Đôi khi người ta hỏi tôi, “Câu hỏi nào khó nhất ông từng phải trả lời về đức tin Công Giáo?” Họ thường nghĩ câu này phải là câu rất chuyên môn, nhưng những câu hỏi khó nhất tôi nhận được thường thì đơn giản và cá biệt:
“Nếu Thiên Chúa tòan thiện, tại sao Người để con tôi chết trong một tai nạn xe cộ?”
“Nếu Thiên Chúa toàn ái, sao các trẻ em lại bị bệnh ung thư?”
“Nếu Thiên Chúa toàn năng, sao Người không sửa chữa những sai lầm trong thế gian?”
Vấn đề sự dữ và đau khổ là một trong những lý luận xưa nhất chống với sự hiện hữu của Thiên Chúa. Nếu Thiên Chúa toàn thiện và toàn năng thì sự dữ không thể hiện diện. Nhưng sự dữ có hiện diện. Vì thế, Thiên Chúa hoặc phải yếu kém, xấu xa, hoặc không hiện hữu.
Lý luận này rất mạnh mẽ về mức độ cảm xúc, nhưng từ quan điểm hợp lý nó không chứng tỏ là không có Thiên Chúa. Thật vậy, theo khách quan sự thiện và sự dữ lại cung cấp minh chứng cho sự hiện hữu của Thiên Chúa.
Để hiểu làm thế nào Thiên Chúa có thể cho phép sự dữ hiện diện, chúng ta phải hiểu “sự dữ” là gì.
Sự dữ không phải là điều Thiên Chúa dựng nên nhưng là một thiếu vắng sự thiện mà Thiên Chúa cho phép. Sự dữ là một ký sinh trùng mà nó không hiện hữu nếu không có sự thiện, cũng như rỉ sét không thể hiện hữu nếu không có kim loại nó ăn mòn. Thí dụ, những sự dữ luân lý như hiếp dâm và giết người không thể hiện hữu mà không có sự tốt lành của người ta, họ có thể chọn thi hành đúng hay sai. Những sự dữ tự nhiên, tỉ như mù lòa và bệnh tật, không thể hiện hữu mà không có những điều tốt lành như thú vật hay thực vật.
Tuy Thiên Chúa không dựng nên sự dữ, chúng ta vẫn có thể hỏi, “Tại sao Thiên Chúa cho phép những sự dữ như giết người và mùa lòa hiện hữu?”
Câu trả lời ngắn gọn là: sự dữ được phép xảy ra nếu bởi thi hành như vậy bạn sẽ đem lại sự tốt lành hơn hoặc ngăn ngừa sự dữ lớn lao hơn. Thí dụ, người ta chấp nhận sự dữ về tai nạn xe cộ, vì việc thường xuyên sử dụng đường xá đem lại sự ích lợi lớn lao hơn. Chúng ta có thể loại trừ tai nạn bằng cách loại bỏ xe cộ, nhưng giải pháp đó sẽ tệ hơn là vấn đề mà chúng ta đang tìm cách giải quyết.
Tương tự, Thiên Chúa có thể loại bỏ mọi sự dữ như hãm hiếp bằng cách loại trừ con người hoặc lấy đi ý muốn tự do của họ, nhưng thế giới sẽ là một nơi xấu hơn nếu tất cả chúng ta đều là cỗ máy “rôbô”. Thế giới chúng ta sẽ không có những điều tốt lành tỉ như các nghĩa cử anh hùng, lòng trắc ẩn, hay ngay cả tình thương, và con người trở nên giống như các máy móc đồ dùng có thể “lập trình” (programmable).
Nhưng còn các sự xấu xa tự nhiên như bệnh tật hay thiên tai mà chúng không liên quan đến tự do ý muốn của chúng ta thì sao? Những sự dữ này có thể giúp chúng ta phát triển các đức tính mà nó không thể có nếu Thiên Chúa loại bỏ mọi sự đau khổ. Thí dụ, Thiên Chúa không thể nào làm cho ai đó trở nên can đảm nếu họ không trong sự nguy hiểm. Chúng cũng có thể cần thiết cho chúng ta để sống trong một thế giới có thể tiên đoán được, ở đây Thiên Chúa không can thiệp từng giây phút để bảo vệ chúng ta khỏi sự đau đớn.
