(bị bắt 1-8-1838, xử trảm 21-8-1838)
Ngày 17-4-1838, quan quân đang lùng bắt những đạo trưởng Công Giáo thì tại An Liêm, lương dân bắt được một người lạ mặt, một thầy giảng với sáu bức thơ và bình đựng dầu thánh. Thầy giảng này do Cha Viên sai đi để gửi các thư và lấy dầu thánh. Tại làng An Liêm, một làng nửa Công Giáo nửa bên lương, đã từ lâu có sự hiềm khích vì người Công Giáo đã được phép chước không phải góp tiền vào các dịp cúng lễ trong năm. Nhân dịp này bên lương yêu cầu bên giáo hủy bỏ điều này, từ nay góp tiền vào việc cúng thần thì sẽ bỏ qua nội vụ. Song lệnh của đức cha và của tòa thánh là không thể thông công vào các việc dị đoan. Thế là dân làng An Liêm đem nộp cho quan tổng đốc Trịnh Quang Khanh. Ông này mừng rỡ liền sai 800 lính đến Cao Xá theo lời khai của thầy giảng để lùng bắt Cha Viên. Từ đây mở màn cho những cuộc lùng bắt ghê gớm tại các tỉnh Nam Ðịnh, Hưng Yên....
Cha Giuse Viên, tác giả sáu bức thư, sinh năm 1787 tại làng Tiên Chu, huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên. Cha mẹ là những tín hữu sốt sắng đã gửi cậu Viên vào nhà Ðức Chúa Trời ở họ Vân, xứ An Thị Sau đó cậu được gửi theo học Latinh và Thần Học tại Lục Thủy, và năm 1824 người được thụ phong linh mục. Lúc đó Cha Viên mới 36 tuổi.
Hai năm sau, Cha Viên được đổi về miền Bắc Ninh, và trong suốt 16 năm trời cha hoạt động rất đắc lực cho Chúa và các linh hồn tại các họ Ðông Bài, Thiết Nham, Như Thiết, An Mỹ.
Vì những lá thơ đó, Cha Viên bị các quan quân truy nã rất gắt gao. Họ được lệnh đi tìm bắt Cha Viên bằng mọi giá. Quan đầu tỉnh Hưng Yên là Hà Thúc Lương gửi người về tỉnh và huyện để tra khảo tên tuổi lý lịch Cha Viên nhưng không ai biết Cha Viên ở đâu. Sau cùng họ bá cáo về kinh, vua phẫn nộ và trách quở quan tuần. Vua còn ra chỉ thị cho quan phải bắt Cha Viên trong một thời kỳ đã ấn định sẵn. Trong thời gian khá lâu, quan cũng không tìm ra tông tích nên quan lại phải xin vua gia hạn. Biết rằng tìm kim đáy biển, quan liền bày ra một diệu kế và mạo nhận viết một lá thơ cho Cha Viên lấy tên là người nhà của Cha Viên. Trong lá thơ tỏ ra rất lo lắng cho số mạng của Cha Viên và chỉ muốn giúp đỡ Cha Viên mà thôi. Qua diệu kế và lời hứa thưởng bội hậu, quan đã tìm thấy hai tên phản bội. Hai tên này là Ðặng Ðình Lại và Ðặng Ðình Nhật, anh ruột và cháu ruột của Cha Ðặng Ðình Viên.
Theo sự kiện trên, chúng ta thấy lời Chúa hoàn toàn ứng nghiệm: “Các con sẽ bị nộp trước tòa bởi chính cha mẹ, anh em bạn hữu mình”. (Lk 21, 16). Hai tên phản bội này mất cả tháng trời để dò la tin tức về Cha Viên, sau cùng họ tìm ra nhà bà Hai Nhi, nhà mà họ nghi là Cha Viên đang ẩn núp, ở họ Cầu Chảy, xã Như Thiết. Họ đưa cho người đàn bà ra mở cửa một lá thơ đề tên Cha Viên. Chị này cầm đến cho cha, khi cha mở ra thì biết rằng mình bị mắc mưu. Cha cố gắng dán thơ lại nhưng không thể nào giống như cũ được cha đành phải vội vàng trả lại. Khi hai tên này nhận được thơ thì biết ngay là chỗ ở của Cha Viên, mặc dầu người trong nhà tìm đủ cách để đánh lạc hướng. Hai tên phản bội cũng ngầm đi báo lính canh gần đấy. Sau này chính hai tên này xưng hô rằng chúng muốn đích thân để bắt Cha Viên nhưng sợ không đủ thời giờ đành phải nhờ lính. Chúng muốn tri hô lên vậy để kiếm thêm tiền thưởng. Vừa nói xong quan tuần đến ngay. Chỉ kịp giờ cho Cha Viên chạy ra vườn mía sau nhà. Từ vườn mía cha không thể lẩn trốn ngay mà không bị lộ tông tích, tuy nhiên nếu lanh chân cha vẫn có thể trốn thoát nếu không vì lòng thương xót kẻ khác thúc đẩy để cha ra nộp mình.
