(Đoạn trích Kinh Thánh: Phil 4:7-9)
Toàn thể công trình đào tạo linh mục sẽ thiếu sót nền tảng cần thiết nếu mất đi việc đào tạo con người. Linh mục, được mời gọi để trở nên một hình ảnh sống động của Chúa Giêsu Kitô, là đầu và chủ chăn của Giáo Hội, phải cố gắng cho thấy bản chất con người của mình, càng giống càng tốt, với sự tuyệt hảo nhân bản được chiếu tỏa trong Con Thiên Chúa Nhập Thể và đặc biệt được tỏ hiện trong thái độ của Người đối với tha nhân như chúng ta thấy tường thuật trong Phúc Âm…Để thừa tác vụ của linh mục có thể trở nên đáng tin cậy và chấp nhận được về phương diện nhân bản, thật quan trọng là linh mục phải khuôn đúc nhân cách của mình sao cho trở nên một nhịp cầu để người khác đến với Chúa Giêsu Kitô hơn là một chướng ngại—(số 43)
Lời nói đầu trích từ tông huấn của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Pastores Dabo Vobis, và có lẽ đó là câu thường được trích dẫn nhất trong toàn thể văn kiện. Các bình luận gia suy diễn rằng lời phát biểu này được nhiều người coi là cách mạng nhất bởi vì, tuy Giáo Hội mặc nhiên công nhận điều đó trong nhiều thế kỷ, nhưng chưa có giáo hoàng nào dám nói lên một cách chính thức và thẳng thừng. Đức Thánh Cha đơn giản tuyên bố rằng sự quan trọng hàng đầu của việc đào tạo con người trong toàn thể công trình chuẩn bị cho chức linh mục, mà một ứng viên chức thánh phải phát triển các nhân đức tự nhiên, nhân bản cộng thêm với các nhân đức siêu nhiên; mà cá tính, nhân cách, tính tình của chúng ta tạo thành nội dung, “đủ mọi thứ” của chức linh mục, là điều mà Chúa đã “tái sắp xếp” và dùng trong bí tích chức thánh; và cá tính, tính khí, nhân cách của chúng ta, khi là linh mục, sẽ hoặc lôi kéo người ta đến với Chúa Giêsu và Giáo Hội của Người, hoặc khiến họ xa lánh.
Tất cả những gì Đức Thánh Cha muốn nói đó là “ơn sủng được xây đắp trên bản chất tự nhiên,” theo như câu nói lừng danh của Thánh Tôma. Ơn Chúa thăng tiến, tác động, và biến đổi bản chất của chúng ta. Chúng ta chỉ cung cấp nguyên liệu cho ơn sủng lạ lùng của Chúa. Như có lần tôi nhắc đến trong một Thánh Lễ, “Chúng ta không thể có chiếc bánh ngon nếu không có bột tốt.” Tôi muốn nói với các bạn về loại bột chúng ta cung cấp cho Chúa để làm việc. Đó là những gì trong nhân cách, cá tính, tính khí của chúng ta phải nhuần nhuyễn để ơn Chúa hoạt động, đó là nắm đất sét trong bàn tay của Thợ Gốm, mà Người có thể dùng để đem dân chúng đến với Người? Và đó là những gì trong cá tính, bản chất của chúng ta, cưỡng lại ơn sủng của Người, khiến dân chúng phải xa lánh Chúa và Giáo Hội? Nói cách khác, sự đào tạo con người.
“Chủng sinh thế nào thì linh mục sẽ như vậy,” ngạn ngữ nói rất đúng. Thường chúng ta áp dụng câu đó vào đời sống siêu nhiên--nếu bạn cầu nguyện và luyện tập nhân đức khi là chủng sinh thì bạn cũng sẽ làm như vậy khi là linh mục; nếu bạn không sống nhân đức khi là chủng sinh thì khi là linh mục bạn cũng sẽ lười biếng, bởi vì chức thánh, tuy có thể biến đổi căn tính thiêng liêng của bạn, sẽ không thay đổi thói quen của bạn.
Bởi vì ơn sủng được xây dựng trên bản chất, Chúa chỉ có thể hoạt động với những gì chúng ta trao cho Người.
Nói cho cùng, điều đó không có gì mới lạ, nhưng, như một phản ứng với lời của Đức Thánh Cha, Giáo Hội dường như thức tỉnh trước giá trị của việc đào tạo con người ngày nay. Tôi nghe thấy điều đó từ các giám mục, các cha giám đốc chủng viện, các cha xứ, và rất nhiều từ giáo dân: ít khi tôi nghe họ phê bình bất cứ chủng sinh nào của trường North America là thiếu cầu nguyện, không tuân phục giáo huấn, không đạo đức--điều họ chỉ trích là các thiếu sót của con người.
