C ó lần khi tôi nói chuyện tại một đại học, một thanh niên hỏi tôi, “Làm thế nào ông có thể tin vào Kinh Thánh vì nó mâu thuẫn với khoa học và biết đâu sẽ bị ném đá đến chết nếu ông vi phạm một luật trong Cựu Ước? Ngay cả Kinh Thánh ra lệnh cho người ta giết nhau. Làm thế nào ông có thể tin vào những chuyện như thế?!”
Tôi nhìn anh ta một lúc rồi nói, “Đó là những câu hỏi rất hay và tôi rất vui để giải thích câu trả lời của tôi cho từng câu hỏi, nhưng lý do chính tôi tin vào Kinh Thánh là vì Chúa Giêsu đã tin vào Kinh Thánh. Nếu một người có thể tự bước ra khỏi nấm mộ của mình, tôi tin vào sự phán đoán của người ấy.”
Sau đó tôi nói với anh rằng Kinh Thánh là lời của Thiên Chúa, nhưng Thiên Chúa cho phép nhiều tác giả con người viết ba mươi ba cuốn khác nhau làm nên Kinh Thánh. Những tác giả đó chỉ viết những gì Thiên Chúa muốn, nhưng Thiên Chúa cho phép họ dùng kiểu cách riêng và quan điểm con người trong những gì họ viết. Chúng ta phải để ý đến điều đó và đừng đọc Kinh Thánh như đó là một cẩm nang hướng dẫn do Thiên Chúa viết và từ trời gửi xuống trần gian.
Sau đó tôi dành một vài phút chia sẻ với anh “hình ảnh rộng lớn” mà Kinh Thánh dậy.
Kinh Thánh là một tổng hợp các sách và thư, được viết trong một giai đoạn nhiều thế kỷ, nó diễn tả sự mặc khải của Thiên Chúa cho con người và sự đáp trả của con người với sự mặc khải đó. Kinh Thánh được chia làm hai phần: Cựu Ước và Tân Ước.
Cuốn đầu tiên của Kinh Thánh, sách Sáng Thế, nói rằng Thiên Chúa đã dựng nên vũ trụ và làm nên con người theo hình ảnh của Người. Phần đầu cuốn này được viết theo thể thiên sử thi, nên sự diễn tả về việc tạo dựng vũ trụ trong sáu ngày thì không có tính cách khoa học về bản chất. Thí dụ, sách Sáng Thế diễn tả cách Thiên Chúa tạo ra “sự sáng” như thế nào vào ngày thứ nhất, nhưng làm ra mặt trời vào ngày thứ tư, điều mà ngay cả người thời xưa cũng biết nó phát sáng. Điều này chỉ có thể giải thích tác giả sách Sáng Thể dùng ngôn ngữ thi ca theo nghĩa bóng thay vì diễn tả theo thời gian của nghĩa đen về sự Tạo Dựng.
Một thí dụ về sự diễn tả sự thật theo nghĩa bóng khi cha mẹ giải thích cho con cái rằng bé sơ sinh “xuất phát từ hạt giống mà bố cho mẹ, rồi lớn lên trong bụng mẹ.” Đó là một cách diễn tả sự thật không theo nghĩa đen. Giáo Hội Công Giáo dậy rằng sách Sáng Thế còn diễn tả trung thực việc Tạo Dựng vũ trụ, nhưng không theo nghĩa đen.60
Sách Sáng Thế còn diễn tả tổ tiên chúng ta nổi loạn chống với Thiên Chúa như thế nào và Thiên Chúa đã tỏ lộ chính mình như thế nào cho loài người để cứu loài người khỏi tội và sự chết. Những điều này bao gồm việc hình thành các giao ước, hay những thề hứa trung thành thiêng liêng, mà Thiên Chúa đã cam kết với những người như ông Nôe và Abraham, ông này trở thành tổ phụ của dân của Chúa, dân Israen. Ở Ai Cập, các nhà khảo cổ tìm thấy một tảng đá “granite” lớn và quí từ năm 1208 trước Công Nguyên, được gọi là “Merneptah Stele” (tấm bia Merneptah), nói lên sự hiện diện của dân Israen.61 Thiên Chúa công bố rằng nhóm dân tộc này, được lấy tên theo cháu của ông Abraham, sẽ chúc lành cho toàn thế giới.