Hiểu biết như vậy, quan tuần lôi một đứa trẻ thuộc gia đình đó ra tra tấn. Mặc dầu bị tra tấn rất dã man, em bé vẫn can đảm chịu đựng và sau cùng không chịu được nữa em phải kêu lên: “Lạy Mẹ Thiên Chúa, xin đến cứu con, con không biết chỗ ẩn núp của linh mục đó”.
Em đau đớn rên rỉ làm Cha Viên phải xuất đầu lộ diện và nói: “Tôi đây là linh mục Viên, hãy bắt tôi và tha cho em đó”.
Hôm ấy là 1-8, Cha Viên bị bắt. Thấy vậy quan quân cũng phải đem lòng khâm phục vì gương anh dũng và lòng thương người của Cha Viên. Trước khi quân lính lăn xả vào trói Cha Viên, chúng nói với nhau: “Nếu người này có cái răng gẫy, chính là đạo trưởng Viên”.
Khi khám phá ra dấu đó, lính lăn xả vào trói và đập đánh Cha Viên. Khi đánh xong chúng đeo gông và xiềng xích vào cho người rồi lôi ra đình làng, sau đó từ đình làng tới Hưng An và nhốt cha trong tù chung với những kẻ trộm cướp, sát nhân.
Mặc dầu bị đau đớn hành khổ cùng đeo xiềng xích Cha Viên vẫn một lòng trung tín cùng Chúa và đạo thánh người. Họ tra khảo lý lịch và bắt cha dịch ngay lá thơ viết bằng ngoại ngữ ra tiếng Việt, cha vâng lời ngay tức khắc.
Ðức Cha Marti đã viết trong cuốn hồi ký của người rằng khi Cha Viên dịch ra tiếng Việt thấy lá thơ không có mưu đồ hại gì càng làm cho quan rất phẫn nộ vì chính ông đinh ninh rằng thơ này có ẩn ý gì hoặc hãm hại ông hay vua.
Một điều chắc là họ muốn tìm bắt cho được Cha Hermosilla, vị truyền giáo còn lại mà những lá thơ này đã ám chỉ đến người.
Lẽ dĩ nhiên Cha Viên là tác giả những lá thơ đó, nên bị hành khổ tra tấn rất dã man và với ơn Chúa giúp, cha vẫn khăng khăng một mực từ chối không tiết lộ điều gì có nguy hại cho các linh mục cả.
Qua những sự kiện này họ vẫn không thể lay chuyển được Cha Viên nên ngày 3-8 các quan làm án như sau: “Hết lòng trung thành với vua, chúng tôi đã bắt được tên Ðặng Ðình Viên, người bản quốc và là công dân triều đình vì tội hắn là đạo trưởng Kitô, hắn thuộc loại ngu ngốc, đã dám theo người tây phương và chẳng những đã theo đạo tà này lại còn dạy kẻ khác theo nữa và dùng mưu mô để lường gạt dân chúng. Khi có lệnh vua cấm, hắn vẫn ngang nhiên phản lại. Hắn còn dám thông đồng và viết thơ cho người Tây phương bằng ngôn ngữ của họ. Hiển nhiên, hắn đã làm quấy và khờ dại không biết phải trái. Về phần chúng tôi, chúng tôi vẫn một lòng dạ với vua và do đó hắn phải xử trảm như Ðỗ Yên. Vậy xin vua phê cho Ðặng Văn Viên cũng như vậy”.