Mới đây tôi hỏi một giám mục về một chủng sinh và người buồn bã trả lời là cha xứ đã yêu cầu thuyên chuyển chủng sinh ấy. Tôi hỏi, Sao vậy? Có phải vì giảng dở, không chu toàn mục vụ, thiếu chuẩn bị thần học, không có thói quen cầu nguyện? Không phải những điều đó! Vậy sao cha xứ lại yêu cầu thuyên chuyển? Vì căn phòng của anh như cái chuồng heo! Người quản gia cũng không muốn bước chân vào dọn dẹp. Ngay cả giựt nước cầu tiêu hắn cũng không làm. Đó không phải là vấn đề siêu nhiên, có phải không? Đó là về nhân cách! Nhưng nó đã làm suy yếu khả năng để hành xử như một linh mục. Việc đào tạo con người…
Tôi hỏi cha xứ về một chủng sinh khác. Người trợn tròn đôi mắt rồi lắc đầu. Lại một chuỗi câu hỏi: Có phải vì bài giảng của anh ta? Không. Kiểu cách phụng vụ của anh? Không. Thiếu đời sống cầu nguyện? Không. Thiếu căn bản thần học? Không phải vậy. Vậy là gì? Cha xứ trả lời, “Hắn rất khó chịu.” Người kể ra rằng hắn cao ngạo, thô bỉ với giáo dân, ích kỷ không muốn chia sẻ thời giờ của mình, ngạo mạn với hội đồng giáo xứ, với giáo dân thì cái gì cũng biết. Lại là vấn đề đào tạo con người: không có gì là siêu nhiên ở đây cả, nhưng một người với tư cách, cử chỉ và cá tính làm người ta xa lánh hơn là đưa họ đến với Đức Kitô.
Chúng ta được gọi là người xây cầu, từ chữ pontiflex. Cử chỉ, tư cách và cá tính của chúng ta là để thu hút dân chúng, chứ không phải làm họ sợ hãi, đau khổ và xa lánh. Do đó chúng ta phải ý thức về các đặc điểm trong cá tính của chúng ta để như đá nam châm thu hút người ta về với Chúa Giêsu và Giáo Hội của Người, và liên lỉ thăng tiến, trau chuốt, và cải thiện chúng; và vì thế chúng ta phải thẳng thắn đối phó với các đặc điểm mà nó làm tổn thương, đe dọa và xúc phạm đến người dân, và tìm cách gột rửa chúng khỏi tính khí của chúng ta.
Khi bạn nói chuyện với các linh mục trong nhà xứ, thường họ thấy điều gì? Sự căng thẳng con người, có phải không? Một người không muốn nói, không muốn hòa đồng; một người cẩu thả để điện cháy sáng và đến trễ; một người để phòng áo lễ bừa bộn và không chịu chia sẻ gánh nặng. Tất cả là những sai sót con người.
Tôi không nói gì mới mẻ. Đa số chúng ta đều bị ảnh hưởng cách sâu đậm bởi một linh mục tốt lành trong đời sống chúng ta, có thể ở nhà xứ, nhà trường, trong tòa giải tội, ở những giai đoạn khó khăn của đời sống. Nhân tính của người--sự thành khẩn, lòng thương người đích thật, sự lưu tâm, sự kiên nhẫn, sự bén nhậy, sự thân thiện của người--nhân tính của người là chiếc xe, là nhịp cầu cho chúng ta gặp gỡ Thiên Chúa, đấng thiêng liêng, siêu nhiên. Tất cả chúng ta đều muốn trở nên một linh mục như thế! Tuy vậy, tất cả các bạn đều gặp các linh mục là người làm bạn bàng hoàng, không phải vì khuyết điểm đời sống nội tâm của họ, vì điều đó chúng ta không biết, nhưng vì cá tính, đặc điểm của họ--gắt gỏng, đời sống xa hoa, lạm dụng tình dục, say sưa, nóng nẩy, ngôn ngữ xử dụng, vô tâm, lười biếng. Hãy trích lời của Đức Thánh Cha. “Thật quan trọng là linh mục phải khuôn đúc nhân cách của mình sao cho trở nên một nhịp cầu để người khác đến với Chúa Giêsu Kitô hơn là một chướng ngại.”
Khi Cha Carl Mengeling được tấn phong làm giám mục của Lansing, trong bài giảng, người nhìn đến Đức Hồng Y Maida, là người tấn phong cho người, và nói, “Thưa Đức Hồng Y, khi đến lúc phải đặt sách phúc âm lên đầu con, xin người ấn cho mạnh, vì con phải để phúc âm thấm nhập qua cái đầu cứng cỏi và ngoan cố của con mà nó thường cưỡng lại những thúc giục của phúc âm.” Không phải tất cả chúng ta đều như thế sao? Nhiều khi chúng ta gọi điều này là “sự hữu hiệu phúc âm hóa”: nói cách khác, điều gì trong cá tính của tôi làm cho lời rao giảng và đời sống Phúc Âm được trở nên hữu hiệu và trôi chẩy, và điều gì không?