Các sách kế tiếp trong Kinh Thánh diễn tả dân Israen bị nô lệ ở Ai Cập như thế nào cho đến khi Thiên Chúa hình thành một giao ước với Môsê. Ông Môsê đưa dân Israen ra khỏi Ai Cập vào sa mạc đến đất tự do, họ lang thang trong sa mạc bốn mươi năm. Sau cùng họ định cư trong phần đất Thiên Chúa đã hứa, trong một vùng được gọi là Canan (ngày nay trong nước Do Thái).
Trong thời gian này Thiên Chúa ban các lề luật cho dân của Người mà độc giả ngày nay nhiều khi không hiểu được, tỉ như các luật cấm ăn thịt heo hay pha trộn vải vóc. Chỉ có một số những luật này (như “Ngươi không được giết người”) hiện bó buộc các tín hữu ngày nay. Các luật “thanh tẩy” khác như “Ngươi không được ăn thịt heo” chỉ có nghĩa đối với người Israen xưa, nhưng chúng có một mục đích quan trọng.
Chúng được đề ra để giữ dân Israen tách biệt với các quốc gia khác mà họ có thể dụ dỗ dân này thờ các thần loạn luân, chủ trương mãi dâm, và đòi hỏi phải thiêu trẻ em để cúng tế. Các luật đó cấm dân Israen không được ăn loại thực phảm vào đó hay mặc y phục nào đó để giúp họ thấy rằng họ không được bắt chước các quốc gia khác, nhưng phải giữ độc đáo và “tinh tuyền” trong việc thờ phượng và yêu mến Thiên Chúa.
Đây là phương pháp loại suy để giúp hiểu được sự phân biệt này. Khi tôi còn nhỏ, mẹ tôi cho tôi hai quy tắc: nắm tay bà khi băng ngang đường và không được uống nước từ các chai để ở dưới bồn rửa chén. Các luật thanh tẩy thì giống như quy tắc nắm tay mẹ. Chúng giúp người Israen hiểu được kỷ luật mà luật của Chúa đòi hỏi và bảo vệ họ khỏi ảnh hưởng nguy hại của dân ngoại (cũng như việc nắm tay bảo vệ tôi khỏi bị nguy hiểm bởi người lái xe cẩu thả). Ngược lại, các luật luân lý đối phó với những điều thường gây thiệt hại, tỉ như giết người hay ngoại tình, và vì thế Kitô Hữu vẫn còn tuân giữ tuy các luật ấy đã có từ thời Cựu Ước (cũng như tôi vẫn tuân theo quy tắc “Nếu chai nước để ở dưới bồn rửa chén, đừng có uống nước ấy!”)
Năm cuốn sách đầu trong Kinh Thánh, mà người Do Thái gọi là Tôra và các học giả gọi là Ngũ Thư, chấm dứt với cái chết của ông Môsê và việc thiết lập người kế vị, là ông Giôsua. Sách Giôsua tiếp tục câu chuyện của dân Israen và diễn tả cách chiến đấu của dân Israen chống với các bộ lạc thù địch, cùng sống trong vùng Cana. Một số những diễn tả này bao gồm các mệnh lệnh quét sạch toàn thể các quốc gia, là điều gây bối rối. Nhưng vì Thiên Chúa ban cho chúng ta sự sống, chỉ một mình Người mới có quyền chấm dứt sự sống ấy vào bất cứ lúc nào và theo bất cứ cách nào. Điều này bao gồm cả việc dùng tuyển dân của Người thi hành một phán quyết chống với một nền văn hóa nổi tiếng là độc ác và xấu xa.