Ngày 12-8, vua phê như sau: “Ðạo trưởng tên Lương cũng gọi là Ðặng Ðình Viên, thần dân của nước trẫm và là đạo trưởng của đạo Kitô đã theo tà đạo. Ðã vậy hắn vẫn không sợ hoặc ăn năn hay xuất đạo, ngược lại hắn đã viết thơ bằng tiếng ngoại ngữ cho bốn người tây phương, nếu vậy hắn là thứ đạo trưởng của tả đạo. Ta đồng ý và tuyên án, hắn phải trảm quyết”.
Từ khi bị kết án rồi, theo lời một nhân chứng, quan quân còn dùng đủ cách để tra khảo và bắt ép Cha Viên phải chà đạp thánh giá và xuất đạo, nhưng đầy tớ Chúa vẫn khăng khăng một mực trung tín. Có lúc chúng dùng lời nịnh bợ và cố để lọt vào tai cha. Chúng nói với nhau: “Nếu ông này chọn sống với chúng ta, ông ấy có thể làm lớn như chúng ta vì ông có bộ mặt rất sắc sảo thông minh hơn người”.
Cha Viên nghe vậy, người chỉ làm thinh.
Lệnh vua về tới Nam Ðịnh ngày 21-8, quan quân lập tức thi hành ngay. Một trong hai tên phản bội đấm ngực và xin được tha thứ. Cha Viên sẵn sàng ngay nhưng cha cho hắn ta biết tội rất nặng và đòi anh ta phải đi xưng tội và làm việc đền tội. Hành động xin tạ tội này không thật lòng vì sau này anh ta vẫn tiếp tục làm hại các linh mục.
Cha Viên bị đeo gông, và xiềng xích rất nặng như một tên tội nhân cùng khổ nhất. Trước khi hành xử chúng còn cố gắng dụ dỗ cha xuất giáo một lần nữa nhưng cha cương quyết cự tuyệt sau đó chúng mới đọc bản án.
Quan quân tụ họp ngay tại đình làng. Dẫn đầu bằng một tên lính mang bản án. Sau hắn ta là đoàn lý hình với gươm giáo rồi đến quan quân chễm chệ trên lưng voi dẫn ra pháp trường. Theo sau có rất đông dân chúng cả lương lẫn giáo. Vừa đi Cha Viên vừa chăm chỉ cầu nguyyện, có lúc cha khóc lóc và ăn năn vì tội mình. Một người ngoại đạo, ngạc nhiên nói với người Công Giáo vì anh ta cho rằng Cha Viên có lẽ sợ nên đã khóc. Người Công Giáo bảo anh ta rằng: “Ông lầm rồi, cha chúng tôi không khóc vì sợ chết, mà khóc vì vui mừng đó thôi”.
Khoảng trưa thì cả đoàn người đã tới pháp trường gọi là Ba Tòa. Họ tháo gông và xiềng xích cho cha. Một vài giáo dân đã đem theo sau mảnh chiếu và trải cho cha ngồị
Họ cũng mang đồ ăn cho cha. Nhưng cha chỉ nếm thôi để làm hài lòng họ. Sau mấy phút trầm ngâm cầu nguyện, cha đưa hai cánh tay cho họ trói giật lại. Cha Viên, như con chiên trên bàn hiến tế, ngoan ngoãn giương cổ cho lý hình đang chờ sẵn. Lúc đó hai tên phản bội lăn xả xuống và xin Cha Viên tha tội. Cha nói, cha sẵn sàng tha cho họ với điều kiện họ phải đi xưng tội và làm việc đền tội. Trong hồi ký, Ðức Cha Marti kể rằng: “Có một người ngoại đạo tên Hòa đến gần Cha Viên và nói thầm với cha rằng: 'Hôm nay cha về trời, nếu cha cần phải nhắn bảo hay làm gì, con sẵn sàng làm theo ý cha”.
Thinh lặng trong phút cầu nguyện, cha hướng mặt về trời lần sau chót và lý hình vung gươm chém một nhát. Ðầu cha lăn ngay xuống đất và linh hồn hạnh phúc ấy được hợp hoan cùng Chúa muôn đời. Cha thọ 52 tuổi.