Tại trường North America chúng tôi nhấn mạnh đến đời sống tinh thần và trí tuệ. Chủng viện của chúng tôi tồn tại để cung cấp một môi trường là nơi mà một chủng sinh có thể yêu mến Chúa Giêsu ngày càng thân thiết, và học hỏi Mặc Khải của Người với sự nghiêm nhặt và chính xác. Tôi hãnh diện là trong hai lãnh vực này chúng tôi được tiêu chuẩn cao. Các chủng sinh từ giã nơi đây với một đời sống tinh thần vững chắc, có kỷ luật, có nền tảng và một giáo dục thần học tốt đẹp. Nhưng điều này không giúp gì nhiều nếu các đặc tính nhân bản không được tinh lọc và lôi cuốn. Lời cầu nguyện và học thức của một linh mục có ích gì nếu cá tính của họ làm dân chúng xa lánh? Một người có thể biết hết về thần học hôn phối, nhưng nếu quá nhút nhát trước đám đông thì chẳng có đôi trẻ nào đến chuẩn bị hôn phối. Khả năng rao giảng của ai đó có thể chói lọi nhưng chúng sẽ không ích gì nếu trên tòa giảng người ấy la mắng con nít đang khóc.
Đức Tổng GM Fulton Sheen kể một câu chuyện về bài giảng đầu tiên của người khi đi coi xứ. Người chuẩn bị thật kỹ và thật trau chuốt nên tin chắc sẽ thật hay. Sau Thánh Lễ khi chào giáo dân, người chờ xem có ai khen, nhưng không ai nói một lời về bài giảng. Sau cùng, khi mọi người đã ra về hết, người hỏi người thu dọn nhà thờ xem ông ta nghĩ gì. “Thưa Cha, thành thật mà nói, không ai nghe được Cha nói gì.” Vì bây giờ biết rõ về Cha Fulton Sheen, tôi tin rằng nội dung bài giảng hôm ấy thật hay-- nhưng, chỉ vì một thiếu sót con người--người nói quá nhỏ--nên bài giảng của người không giúp gì ai cả.
Một ông chơi đánh gôn (golf) với cha sở và tỏ vẻ thán phục tài nghệ của cha, đánh đâu trúng đó, trong khi ông ta đánh, banh cứ còn cách lỗ đến hai ba thước. Sau cùng ông ta hỏi bí quyết của cha sở. “Có gì đâu, trước khi đánh, tôi đọc kinh Kính Mừng.” Lần tới, cha sở đánh một đường banh thật xa và banh rơi vào lỗ; ông này tin tưởng đọc kinh Kính Mừng và rồi banh vẫn cứ cách lỗ gôn đến hai ba thước. Cha sở nhìn ông và nói, “Kinh kệ không giúp gì nhiều nếu ông không biết chơi gôn!”
Chúng ta phải biết “cách đánh gôn” thì người ta mới bị thu hút đến với Chúa Giêsu và Giáo Hội của Người qua chúng ta. Dù muốn hay không, cá tính của một linh mục có thể góp phần quyết định xem một người sẽ ở lại với Giáo Hội hay không. Khi tôi là một linh mục giáo xứ, tôi thường đến thăm những người Công Giáo từ bỏ Giáo Hội và tôi ngạc nhiên khi thấy người ta từ bỏ Giáo Hội là vì một linh mục hay một nữ tu đã làm họ đau lòng, và lý do đó chỉ đứng sau lý do hôn nhân bất thường. “Ô khi tôi ở trong bệnh viện và mời Cha Nguyễn đến thăm tôi nhưng người không bao giờ đến.” “Mẹ tôi gần chết và mời Cha Trần đến xức dầu nhưng người không đến.” “Khi con cái tôi đi học và chưa kịp đóng tiền học thì cha xứ đã đuổi chúng về.”
Những người đó từ bỏ Giáo Hội vì một linh mục. Điều đó không đúng chút nào, có phải không? Từ bỏ Giáo Hội chỉ vì không thích một linh mục thì có vẻ điên khùng, và chúng ta biết cả. Tôi nhớ khi còn nhỏ ở nhà ông bà nội vào sáng Chúa Nhật sửa soạn đi lễ. Bà tôi nói với ông nội, “Ông à, đã đến giờ đi lễ rồi. “
Ông đang thoải mái đọc báo trên ghế sa lông, và trả lời, “Tôi không đi… Tôi không chịu nổi ông cha mới đó.”
Bà nội trả lời, “Thì ông cũng không thích cái thằng pha rượu ở cái quán đó, nhưng ông có ngừng tới đó hay không?” Ông tôi đứng dậy và đi lễ. Chắc chắn là điên khùng khi bỏ Giáo Hội vì những yếu điểm của một linh mục, nhưng nhiều người lại như vậy, và chúng ta phải thận trọng khi thấy điều đó thì đừng bào chữa. Lậy Chúa xin đừng để bất cứ ai phải xa cách Chúa Giêsu và Giáo Hội Người, chỉ vì những gì chúng con nói hay làm, hoặc vì những gì chúng con không nói hay làm mà lẽ ra phải như vậy.