Sau cùng, là con người giới hạn và hay sa ngã, chúng ta không ở vị trí để nói rằng Thiên Chúa không thể đem đến sự tốt lành từ bất cứ sự dữ nào mà chúng ta gặp. Hãy tưởng tượng một người đứng trước bức tranh nổi tiếng Mona Lisa chỉ cách hai phân và họ nói, “Tranh này xấu quá! Chỉ toàn các vết đen!” Dĩ nhiên, họ không thể thưởng thức cái đẹp và ích lợi của toàn thể bức tranh vì họ chỉ nhìn đến một phần rất nhỏ của nó. Cũng vậy, nếu chúng ta chỉ nhìn đến sự đau khổ, chúng ta không nhìn thấy bức tranh lớn, hoặc cách thức Thiên Chúa dùng sự đau khổ để tạo nên một thế giới xinh đẹp và tốt lành.
Hãy nghĩ đến anh Nick Vujicic, anh mất hai cánh tay và cả đôi chân từ lúc mới sinh. Khi còn nhỏ, anh thật chán nản đến độ tự tử hụt trong bồn tắm đầy nước. Tuy nhiên, sau khi biết đến Thiên Chúa và thấy rằng cuộc đời anh không phải là một ngẫu nhiên, Nick đã biến đổi. Bây giờ anh du hành khắp thế giới để chia sẻ làm thế nào tình yêu Thiên Chúa đã thấm nhập đến sự đau khổ sâu thẳm nhất của chúng ta. Anh viết, “Ngay cả trong những hoàn cảnh tệ hại nhất dường như vượt ngoài khả năng của chúng ta, Thiên Chúa biết tâm hồn chúng ta có thể chịu đựng được đến mức nào. Tôi tin tưởng vững vàng rằng cuộc đời chúng ta ở đây thì tạm bợ, vì chúng ta được chuẩn bị cho vĩnh cửu.”27
Với một người đang đau khổ, tôi biết tại sao câu trả lời này có thể không thỏa mãn. Họ nói, “Tôi không cần biết. Nếu Thiên Chúa yêu thương tôi, Người sẽ lấy đi sự đau đớn này trong đời tôi. Người không thể để quá nhiều điều xấu xảy ra cho người ta!”
Đó là cách phản ứng thông thường đối với sự đau khổ tột cùng, và đó là lý do tôi đồng ý với bạn tôi là Jimmy Akin, anh phải nhìn thấy vợ anh chết vì ung thư không lâu sau khi họ kết hôn. Anh nói, “Thiên Chúa không luôn cho chúng ta các lý do để giải thích sự đau khổ của chúng ta, nhưng Người ban cho chúng ta các phương cách để giúp chúng ta chịu đựng sự đau khổ.” Một điều giúp tôi chịu đựng sự đau khổ là nhận biết rằng sự dữ không có ý nghĩa nếu không có Thiên Chúa.
Nhiều người nói sự dữ chỉ là “những điều xấu” hoặc “những đau đớn”, nhưng các định nghĩa đó không đủ. Bị nhổ chiếc răng đau hay bị phạt vì vi phạm tội ác, những điều đó đau đớn nhưng không xấu. Thật vậy, đây là những thí dụ của thuốc tốt hay luật tốt. Ngược lại, có những sự dữ không gây đau đớn. Một người tưởng tượng việc hãm hiếp trẻ em nhưng không bao giờ thực hiện các tưởng tượng đó, nó không tạo ra đau đớn, nhưng hiển nhiên họ có những ý nghĩ xấu xa, không phải tốt.
Đây là một định nghĩa tốt hơn: Sự dữ là điều chúng ta cảm nghiệm khi chúng không theo phương cách được coi là đúng.
Hiếp dâm, giết người, ung thư, và những tệ hại khác thì xấu xa vì chúng làm sái lệch phương cách mà thế giới phải như vậy. Tình dục phải là một hành vi yêu thương, không phải một hành vi bạo lực. Các tế bào phải phát triển thành các phần thân thể, không phải là các bướu độc. Nếu sự dữ ám chỉ đến phương cách mà các sự vật không thể như vậy, thì sự thiện phải ám chỉ đến phương cách các sự vật phải như vậy. Nhưng nếu các sự vật được tiến triển theo một phương cách nào đó, điều đó có nghĩa có một hoạch định toàn vũ trụ và của một kế hoạch gia cho vũ trụ -- Kế hoạch gia đó nhiều người gọi là Thiên Chúa.
