọi tôi đi theo Con của Người, là Đấng Cứu Độ và là Chúa của tôi không? Tôi có tin là Người biết tôi rõ hơn chính tôi, Người luôn yêu tôi, và đang mời gọi tôi phục vụ Người và Giáo Hội như một linh mục trung tín không?
Chúng ta có tin rằng chức linh mục là một cam kết không thể hủy bỏ, tuyệt đối, cố định đối với Chúa Kitô và Giáo Hội mà thiên chức ấy giúp tôi hành xử như Đức Kitô, là đầu, là chủ chiên, và là hôn phu của Giáo Hội Người hay không?
Hãy công nhận tầm quan trọng nòng cốt của câu hỏi này: Tôi có thật sự tin không? Nhất là trong thời đại của sự do dự, hoài nghi, yếm thế mà nó chủ trương rằng chỉ những gì có thể chứng minh bằng công thức toán học hay khảo sát bằng kính hiển vi thì mới là sự thật... trong một thời đại mà nó chủ trương rằng đức tin chỉ là sự lập dị kỳ quái của những ai hèn yếu, bất an, hoặc tệ hơn nữa chỉ là đồ giả tạo mê tín dị đoan nhằm đưa con người vào sự nô lệ, tôi thực sự có đức tin không?
Chúng ta là những người có đức tin mạnh mẽ hoặc chúng ta chẳng là gì cả! Vì không có gì đáng thương hơn là một linh mục không có đức tin--và nhiều người như vậy. Với đức tin chúng ta cầu khẩn, sống tình anh em, thăng tiến tâm linh! Với đức tin chúng ta hăng hái sống đức hạnh, hợp đạo lý theo sự thúc giục của ơn sủng! Với đức tin chúng ta hăng say và độ lượng với dân chúng! Với đức tin, mọi sự đều có ý nghĩa: chúng ta có bình an và niềm vui. Như Thánh Augustine đã nói, “Chỉ khi nào đức tin chúng ta còn thao thức thì sẽ có bình an và thanh thản trong tâm hồn Kitô Hữu. Khi đức tin chúng ta ngủ quên, chúng ta sẽ trong tình trạng nguy hiểm!”
Không có đức tin--không có ý nghĩa, không có động lực, không có lý do. Chúng ta sẽ trở nên lạnh nhạt, lười biếng, yếm thế và hay gắt gỏng. Các bí tích thì rỗng tuếch--vì chúng ta không còn tin nữa; bài giảng thì chán chường--vì chúng ta không tin điều chúng ta nói; và chúng ta tuyệt vọng tìm kiếm ý nghĩa trong chai rượu, nơi các chú giúp lễ, nơi các phụ nữ, nơi các câu lạc bộ thể thao, hay chơi “stocks”, chơi xe, đi du lịch, hay thăng quan tiến chức, hoặc thể hiện tham vọng ...
Không có đức tin, chúng ta tự đưa mình đến vực thẳm. Vì một ngày nào đó, sớm hay muộn, các khủng hoảng sẽ xảy đến. Có thể là vì một bài sai không đúng ý, mệt mỏi vì hàng ngày phải đương đầu với sự dữ và đau khổ, chán nản vì chính sự yếu đuối của mình; có thể là vì tiếng sét ái tình, cô đơn, bệnh hoạn, hay hồ nghi. Sự khủng hoảng sẽ đến, có lẽ dưới hình thức các câu hỏi thật ray rứt: Tại sao tôi làm việc này? Tại sao tôi vẫn làm như vậy? Chức linh mục có giá trị thật không? Có Chúa không? Giáo Hội có phải do Chúa lập nên không? Tôi có khờ không? Nếu không có đức tin, tất cả những khủng hoảng ấy chắc chắn sẽ đến với chúng ta!