Vào năm 1996, tôi đang trong buổi liên hoan tại Đại Học John Cabot để kỷ niệm ngày thành lập tờ New York Times thì một nữ ký giả nổi tiếng đến với tôi. Trong quá khứ tôi đã từng nói chuyện với cô ta. Lần này cô có vẻ gay gắt. Cô nói với tôi, “Hãy nói với các chủng sinh là cẩn thận!” Tôi hỏi cô muốn nói gì. “Rôma có thể dậy họ những gì tốt cho Giáo Hội, nhưng nó cũng có thể dậy họ trở nên các linh mục ghê tởm, hung dữ, đầy tham vọng, đâm sau lưng người khác.” Cô tiếp tục cho biết là hôm thứ Hai cô tham dự Thánh Lễ để vinh danh vị tân chân phước Edmund Rice tại nhà thờ Thánh Phêrô và khi ra về, trời mưa tầm tã. Cô có cuộc hẹn gấp phải gặp và lúc ấy rất khó tìm xe taxi, khi tìm được một chiếc và mở cửa xe chuẩn bị bước vào thì một linh mục đã xô cô sang một bên và nhẩy xổ vào. Cô giận điên người. Không cần phải nói, thái độ thô bỉ ghê tởm của linh mục đó đã ảnh hưởng đến các bài viết sau này của cô về Giáo Hội.
Chúng ta phải luôn ý thức rằng chúng ta là một nhân vật công cộng trong Giáo Hội. Xấu hay tốt, đúng hay sai, chúng ta đại diện cho Giáo Hội trước mắt dân chúng. Họ nghĩ thế nào về Chúa Giêsu và Giáo Hội Người thì tùy thuộc lối sống của chúng ta, nhân cách của chúng ta có tốt lành hay không. Thật là một trách nhiệm nặng nề! Dân chúng có thể xa lánh chúng ta, và vì thế chúng ta phải tránh không những hành động sai lầm mà còn có vẻ sai lầm. Trái lại, người dân có thể bị thu hút đến với Chúa và Nhiệm Thể của Người qua chúng ta--và thật là vui sướng biết chừng nào!
Có lần trên máy bay tôi ngồi cạnh một người và họ cho biết đã trở lại đạo Công Giáo vì tấm gương của ĐHY Cooke. Tôi nói, “Ô, thật vậy, trong thời gian người hấp hối, sự kiên nhẫn và phó thác của người đã làm cảm phục nhiều người. “
Ông trả lời, “Vâng đúng vậy. Nhưng tôi trở lại đạo trước đó từ lâu. Một ngày kia ở phi trường, người ta đứng xếp hàng thật dài để chờ lên xe buýt, và ĐHY Cooke cũng đứng chờ ngay phía trước tôi. Một tiếp viên hàng không đi đến và nói nhỏ với người, 'Thưa Đức Hồng Y, xin theo con, con sẽ đưa người đến đứng trước.' Và đức hồng y trả lời, 'Cám ơn nhã ý của anh, nhưng tôi có thể đợi được mà.' Một hành động khiêm tốn đơn giản ấy đã khích động tôi nghĩ đến việc trở lại đạo Công Giáo.”
Chúng ta có thể đưa người ta vào đạo; chúng ta cũng có thể khiến họ xa lánh. Phải, ơn siêu nhiên thì cần thiết, nhưng chúng ta thường hấp dẫn họ hay xua đuổi họ qua nhân cách, phần tự nhiên của cá tính chúng ta.
Bây giờ, tôi sẽ kể ra ba đức tính đặc biệt của con người--và có thể nhiều hơn nữa--mà dân chúng thấy đặc biệt hấp dẫn nơi các linh mục.
Tính thứ nhất thì mờ mờ ẩn hiện, tôi phải thú nhận như vậy, nhưng chỉ có một chữ tôi muốn dùng là “sự tử tế.” Giáo dân yêu thích các linh mục tử tế. ĐHY John O'Connor kể câu chuyện mà sau khi người chịu chức không lâu, người hỏi một linh mục lớn tuổi là có lời khuyên gì không. Vị linh mục này trả lời, “Sao không. Ba điều khuyên nhủ: Hãy tử tế! Hãy ân cần! Hãy tốt bụng!”
Một vài năm trước đây, tôi được mời tham dự các Thánh Lễ đầu tiên của ba tân linh mục. Trong mỗi một tổ chức đầy hân hoan này, nhìn đến dân chúng tham dự đứng chật nhà thờ, tôi có cùng một ý nghĩ: những người này là lý do mà tôi ở đại chủng viện North America--để đào tạo các linh mục tử tế, tốt lành là những người sẽ phản ảnh tình yêu của Thiên Chúa. Tôi nhìn đến giáo dân; nhiều người mặc bộ quần áo duy nhất tươm tất của họ; khuôn mặt họ ánh lên vẻ sung sướng khi được dự phần trong đời sống một linh mục; họ yêu quý vợ/chồng con, giáo xứ, đức tin và Thiên Chúa của họ; họ yêu quý các linh mục, và tất cả những gì họ cần được đáp trả là các linh mục tử tế với họ, chăm sóc họ, cho họ thấy tình yêu của Thiên Chúa. Và họ không được những gì đã chia sẻ với các linh mục, là người đã ruồng rẫy họ, quên lãng nhu cầu của họ, làm họ đau khổ. Nhưng họ vẫn hy vọng. Đó là những người đáng được sự tử tế của chúng ta.