MỘT NGƯỜI VÔ THẦN NHÌN NHẬN: LUÂN LÝ MINH CHỨNG CÓ THIÊN CHÚA
Triết gia vô thần J.L. Mackie viết, “Tính chất luân lý tạo thành một nhóm tính chất và tương quan thật kỳ lạ đến độ chúng hầu như không thể nào phát sinh ra từ các biến cố bình thường mà không có chúa tể toàn năng tạo ra chúng.”28
Mackie tin vào thuyết vô thần rất mạnh đến độ ông từ chối các chân lý luân lý khách quan, dù hầu hết mọi người cho là có thật. Có lẽ chúng ta phải chấp nhận rằng luân lý thì có thật và nó đến từ một Thiên Chúa toàn năng, mà chính Người là sự tốt lành.
Không chỉ vũ trụ phải theo một phương cách nào đó, bạn và tôi cũng vậy. Khi xã hội chấp nhận những sự dữ như diệt chủng hay nô lệ, người anh hùng là người nói rằng thi hành điều đúng thì tốt hơn chấp nhận điều phổ thông. Martin Luther King Jr. có nói, “Một luật đúng đắn là luật con người làm ra mà nó phù hợp với luật luân lý hay luật của Thiên Chúa.”29
Ngược lại, khi chúng ta làm điều gì sai, ngay cả không ai biết điều đó, chúng ta cảm thấy có lỗi. Chúng ta cảm thấy như thể chúng ta không sống đúng với một tiêu chuẩn nhân vị mà chúng ta phải trở thành. Nhiều người trong chúng ta từng nói với ai đó bị chúng ta làm tổn thương rằng, “Tôi thành thật xin lỗi, đó không phải là con người của tôi.” Lý do chúng ta cảm thấy như thế là vì Thiên Chúa ban luật luân lý của Người cho chúng ta và viết luật ấy trong tâm hồn chúng ta dưới hình thức lương tâm.30 Kinh Thánh cũng dậy rằng những người không trực tiếp biết đến Thiên Chúa, họ vẫn biết đến Người qua lương tâm của họ (Rom 2:14-16).
Thiên Chúa ban luật luân lý cho chúng ta không phải để chúng ta cảm thấy tội lỗi, nhưng để chúng ta có thể thực sự cảm nhận hạnh phúc. Hãy tưởng tượng cuộc đời tuyệt vời thế nào khi không có ai nói dối, ăn cắp, hận thù, hay lạm dụng người khác. Sâu trong tâm hồn chúng ta nhận biết mình được dựng nên để trở nên loại người này, và sự đau khổ trong đời có thể giúp chúng ta đạt được mục tiêu đó. Câu tôi ưa thích trong Kinh Thánh như sau:
Mọi chuyện xảy đến cho con, con hãy chấp nhận, dù qua bao thăng trầm, con hãy cứ kiên nhẫn. Vì vàng phải được tôi luyện trong lửa, còn những người sáng giá thì phải được thử trong lò ô nhục. Hãy tin vào Người, thì Người sẽ nâng đỡ con. Đường con đi, hãy giữ cho ngay thẳng và trông cậy vào Người (Huấn Ca 2:4-6).
Một trong những tù nhân của trại tập trung Auschwitz của Đức Quốc Xã là một linh mục tên Maximilian Kolbe. Sau khi một tù nhân được cho là vượt ngục, lính canh chọn mười người giam trong xà lim cho chết đói để dằn mặt các tù nhân còn lại. Các lính canh bắt đầu lôi đi một người tên là Franciszek, ông đứng chết trân trong đống bùn khi than khóc, “Ôi vợ tôi! Ôi con tôi!” Vào lúc đó, Cha Kolbe bước ra và nói, “Tôi là một linh mục Công Giáo. Hãy để tôi thế chỗ ông ấy. Tôi đã già. Ông ấy có vợ con.”31
Các lính canh cho phép Cha Kolbe thế chỗ của ông Franciszek, và trong hai tuần kế tiếp cha an ủi những người cùng chung số phận. Bất cứ khi nào lính canh khóa xà lim của người, Cha Kolbe hoặc đứng hoặc quỳ cầu nguyện. Sau khi tất cả các tù nhân khác đã chết, lính canh không thể chờ Cha Kolbe chết vì đói. Nên chúng chích axít cabôlíc vào cánh tay trái của người và sau đó hỏa thiêu xác của người.