Tôi rất thích đoạn văn mà Thomas Merton, có lẽ cũng trong giây phút thử thách nhưng còn bám víu lấy đức tin của mình, đã viết như sau:
Lạy Chúa, con không biết con đang đi đâu. Con không thấy con đường trước mặt. Con không biết nó chấm dứt ở đâu. Con cũng không thực sự biết chính con, và quả thật ngay khi nghĩ rằng con đang theo thánh ý Chúa thì không có nghĩa là con thực sự làm điều đó. Nhưng con tin rằng cái khao khát muốn làm vui lòng Chúa thì quả thật đã vui lòng Chúa rồi. Và con hy vọng luôn có sự khao khát ấy trong mọi việc con làm. Con hy vọng là không bao giờ con làm bất cứ gì ngoài sự khao khát ấy. Và con biết rằng khi con làm điều này Chúa sẽ dẫn dắt con theo đúng đường dù có thể con không biết gì về con đường ấy. Do đó, con luôn luôn tín thác vào Chúa dù dường như con đang lạc trong bóng tối sự chết. Con sẽ không sợ, vì Chúa luôn ở với con, và Chúa không bao giờ để con một mình đương đầu với hiểm họa.
Làm thế nào để chúng ta gia tăng và bảo vệ đức tin?
1. Tôi hy vọng là việc theo đuổi kiến thức thần học sẽ gia tăng đức tin của chúng ta. Fides quaerens intellectum (”Đức tin tìm kiếm sự hiểu biết”), như Thánh Anselm đã định nghĩa. Chúng ta sợ một đức tin nhạt nhẽo, cũ rích, ngây ngô và có tính cách phòng thủ; chúng ta thèm khát một đức tin mạnh mẽ, sống động, chắc chắn và như trẻ thơ. Do đó, chúng ta không sợ để tìm tòi, thắc mắc, đặt vấn đề, đào xới. Như Đức Giáo Hoàng Lêo XIII đã nói, “La Chiesa non ha paura della verità” (”Giáo Hội không sợ sự thật”). Đó là lý do tại sao các bạn là những người “trong thần học”--để củng cố đức tin của mình!
Và từ sự nghiên cứu mãnh liệt này, việc tìm kiếm tới mức và đầy suy tư, việc lắng nghe và trầm ngâm, sẽ phát sinh một đức tin mà chúng ta quá quen thuộc đến độ có thể phát biểu một cách độc đáo, đầy tin tưởng, nhưng giản dị như thơ văn. Vào ngày đầu tiên tôi đến dạy học trường nhà xứ, cha sở nói, “Bây giờ chúng tôi mới có thể thấy cha đã thực sự học hỏi được gì về thần học khi cha sửa soạn dạy lớp một.” Người thật đúng là dường nào!
2. Sự cầu nguyện gia tăng đức tin của chúng ta, vì, tự cốt lõi, đức tin là món quà mà chúng ta phải xin. Trong Phúc Âm có rất nhiều câu thật đẹp--”Lạy Chúa, con tin! Xin giúp cho sự yếu đuối đức tin của con!”, “Lạy Chúa, xin hãy gia tăng đức tin của con!”--là những câu không thể bỏ qua được.
Tôi nhớ có lần khuyên bảo một giáo sư toán của Đại Học Washington ở St. Louis. Ông kết hôn với một thiếu nữ Công Giáo và thành thật muốn gia nhập Giáo Hội. Chưa có ai chịu khó tìm kiếm đức tin như ông! Ông không bao giờ quên một mệnh lệnh nào, ông ngấu nghiến từng bài giáo lý tôi đưa, ông đặt những câu hỏi hóc búa, ông đọc cả cuốn Summa (Tổng Luận Thần Học)! Nhưng, vẫn không có đức tin. Ông hỏi một cách đau khổ, “Thưa cha, con có thể làm gì hơn?”. Và rồi tôi sực nhớ rằng cả hai chúng tôi đều coi đức tin như thể một môn học, một kỷ luật, một kiến thức có thể tiêu hóa được. Dĩ nhiên, không phải như vậy--đó là món quà của Thiên Chúa. Do đó, tôi nói, “Ông có cầu xin Chúa ban cho ông đức tin không?” “Thưa cha không.” Và rồi ông đã xin. Tôi cũng xin. Ông đã rửa tội; con trai đầu lòng của ông cho tôi biết ông muốn làm linh mục. Hãy xin ơn đức tin!
Một cha linh hướng đã từ trần có lần khuyên tôi về một điều mà người gọi là “cầu nguyện có lớp lang”, trong đó tôi sẽ đơn sơ nói với Chúa những gì tôi tin, những gì tôi trân quý, những gì tôi không thể sống mà không có, những gì giúp tôi vượt qua thử thách--là đức tin của tôi. Điều đó thật có ích cho tôi.