CÚNG TẾ TRẺ CON THỜI XƯA
Dân của Chúa bị cấm không được giết người để cúng tế, nhưng các cúng tế đó rất phổ thông trong dân Canan, mà hậu quả là Thiên Chúa trừng phạt họ. Một sử gia thời xưa diễn tả cách cúng tế này:
“Ở giữa họ là bức tượng đồng thần Kronos với đôi tay giang rộng trên một chảo đồng rực lửa, mà các ngọn lửa bao trùm một đứa bé. Khi lửa đổ xuống trên thân thể, các chi thể co quắp và miệng nó mở ra như muốn cười, cho đến khi toàn thân thể co rút lặng lẽ chui vào chảo lửa.”62
Cũng có thể là ngôn ngữ dùng trong đoạn văn này được phóng đại, kiểu bi hùng của chiến tranh với nghĩa bóng. Kiểu ngôn ngữ này thì giống như nói về đội thể thao được bạn ưa thích đã “tiêu diệt” hay “thảm sát” đối thủ. Các tường thuật chiến trận thời xưa cũng dùng loại ngôn ngữ này, mà nó có thể được thấy trong Merneptah Stele. Nó diễn tả rằng dân Israen bị “tàn phá và hạt giống sự sống không còn,” dù rằng quốc gia Israen tiếp tục hiện diện trong vài thế kỷ sau khi bia đá này được dựng lên.
Sách các Thẩm Phán diễn tả các quốc gia thủ địch này vẫn hiện diện sau khi họ bị “tiêu diệt hoàn toàn”, sự kiện này cho thấy các sách khác của Kinh Thánh, như sách Giôsua, có lẽ cũng dùng loại ngôn ngữ phóng đại. Điểm nhấn mạnh của tác giả là dân Israen không được hấp thụ bất cứ điều gì của các quốc gia đối nghịch, nhưng phải “hoàn toàn tiêu diệt chúng.” Bỏ qua bất cứ phần nào của văn hóa hủy hoại đó sẽ đưa đến hậu quả là dân Chúa tiêm nhiễm loại độc ác ấy.
Cùng với các sách nói về câu chuyện của dân Chúa, Cựu Ước có cả tài liệu giáo dục dân Chúa sự khôn ngoan và cách sống đúng đắn, tỉ như sách Cách Ngôn. Nó còn bao gồm những sưu tầm về lời nguyện cầu và thánh ca, tỉ như trong sách Thánh Vịnh. Các sách khác trong Cựu Ước bao gồm những câu chuyện được viết xuống để dậy dân chúng cách tin tưởng vào Thiên Chúa, tỉ như câu chuyện của ông Gióp, ông đã giữ vững đức tin bất chấp sự đau khổ khủng khiếp.
Các sách sử còn lại của Cựu Ước, tỉ như, Samuen và các Vua, diễn tả làm thế nào dân Israen trở nên một vương quốc và sau đó bị chia làm đôi. Vua nổi tiếng nhất của dân Israen là Đavít, là người được hầu hết mọi người biết đến như trẻ chăn chiên đã đánh bại người khổng lồ Gôliát, với giàng ná và viên đá. Con Đavít là Sôlômôn lên nối ngôi, nhưng Sôlômôn không thể giữ cho dân Chúa khỏi bị sa vào tội thờ tà thần và gian ác, từ đó đã dẫn đến việc chia đôi quốc gia thành các vương quốc bắc và nam.
Thật quan trọng để nhớ rằng các ghi chép trong Kinh Thánh về việc dân Chúa gian ác và làm những điều xấu xa, điều đó không có nghĩa Thiên Chúa khuyên bảo việc thực hành này. Các hành động xấu xa của họ thôi thúc Thiên Chúa sai đến hàng loạt các ngôn sứ để khuyên dân chúng sám hối và xa lánh tội lỗi. Các ngôn sứ bảo dân phải chăm sóc các bà góa và cô nhi (những người bị nguy cơ chết đói), đừng thờ các ngẫu tượng, và đừng có hành vi tình dục xấu xa.
Không may, những cải tổ của các ngôn sứ hoặc bị bỏ quên hoặc không kéo dài. Hậu quả là các quốc gia khác đã xâm chiếm các vương quốc bắc và nam và bắt dân Chúa làm nô lệ. Các sách sử sau cùng của Cựu Ước cho thấy dân Chúa được giải thoát khỏi nô lệ như thế nào và đã trở lại vùng đất hứa. Không may, sau khi trở về, dân Chúa phải đau khổ vì quyền lực thống trị của ngoại bang như người Hy Lạp (và sau này là người La Mã). Qua tất cả những điều này, họ kiên nhẫn chờ đợi Đấng Mêsia: đấng cứu thế được hứa trong Kinh Thánh là người sẽ khôi phục lại vương quốc của Thiên Chúa.