Theo tập quán của thời này, dân chúng lương cũng như giáo chạy ra và thấm máu cha cũng như họ đã tranh nhau lấy tất cả những gì thuộc về cha và có người bán chác ngay tại chỗ, thậm chí có người dám cắt tai cha để bán lại cho giáo dân.
Sau đó, bổn đạo tại làng Vân xin giữ đầu Cha Viên, nhưng giáo dân làng Tiên Chu ngăn cản họ. Trong khi đó quan tuần đã cho phép dân chúng làng Tiên Chu giữ cả xác và đầu Cha Viên và họ đã chôn cất tại nhà thờ mà vua đã cho phá. Làng Tiên Chu có khoảng ba ngàn giáo dân.
Sau vụ này, vua ban thưởng ba trăm quan. Số tiền này họ chia nhau và cho cả hai tên phản bội nữa. Sau đó quan tuần được thăng chức. Ðó là tất cả các lợi lộc, chức tước của đời này, còn chúng ta những người Công Giáo thì sao? Chúng ta phải đợi phán xét xử công minh của Chúa. Ðó mới là chính phần thưởng vĩnh cửu đời sau.
(bị bắt 29-6-1838, xử trảm 5-9-1838)
Cha Tự sinh khoảng năm 1796 tại làng Ninh Cường tỉnh Nam Ðịnh. Gia đình cha gửi đi tu hồi còn nhỏ. Thiên Chúa đã ban cho cha những nhân đức lạ lùng. Người rất siêng năng, cần mẫn trong việc làm cũng như việc học vì thế các Bề Trên rất thương và tín nhiệm. Năm 30 tuổi, người chịu chức linh mục. Ngày 14-1-1827 người khấn trọn tại dòng Ða Minh do Cha Amandi chủ lễ.
Trong suốt mười năm trời, cha phục vụ dân chúng hết lòng. Trong hồ sơ phong thánh cho cha, họ đã làm chứng rằng cha có một đức bác ái rất cao độ đối với mọi người. Cả cuộc đời cha là một chuỗi ngày cầu nguyện không ngừng. Lúc nào cha cũng âm thầm với Chúa dù đi làm hay phải trốn chạy. Lúc nào giáo dân cũng tìm thấy cha trong một trạng thái rất thân mật với Chúa và thiết tha với đời linh mục.
Ðầu năm 1838, Bề Trên sai cha cai quản xứ Kẻ Một (Ðức Trai). Ông trùm trưởng Quang luôn luôn đón tiếp cha. Tại nhà ông Quang có một khu vườn chuối và trầu rất rậm rạp. Chung quanh khu vườn đó lại có những lũy tre cao như một bình phong che kín cả khu vườn vuông vắn. Khoảng giữa vườn lại có một hàng rào khác vây quanh bằng cây sậy và lá trầu giăng kín để dùng làm chỗ trú ẩn thật chu đáo cho Cha Tự.
Dân làng Kẻ Một gồm toàn là người Công Giáo nên lính vua nghĩ rằng chắc hẳn nơi đó phải có một vị linh mục trú ẩn. Vì thế ngày 29-6-1838 họ đến bao vây cả làng. Cha Tự muốn tìm nơi khác để trú ẩn nhưng ông Quang khuyên cha nên ở lại vì theo ông không còn nơi nào kín đáo hơn là vườn của ông. Tuy nhiên, để tránh khỏi bị nhòm ngó, ông Quang đưa Cha Tự đến một gia đình đạo đức khác tên là Thảo, bà này khi gặp cha đã nói: “Xin mời cha vào ở, con thà chết chẳng thà bỏ cha”.
Thầy giảng Úy đã đích thân lo tu bổ và xây cất nơi trú ẩn này. Ông làm một lầu và một hầm, Cha Tự ở hầm và ông ở trên. Ông nghĩ nếu lính vua bắt được thì họ sẽ bắt ông trước vì ông hy vọng không ai sẽ ngờ rằng cha đang ở dưới hầm.
Lính vào làng tìm kiếm giáo sĩ trong các nhà họ đạo, họ không tìm thấy cha nhưng họ tìm thấy tràng hạt, ảnh tượng và áo lễ. Các trưởng lão trong làng phải hùn nhau trả tiền để làng khỏi bị phá hủy. Một số giáo dân vì yếu đức tin và sợ hãi nên đã bỏ đạo.