Anh Charles de Foucauld viết, “Trở nên một tông đồ, nhưng làm thế nào? Với sự tử tế và ân cần, yêu thương như anh chị em, sống gương mẫu… Trở nên kiên nhẫn như Chúa đã kiên nhẫn, trở nên tốt lành như Thiên Chúa đã tốt lành, trở nên một người anh chị em tử tế. “
Trong cuốn tiểu thuyết của Jon Hassler, North of Hope, có một đoạn mà người linh mục bị giằng co, tên Frank, nói với cha sở cũ, Cha Adrian, là vị chưởng ấn của giáo phận.
Đức Ông Adrian nói về cuộc đời người trong toà giám mục, “Tôi tưởng mọi thứ đều quan trọng. Tôi tưởng Giáo Hội cần đến khả năng hành chánh của tôi, và, có lẽ như vậy, nhưng bây giờ tôi lại là một cha xứ. Tôi hiểu thế nào là một linh mục. Khả năng tốt nhất của họ là ở công việc giáo xứ. Và cha có biết công việc giáo xứ gồm những gì không? Công việc thực sự của chúng ta là gì không?”
Cha Frank hỏi, “Là gì?”
“Tử tế với giáo dân. “
“Chỉ có thế sao?”
“Tử tế ân cần. Không hơn không kém. “
“Cha có đơn giản hóa không?”
“Không có gì đơn giản hơn.”
Điều đó chắc chắn. Tử tế với giáo dân. Không có gì đơn giản hơn điều đó. Vì tôi không nói đến một người khùng hay mỉm cười như con nít; tôi đang nói về sự tử tế ân cần phản ảnh lòng yêu mến bừng cháy của Thánh Tâm Chúa Giêsu. Thánh Phanxicô “de Sales” trong cuốn Dẫn Nhập vào Đời Sống Đạo Đức nói rằng, chúng ta thu hút nhiều linh hồn với mật ong hơn là giấm chua.
Chúng ta bị cám dỗ để xua đuổi giáo dân, để la mắng, để chán ngấy, để nói rằng chúng tôi đang bận rộn, để nói rằng họ ngu như bò. Để giữ được nụ cười, để dân chúng nghĩ rằng lúc nào chúng ta cũng sẵn sàng dành tất cả thời giờ cho họ, để chứng tỏ chúng ta thực sự lưu tâm, để thăm hỏi về gia đình và những ưu tư của họ, để theo dõi thời sự và hướng dẫn giáo dân--phải trở nên tử tế. Trong Pastores Dabo Vobis, Đức Thánh Cha gọi điều này là “Sự Trưởng Thành Hữu Hiệu”: khả năng giao tiếp với giáo dân một cách tín cẩn, hữu hiệu và trưởng thành.
Bạn có muốn biết một vài điều độc ác với giáo dân và bạn phải để ý trong việc đào tạo nhân cách không?
Giận dữ: đừng bao giờ mất bình tĩnh và xỉ vả ai. Có một lần khi tôi nghe xưng tội và mất bình tĩnh tôi đã la rầy một người. Bà ra khỏi tòa giải tội--tôi chắc là đầy nước mắt--giữa cơn nóng giận của tôi. Cho đến hôm nay tôi vẫn còn hối hận về điều đó. Cho đến hôm nay tôi vẫn cầu nguyện cho bà. Cho đến hôm nay tôi biết rằng khi đứng trước tòa phán xét của Chúa, hành động đó sẽ được phơi bầy trước mặt tôi.
Tôi không nói rằng chúng ta không được cương quyết, rõ ràng và thách đố giáo dân. Là một linh mục, có những lần chúng ta phải cương quyết, từ chối, khẳng định rằng lối sống đó thì không thể chấp nhận được. Một linh mục quen biết nói rằng, tội lạc giáo lớn nhất ngày nay là tội “dễ thương,” khi các linh mục và giám mục quá sợ mất lòng dân hoặc quá do dự đến độ họ trở thành các thừa tác viên nhu nhược, không giống ai. Đó không phải là điều tôi muốn nói.
Tôi nói bạn phải để ý đến hành động--và đừng bao giờ hành động khi nóng giận và có thể làm tổn thương người khác.
Vội vã: một thái độ thứ hai dường như độc ác là luôn luôn có vẻ bận rộn, không còn thời giờ cho giáo dân. Và rồi họ sợ đến với chúng ta vì nghĩ rằng chúng ta đang có điều gì quan trọng hơn để làm.
Thô lỗ: “Tôi chào cha ấy mà ông không thèm nhìn đến tôi.” Vẻ bên ngoài của sự xa cách, thiếu thân thiện. Không phải là hạng người ai cũng vỗ vai, chuyện trò thân mật. Không--nhưng, tin hay không, nói cho cùng dân chúng vẫn sợ các linh mục. Bởi thế, chúng ta phải chủ động.