Tân Ước là câu chuyện của Đấng Mêsia đó, là Đức Giêsu Kitô (Kitô là một danh hiệu của Mêsia có nghĩa “người được xức dầu”). Bốn Phúc Âm (Mátthêu, Máccô, Luca, và Gioan) nói với chúng ta rằng Đức Giêsu hiện diện như Con Thiên Chúa trước khi tạo dựng vũ trụ và Người đã trở nên một phàm nhân để cứu chuộc nhân loại khỏi tội lỗi. Các Phúc Âm chấm dứt sau sự phục sinh của Đức Kitô, khi Người ủy thác cho các môn đệ hãy trở thành các tông đồ (chữ Hy Lạp này có nghĩa “người đưa tin”). Nhiệm vụ của họ là chia sẻ tin mừng về sự phục sinh của Đức Kitô và ban ơn cứu độ cho toàn thế giới.
Công Vụ Tông Đồ là sách tiếp theo các Phúc Âm. (Tác giả cũng là người viết Phúc Âm Luca). Sách diễn tả sau khi Đức Giêsu lên trời, Giáo Hội mà Người thiết lập đã phát triển thế nào dù bị bách hại bởi các người lãnh đạo Do Thái và La Mã. Phần còn lại của Tân Ước gồm các thánh thư được gửi cho vài cộng đoàn để dậy bảo và khuyến khích họ giữ Đức Tin.
Sách sau cùng của Kinh Thánh là Khải Huyền, gồm những thị kiến về vương quốc của Thiên Chúa trên thiên đường. Sách Khải Huyền cũng chứa đựng những tiên đoán về việc tận thế và diễn tả cách Thiên Chúa chiến thắng sự dữ như thế nào. Sau sự chiến thắng của Thiên Chúa, Người quy tụ dân Chúa, cả người sống cũng như đã chết, về với Người, để chia sẻ sự sống vinh hiển, đời đời với Người.
Đó là một lý luận lòng vòng khi nói rằng Kinh Thánh là lời của Chúa vì Kinh Thánh khẳng định điều này. Đó là thừa nhận những gì cần được minh chứng. Nhưng chúng ta từng thấy rằng ngay cả khi chúng ta cho rằng Kinh Thánh là một tổng hợp các tài liệu của con người, chúng vẫn cung cấp chứng cớ lịch sử rằng một người, Đức Giêsu Kitô, đã chỗi dậy từ cõi chết.
Kinh Thánh cũng cho thấy rằng Đức Giêsu đã thiết lập một Hội Thánh trên các tông đồ và Người đã ban cho họ thẩm quyền về tinh thần (Mt 16:18-19, Eph. 2:20). Đức Kitô nói với các tông đồ, “Ai nghe anh em là nghe ta” (Lc 10:16). Nhưng thẩm quyền này không dừng tại cái chết của các tông đồ. Các vị kế nhiệm các tông đồ, các giám mục tương lai của Giáo Hội, thừa hưởng thẩm quyền tinh thần này và họ cũng có thể tuyên bố Kinh Thánh là lời của Chúa.
Đây không phải là một lý luận lòng vòng, trong đó Kinh Thánh được dùng để minh chứng cho thẩm quyền của Giáo Hội và thẩm quyền của Giáo Hội lại được dùng để minh chứng rằng Kinh Thánh là được linh ứng. Thay vào đó, nó là một “lý luận xoắn ốc”, trong đó Kinh Thánh được cho rằng chỉ là một tài liệu con người ghi lại việc thành lập một tổ chức do Thiên Chúa thiết lập.63 Vậy Giáo Hội này có thẩm quyền để tuyên bố những sáng tác nào còn có Thiên Chúa là tác giả. Thần học gia vĩ đại của thế kỷ thứ tư là T. Augustine cũng có một kết luận tương tự khi người nói, “Tôi không nên tin phúc âm trừ khi thẩm quyền của Giáo Hội Công Giáo nói như thế.”64
TẠI SAO CHÚNG TÔI TIN: KINH THÁNH
|