Có phải đây là một thí dụ về sự dữ mà nó minh chứng rằng Thiên Chúa không hiện hữu?
Sự thật là điều mà Đức Quốc Xã làm thì sai trái về phương diện khách quan, nó chứng minh rằng có một tiêu chuẩn luân lý chung xuất phát từ nguồn thiện hảo chung, là Thiên Chúa. Luân lý không thể là một động lực sinh tồn mà con người hình thành qua phương pháp tiến hóa, vì ai đó cảm thấy bị thúc giục phải thi hành những điều mà không giúp họ sống sót, tỉ như hy sinh sự sống cho một người xa lạ. Tuy nhiên, nếu tất cả chúng ta được dựng nên theo hình ảnh của Thiên Chúa, điều đó giải thích cho lòng khao khát tranh đấu và ngay cả phải chết cho phẩm giá của con người. Thật vậy, ông Franciszek đã sống sót sau trại Auschwitz và dành cả cuộc đời để nói về nghĩa cử anh hùng của Cha Kolbe.
Điều gì giúp cho Cha Kolbe có sức mạnh để đương đầu với sự dữ và đau khổ ghê sợ đó? Là một linh mục, người tận hiến cuộc đời để noi gương Chúa Giêsu Kitô, và Chúa Giêsu sẵn sàng làm mọi sự để cứu nhân loại khỏi tội lỗi, kể cả cái chết đau đớn và nhục nhã trên thập giá. Vì Đức Kitô là Con Thiên Chúa, Người có thể dâng lên một của lễ tuyệt hảo, vô hạn là tình yêu để bù đắp cho tội lỗi của toàn thể nhân loại. Với những ai tin vào Chúa Giêsu, sự hy sinh này có nghĩa rằng cái chết không phải là chấm dứt sự sống, nhưng đúng hơn khởi đầu một sự sống mới với Thiên Chúa trên thiên đường. Khi Cha Kolbe sắp bị hành hình, tôi không lạ khi người nghĩ đến câu Kinh Thánh này: “Ôi tử thần, nọc độc của ngươi ở đâu? Ôi nấm mộ, chiến thắng của ngươi ở đâu?” (1 Cor. 15:55).
Vấn đề sự dữ thì không phải là vấn đề của Thiên Chúa -- nó là của chúng ta.
Nếu có một tiêu chuẩn tuyệt hảo, khách quan về sự tốt lành thì bất cứ khi nào chúng ta chọn sự dữ, chúng ta đã xa rời tiêu chuẩn đó. Nhưng các tiêu chuẩn thì không giống như các quy tắc toán học bâng quơ. Luân lý là về sự chọn lựa giữa sự thiện và sự dữ, do đó tiêu chuẩn luân lý tuyệt hảo phải đến từ một người tuyệt hảo, là Thiên Chúa. Điều này có nghĩa bất cứ khi nào chúng ta chọn sự dữ, chúng ta tách biệt với Thiên Chúa, Người là chính sự Thiện.
Tạ ơn Chúa, nhờ chỗi dậy từ cõi chết, Đức Giêsu cho thấy rằng bất cứ ai tin tưởng vào Người thì cũng sẽ được chia sẻ trong sự sống lại để sống đời đời của Người. Thiên Chúa sẽ ban cho những ai theo Chúa Giêsu quà tặng ơn sủng, hoặc cho không món quà sự sống Thiên Chúa. Ơn của Chúa giúp chúng ta chết đi chính mình và, nếu cần, chết cho người khác.
Nhưng làm thế nào chúng ta biết Đức Kitô là Thiên Chúa? Làm thế nào chúng ta biết Người đã chỗi dậy từ cõi chết? Nếu những câu chuyện về Đức Kitô chỉ là những câu chuyện thì sao? Chúng ta đã nghiên cứu chứng cớ triết học về sự hiện hữu của Thiên Chúa, nhưng bây giờ chúng ta phải nghiên cứu chứng cớ lịch sử mà nó cho thấy Thiên Chúa đã tự tỏ lộ cho thế gian qua con người của Đức Giêsu Kitô.
TẠI SAO CHÚNG TÔI TIN: THIÊN CHÚA CHIẾN THẮNG SỰ DỮ
|