Một số các bạn hay e dè bẽn lẽn, nhưng đừng để dân chúng nghĩ rằng sự e dè đó là sự thô lỗ thiếu thân thiện. Chúng ta phải chủ động. Sau Thánh Lễ, chúng ta học cách chào hỏi với những câu nói như, “Tôi thấy anh nhiều lần nhưng không nhớ được tên anh.” Giáo dân mong ước có những linh mục thân thiện.
Hãy tử tế! Hãy ân cần! Hãy tốt bụng!
Một đức tính nhân bản thứ hai sẽ gia tăng sự hữu hiệu rao giảng: sự bền bỉ. Người dân muốn trông mong vào linh mục.
Sự đáng tin cậy. Người dân có quyền trông đợi chúng ta thi hành những gì thuộc bổn phận chúng ta.
Một cha sở nói với tôi người vừa có một cha phó mới về, vị này nói với người rằng, “Con sẽ vắng mặt đây hàng ngày từ 1g đến 4g chiều để thăm bà dì con ở nhà dưỡng lão.”
Cha sở nói, “Tôi không nghĩ là điều đó xảy ra được. Có nhiều bổn phận mà cha phải thi hành vào buổi chiều. “
Cha phó nói, “Chắc là cha không muốn con coi bà dì trở nên thứ yếu sau bổn phận của giáo xứ, có phải không cha?”
“Thực tế thì thật như vậy,” cha sở trả lời. Chúng ta có bổn phận với gia đình của chúng ta--là giáo xứ--và dân chúng có quyền đối với sự bền bỉ, sự hiện diện hữu hiệu của chúng ta.
Mới đây tôi đọc được một bức thư “gửi tòa soạn” nguyệt san America của một cha sở ở Bronx, nói về thừa tác vụ của người: “Một khi bạn được biết đến, nếu bạn sẵn sàng và có thể tiếp xúc, nếu bạn tin vào Phúc Âm, giáo dân sẽ gõ cửa nhà bạn, gọi điện thoại cho bạn, và chặn bạn ngay trên đường phố. Đã quá đủ đau khổ, quá đủ lo lắng, quá đủ đói khát Thiên Chúa để khiến bạn bận rộn mỗi ngày. Làm thế nào mà bạn được biết đến? Bạn chào hỏi giáo dân sau Thánh Lễ, bạn đến trường hàng ngày, bạn tham dự các sinh hoạt trong giáo xứ, bạn đến thăm bệnh nhân tại nhà. Một khi bạn được biết đến, nếu bạn sẵn sàng và có thể tiếp xúc, nếu chính bạn tin vào Phúc Âm, bạn sẽ bận rộn.”
Một sự sẵn sàng đáng tin cậy cho người dân. Bạn ở đó vì họ. Mới đây tôi gọi điện thoại cho nhà xứ và nghe máy trả lời: “Vui lòng gọi trong giờ làm việc bình thường, từ 9g sáng đến 1g trưa.” Giờ làm việc bình thường? Bình thường chỗ nào? Chuyện gì lạ vậy? Đó là sự sẵn sàng sao? Không có số điện thoại để gọi khi khẩn cấp. Họ không thấy là hầu hết dân chúng không thể gặp linh mục trong “giờ làm việc bình thường”, vì hầu hết phải đi làm hay sao?
Một điều dân chúng thường than phiền là họ không bao giờ thấy các linh mục. Theo truyền thống, một linh mục tốt lành thì đắm mình trong đời sống của giáo dân khi cần kíp. Người là một người “cha”. Họ có thể trông nhờ vào người. Hãy ấp ủ đặc điểm nhân bản đó của sự đáng tin cậy.
Hãy khởi sự ngay bây giờ! Đó là lý do tại sao một đời sống nhịp nhàng thì quá cần thiết. Nếu chúng ta đáng tin cậy, chúng ta thức dậy vào lúc nào đó và đi ngủ vào giờ nhất định; chúng tránh thức khuya và dậy trễ; chúng ta có một thời giờ trung thành để cầu nguyện, tập thể dục, học hỏi, và nuôi dưỡng tình bạn. Và chúng ta phải chu toàn công việc. Một trong những mục tiêu cao nhất của sự trau dồi nhân cách ở chủng viện là phát triển một đời sống nhịp nhàng mà từ đó phát sinh sự đáng tin cậy về mục vụ. Chúng ta là những người mà việc làm của chúng ta có thể tin tưởng, là người chu toàn nhiệm vụ, đắm mình trong sinh hoạt cộng đồng, và hiện diện với những người mà chúng ta sống cho họ--chúng ta đáng tin cậy.
Và đặc điểm nhân cách thứ ba mà dân chúng trông đợi ở các linh mục: một thái độ lạc quan, đầy hy vọng. Một thái độ như thế chắc chắn phải phát xuất từ nhân đức siêu nhiên là đức cậy, nhưng dân chúng được thu hút đến với Đức Kitô và Giáo Hội Người qua các linh mục luôn tỏ ra phấn khởi và tin tưởng, dù giữa những khổ đau, thất bại, và khó khăn. Họ thường đến với linh mục trong những lúc nguy kịch và khó khăn, và từ đó có thể đến với Thiên Chúa là Tảng Đá vào những lúc khốn cùng qua các thừa tác vụ của một linh mục là người phát tiết sự tin tưởng thanh thản, hớn hở, ngay giữa những bất hạnh.