3. Hãy thận trọng về các dấu hiệu. Chúng ta muốn tìm kiếm các dấu hiệu, những xác nhận hoa hòe về đức tin của chúng ta. Bây giờ, truyền thống Công Giáo của chúng ta luôn luôn chủ trương rằng các điều ấy--những lần hiện ra, phép lạ, Khăn Liệm Turin, các lời sấm, năm dấu thánh--có thể gia tăng đức tin, nhưng không bao giờ thế cho đức tin. Và nếu tất cả những điều bề ngoài ấy xẹp xuống, thực sự như vậy, thì sao? Đức tin chúng ta không tùy thuộc vào điều đó, nhưng vào Người. Các điều ấy chỉ là gia vị, chứ không phải là cơm bánh.
4. Các khủng hoảng, sự đau khổ--có thể thanh tẩy và kiên cường đức tin của chúng ta. Tôi không biết có lúc nào đức tin của tôi mạnh mẽ hơn là khi tôi đọc lời cầu nguyện cho người chết trước thi hài còn ấm áp của cha tôi sau khi ông chết bất tử, với mẹ tôi đang thổn thức bên cạnh.
Đức tin thì dễ dàng vào ngày chịu chức linh mục, nhưng khó khăn khi lần đầu tiên bạn bị cha sở bốp chát vào mặt; đức tin thì đẹp khi bạn khỏe mạnh, nhưng thật khó khi bạn bị đau ốm. Chúng ta không cần đức tin khi đầy đủ, mãn nguyện, vừa ý--nhưng chúng ta cần đức tin khi chán nản, lo âu, bồn chồn, bận rộn! Sự thoải mái, dễ dàng, an toàn đôi khi có thể bóp nghẹt đức tin. Như chúng ta nghe trong thư của Thánh Giacôbê: “Hỡi anh em, hãy coi đó là niềm vui khi anh em gặp nhiều thử thách, vì anh em biết rằng sự thử thách đức tin sẽ giúp anh em thêm vững mạnh” (Giacôbê 1:2-3).
5. Chúng ta cần tình đồng đội, sự hỗ trợ, và sự khuyến khích của những người mà họ duy trì đức tin của chúng ta. Đó không phải là lý do căn bản của một chủng viện hay sao?
Ở North American College, chúng tôi cầu nguyện với nhau và cho nhau, chúng tôi cố đạt được cùng một mục đích, chúng tôi bàn thảo về đức tin, và hy vọng chúng tôi sẽ là một gương mẫu tốt lành cho nhau. Ở đây chúng tôi có các vị cố vấn và các cha linh hướng là những người thách đố và khảo sát chúng tôi. Tôi nhớ một trong những chủng sinh năm thứ nhất có nói với tôi sau ba tuần sống tại đây, “Thưa cha, thật tốt để ở với những người cùng chia sẻ đức tin với con, ở đây con không sợ hay ngượng ngùng khi nói về Chúa Giêsu, hay Đức Maria, hay cầu nguyện, hay chiêm niệm, hay lo âu.” Cám ơn Chúa, ở đây chúng tôi có tình đoàn kết trong các nhóm cầu nguyện, tỉ như nhóm Gesù Caritas, tận hiến cho Mẹ Maria, hợp nhất trong tinh thần tông đồ, và học hỏi.
Khi chúng ta rời chủng viện, chúng ta cần có bạn hữu và anh em linh mục là những người sẽ tiếp tục hỗ trợ đức tin của chúng ta. Và điều khó tin là, chính những người mà chúng ta cố gắng kiên cường đức tin của họ thì lại là người hỗ trợ đức tin của chúng ta: những bệnh nhân cần rước lễ; những người đơn sơ tham dự Thánh Lễ hàng ngày; các gia đình Công Giáo đơn sơ, đứng đắn.
Còn điều gì thiết yếu hơn đức tin?