Trong mọi người chúng ta đều có những khuynh hướng cản trở thái độ lạc quan, đầy hy vọng mà người dân trông chờ nơi các linh mục. Khuynh hướng đó là sự dễ mích lòng khiến chúng ta vội tấn công ngay cả một điều ít khiêu khích nhất. Một số linh mục trở nên dễ buồn phiền. Họ luôn nghĩ rằng họ bị lừa dối, không ai thèm chú ý, bị ngược đãi. Cha xứ thì không tin họ, đức giám mục thì không dùng họ đúng chỗ, giáo dân không biết ơn họ. Bởi đó họ luôn luôn tức giận, bực mình, cảm thấy hối tiếc, và vì vậy thật khó để trưng ra đặc tính lạc quan, hy vọng mà dân chúng khao khát.
Các linh mục chúng ta vẫn có thể trở nên một mảnh đất thối nát. Trong khi được mời gọi sống một cuộc đời phục vụ vị tha, chúng ta mau mắn chú trọng đến đặc quyền, đặc lợi, và vì vậy chúng ta trở nên nhỏ mọn. Một vài nhận xét sau có thể giúp chúng ta.
Trước hết, bây giờ tôi mới nói đến sự cầu nguyện, khi chúng ta xin Tạo Hóa là Đấng đã ban cho chúng ta thân xác để tiếp tục khuôn đúc theo hình ảnh Con của Người. Cho phép tôi đề nghị hai truyền thống có thể giúp chúng ta hàng ngày để thăng tiến trong việc đào tạo nhân cách:
Thứ hai--hãy biết mình. Hãy biết mình thật rõ để tạ ơn Chúa vì có những đặc điểm nhân cách thu hút người ta đến với Chúa Giêsu, và luôn luôn cố gắng gia tăng những đức tính ấy; và thực tế nhận ra các sai lầm thỉnh thoảng làm cản trở và làm giáo dân xa lánh, phải cố gắng thanh luyện hằng ngày và loại trừ những khiếm khuyết ấy. Hãy biết mình.
Thứ ba, trong cố gắng biết mình, bạn phải tìm sự khuyên bảo từ những người mà bạn tin tưởng: cha linh hướng, bạn tốt, cha xứ hay cha giám đốc, chuyên viên cố vấn, đức giám mục. Đối với tôi, thật tuyệt vời khi mọi linh mục đều có thể ngồi trò chuyện một cách định kỳ với cha xứ và hỏi, “Cha thấy con thế nào? Cha có lời khuyên bảo gì không? Cha có thấy những khuyết điểm, sai sót nào của con không?” Hy vọng rằng, điều này sẽ tạo nên một bầu khí tin tưởng mà cha sở cũng có thể hỏi cha phó các câu tương tự.
Như tôi đã nói trước đây, hãy coi đó là một ơn lành thực sự khi có người dám nói sự thật về chính bạn, ngay cả khi điều đó làm bạn đau lòng. Người luôn luôn cho rằng bạn lúc nào cũng đúng và những người chỉ trích bạn là sai lầm thì người đó không phải là bạn chân thật.
Trong đại chủng viện, nhiệm vụ chính của chúng tôi là vạch ra những lãnh vực cần chú ý trong việc đào tạo nhân cách. Cha linh hướng là để giúp đỡ chủng sinh phát triển các đức tính mà từ đó ơn Chúa có thể triển nở. Điều đó thật quan trọng trong tiến trình thẩm định giá trị của chúng tôi. Chúng tôi cố thi hành điều này một cách công bằng, chính xác, đúng đắn. Chúng tôi ít khi đưa ra những chỉ trích về đời sống cầu nguyện, sự trung thành với giáo huấn, hay sự chắc chắn của ơn thiên triệu, vì các lãnh vực quan trọng này thường chỉ được biết bởi chính họ, bởi Thiên Chúa, và những người được họ tin cậy như cha linh hướng. Tuy nhiên, đó là nhiệm vụ của chúng tôi khi vạch ra các lãnh vực đào tạo nhân cách mà họ cần trau dồi. Hầu hết tôi rất phấn khởi khi thấy các chủng sinh khiêm tốn và biết ơn về những nhận xét này. Không ai trong chúng tôi vui thích khi nghe những khuyết điểm của người khác. Nhưng, nếu mục đích là để công cuộc phúc âm hóa được hữu hiệu, nếu việc đưa dẫn người ta đến gần với Chúa Giêsu hơn qua một khí cụ là nhân cách vui vẻ, thân thiện, hấp dẫn, thì chúng tôi đón nhận những chỉ trích ấy.