Mới đây, tôi đến dự cuộc họp ở Venerable English College. Trong nguyện đường có tấm chân dung của các chủng sinh ở thế kỷ mười sáu được gửi đến nước Anh để hoạt động mục vụ mà chắc chắn họ sẽ tử vì đạo. Hàng trăm người được gửi từ Rôma sang nước Anh là nơi Giáo Hội đang bị bách hại. Nhiều người bị bắt ngay khi xuống tầu. Họ bị cảnh cáo, bị đe dọa, bị gửi về lại Âu Châu... nhưng rồi họ lại xuất hiện ngay trong chuyến tầu kế tiếp. Hàng chục, hàng trăm người bị rắc rối, bị cầm tù, bị tra tấn, bị chết vì đạo một cách tàn nhẫn... và những câu chuyện này thay vì làm nhụt chí thì lại nung nấu sự hăng say của các anh em linh mục ở đây. Họ tiếp tục đi sang. Như một người trong các vị ấy đã viết: “Đức tin là sự sẵn sàng để chết vì Đức Kitô, vì các mệnh lệnh của Người, với sự tin tưởng rằng chết như thế là được sống; sự nghèo nàn trở nên giầu sang, sự đáng khinh và tầm thường trở nên vinh dự đích thực, và, khi trắng tay bạn lại có mọi sự. Nhưng, trên tất cả, đức tin là đạt được kho báu vô hình vì được biết Đức Kitô.”
Khi ở hầm mộ tại Campo Verano nhân ngày lễ Các Linh Hồn, tôi đọc được một tấm bia tưởng niệm Joe Toomey, là người chỉ sau tôi có một lớp khi còn ở đại chủng viện của tổng giáo phận Nữu Ước. Khi nhớ đến anh, tôi nhớ đến bức thư anh gửi cho chúng tôi. Tôi vui sướng khi tìm được bức thư này.
Anh Charlie và các bạn ở NAC thân mến,
Hai tuần vừa qua thật quá nhiều thử thách. Trong khi tôi nằm bệnh viện, các bác sĩ luôn nói với tôi rằng là họ cố gắng hết sức để thành công. Mọi hậu quả khủng khiếp của chất thuốc lại trở lại và tôi chiến đấu với tất cả can đảm và hy vọng. Tôi tin chắc rằng hóa chất sẽ tiêu diệt bệnh ung thư còn sót lại.
Năm ngày sau khi tôi được xuất viện. Tôi chụp hình phổi và choáng váng khi thấy kết quả. Thật đau lòng, bệnh tình của tôi chỉ thuyên giảm có chút đỉnh. Ông bác sĩ rất buồn khi nói với tôi rằng tôi sẽ phải trở lại cách chữa trị ghê tởm ấy trong một thời gian vô hạn định.
Điều này khiến tôi buồn tê tái trong nhiều ngày. Nhưng Thiên Chúa sẽ không để tôi đắm mình trong sự tuyệt vọng vô nghĩa. Người luôn nhắc nhở tôi phải tìm sức mạnh nơi các bí tích. Lời cầu nguyện của các bạn đã đem cho tôi sức mạnh tâm lý và tâm linh cần thiết để đối diện với một tương lai có lẽ rất đau đớn về thể xác.
Tối nay, tôi đã khóc khi nghĩ đến các bạn, khi khao khát được trở về trường. Có lẽ Thiên Chúa cho phép tôi chịu đau khổ bây giờ để kiên cường tâm linh của các bạn và những người mà tôi đã gặp. Đây là một mục đích thật vui, một thúc đẩy của tình yêu đích thực.
Làm ơn tiếp tục viết thư cho tôi; hy vọng tôi sẽ gặp lại các bạn vào mùa thu tới.
Đức Hồng Y Cooke đã phong chức phó tế cho anh Joe ngay trên giường bệnh, và anh đã từ trần bảy tuần sau khi viết lá thư ấy.
Điều gì có thể giải thích lá thư ấy nếu không phải là đức tin? Điều gì có thể giải thích cho những điều chúng ta hy vọng khi sống đời linh mục nếu không phải là đức tin?
Chúng ta hãy đọc Kinh Đức Tin:
Lạy Chúa, con tin thật có một Thiên Chúa trong Ba Ngôi, Ngôi Cha, Ngôi Con, và Thánh Thần. Con tin rằng Con Chúa đã xuống thế làm người, và chịu chết vì tội lỗi chúng con và Người sẽ đến để phán xét kẻ sống cũng như kẻ chết. Con tin những điều ấy và tất cả những chân lý mà Giáo Hội Công Giáo dậy vì Chúa đã mạc khải cho họ, là những người không lừa dối và cũng không bị dối gạt.