Hãy coi chừng việc đổ lỗi người phê bình. “Đức giám mục thì không công bằng; Cha này nọ phải tiếp tôi khi tôi mới đến chứ; họ không hiểu tôi. Nếu họ hiểu tôi như vậy thì đó là vấn đề của họ.” Hãy coi chừng việc luôn luôn đổ lỗi cho người phê bình. Nếu bạn không thể hòa đồng với cha xứ, hay cha phó, ban hành chánh, và giáo dân trong xứ, rất có thể lời than phiền đó đúng. Nhưng khi một người không bao giờ vui lòng và luôn luôn đổ lỗi cho người khác, thì vấn đề là của họ, chứ không phải người khác.
Khi chúng ta gia tăng việc biết mình nhờ sự cầu nguyện, khuyên bảo và hướng dẫn của người khác, chúng ta sẽ thấy một điều không thể thay đổi dù cố gắng thế nào đi nữa. Tôi nghĩ rằng chúng ta chỉ cố gắng và tích cực trên những lãnh vực nhân cách mà chúng ta có thể trau dồi. Một số điều chúng ta không thể thay đổi dù người khác muốn như vậy. Thí dụ, một số người ngày nay sẽ tẩy chay điều tôi nói và làm chỉ vì tôi là một linh mục Công Giáo da trắng thuộc dòng dõi Âu Châu. Tôi không thể làm gì hơn với điều đó, có phải không?
Nhiều khi chúng ta có những đặc tính làm hư hại đến sự hữu hiệu phúc âm hóa, tuy không hẳn như vậy. Đôi khi dân chúng có thể hẹp hòi hay hiểu lầm trong một số phán đoán về chúng ta, nhưng, vì thừa tác vụ linh mục, chúng ta vẫn phải bén nhậy. Tỉ như, tôi cho rằng dân chúng không nên để ý đến mái tóc dài, hay bộ râu rậm, hay việc đeo bông tai của linh mục, nhưng dù họ đúng hay sai, một linh mục phải tránh những điều đó. Tôi nghĩ rằng, sau này người ta không nên để ý đến cách ăn mặc của chúng ta, nhưng trái lại họ vẫn để ý, do đó chúng ta phải khôn ngoan giữ sạch sẽ, ăn mặc thích hợp khi thi hành công việc có tính cách phụng vụ hay tông đồ. Chắc chắn không công bằng khi dân chúng có thành kiến về một linh mục có vẻ ẻo lả nữ tính, nhưng họ vẫn như vậy, bởi thế chúng ta phải cố gắng thay đổi, cũng như những người quá cộc cằn hay quá “nam tính.” Vì như Thánh Phaolô nói, “điều quan trọng là Đức Giêsu Kitô được biết đến,” và tôi sẽ thi hành bất cứ gì để đạt được mục tiêu đó càng hữu hiệu càng tốt.
Tất cả những gì tôi muốn nói là nhân cách, bản tính loài người, đặc tính của chúng ta là một trong những quà tặng lớn nhất của Thiên Chúa. Khi Người nhập thể trong bản tính con người của Con Thiên Chúa, thì Người trở nên xương thịt trong bản tính loài người của chúng ta. Do đó, nhân tính của chúng ta có thể trở nên một nhịp cầu, một cửa ngõ, một nam châm thu hút người ta đến với Chúa và Giáo Hội Người. Chúng ta liên lỉ hoạt động để vận dụng những khía cạnh nhân cách đó nhằm thu hút người ta đến với ơn cứu độ. Và chúng ta không ngừng trừ khử khỏi nhân cách chúng ta những đặc điểm xấu xa, u ám, khó chịu khiến dân chúng sợ hãi, đau lòng và lạc lối.
Đức Fulton Sheen nói đó là lý do tại sao các linh mục lại quá yêu mến với Đức Mẹ. Như trong thân thể của Mẹ, Thiên Chúa đã để Ngôi Lời hóa thành nhục thể thì trong các linh mục cũng vậy, qua nhân cách của họ, sự Nhập Thể vẫn tiếp tục. Ngôi Lời vẫn trở nên xương thịt. Khốn cho chúng ta nếu trở nên một trở ngại khiến Ngôi Lời không trở nên xương thịt!
Mới đây tôi nghĩ về toàn thể vấn đề đào tạo nhân cách khi đọc Thánh Phaolô. Người viết cho Timôtê về các đức tính của một thừa tác viên chức thánh, khi vạch ra rằng họ phải không có gì chê trách, điềm đạm, tự chủ, khiêm tốn, hiếu khách. Họ phải là một thầy dậy tốt lành. Họ không thể nghiện rượu. Họ không phải là người hay tranh chấp; đúng ra, họ phải nhân từ, một người yêu hòa bình. Họ cũng không thể ham tiền. Họ phải là một quản lý giỏi trong các công việc, vì nếu một người không biết cách xử lý trách nhiệm của mình thì làm sao họ có thể chăm sóc Giáo Hội? Họ phải được người ta nghĩ tốt về họ để bảo đảm rằng họ không đem lại ô nhục cho Giáo Hội.
Như bạn thấy, Giáo Hội đã lưu tâm đến việc đào tạo nhân cách ngay từ thuở sơ khai.