Tất cả các trưởng gia đình phải đi ra đình làng để lấy khẩu cung. Năm thanh niên vì nhất định không bỏ đạo nên đã bị đánh mỗi người 15 roi. Ông y sĩ Ninh vì không chịu nổi đòn vọt nên đã xưng ra chỗ cha ở, đầu tiên ông xin hạn một tháng nhưng vì bị đe đánh thêm đòn nên ông xin chịu gia hạn một ngày.
Ông y sĩ Ninh bị dồn thúc đã đi đến nhà ông Quang và cả hai đồng ý đi nộp Cha Tự. Nhưng vì họ hiểu rằng hành động này rất bỉ ổi nên một mặt muốn nộp cha, một mặt muốn tìm cách nào nộp cha cho khỏi bị tai tiếng. Họ đến nhà bà Thảo và nói dối rằng họ đã tìm một chỗ trú ẩn khác tốt hơn tại làng Hương, và báo cho cha biết là đúng hai giờ đêm hôm đó sẽ đến và đưa cha đi. Hai giờ điểm, ba tên đầy tớ ông Quang đến dẫn Cha Tự đi. Dọc đường hai cha con ông Quang gặp cha và đưa cha vào nhà ông Loan gần đó. Thày giảng Úy và một tên đầy tớ cùng đi với Cha Tự. Ông Loan liền đẩy ba người vào một phòng kín trên gác nhà.
Sáng sớm hôm sau, ông Loan sai đầy tớ giấu ba thầy trò tại vườn mía và vào lúc trưa, tên đầy tớ đó đưa ba thầy trò ra đường và lập tức lính và ba đầy tớ ông Loan trực sẵn vây bắt cả ba thầy trò. Khi thấy họ vây quanh, Cha Tự kêu lớn tiếng làm cho tất cả lính tráng ngã ngửa người ra cũng như trường hợp đã xảy ra cho Chúa Giêsu trong vườn cây dầu. Có người đã minh chứng rằng, trời đang sáng bỗng dưng tối sầm lại làm cho nhiều người rất sợ hãi. Thấy vậy quan quân rất tức giận không kiềm chế nổi nên lấy thanh kiếm đánh cha, lại còn cứa vào môi khiến máu chảy ra lênh láng.
Trường hợp này, cũng như trường hợp Giuđa, tiền của là căn cớ mọi tội lỗi. Ngày hôm đó Cha Tự bị trói và đưa ra công trường, nơi đó có ông Loan là trưởng làng cởi trói cho cha. Khi lính trói cha quá mạnh chúng làm cho xương cánh tay của cha sai khớp và vì thế càng làm cho cha đau đớn hơn nữa. Ông Loan nói với cha: “Xin cha cứ nộp sáu lạng bạc, chúng tôi sẽ cho cha về”.
Cha Tự trả lời: “Tôi đã mất tiền của trước kia để khỏi bị bắt, bây giờ Chúa đã thương ban cho tôi được tuyên xưng Người, tôi sẽ không trốn chạy nữa. Tôi không có tiền để đưa cho các ông. Các ông hãy nộp tôi cho quan ngay”.
Quân phản bội biết rằng không thể làm gì hơn lại trói cha lại và dẫn cha tới làng Sĩ An, quan tòa nói với cha: “Cha đã bị trói tại đâu trong ba bốn ngày nay?”
Cha trả lời: “Giả sử như không có ông Loan thì khi nào ông sẽ bắt được tôi?”
Quan không trả lời mà lại ra lệnh bắt tất cả những người Công Giáo phải bước qua thập giá, và sau đó truyền cho Cha Tự cũng bước qua. Nhưng ngược lại, Cha Tự ôm chầm lấy thánh giá và hôn kính. Người nói dõng dạc: “Tôi là linh mục, tôi không bao giờ chà đạp thập giá, vì đó là dấu Chúa chọn để cứu chuộc nhân loại. Nếu quan tha thì tôi được sống, bằng không tôi sẵn sàng chết”.
Thật đau khổ thay, trước những lời lẽ và gương sáng của chủ chiên, con chiên bổn đạo của cha lần lượt bước qua thập giá. Khi thấy họ làm thế cha kêu khóc: “Xin Chúa và Mẹ hãy tha cho bổn đạo con!”
Nhưng cha được an ủi đôi chút khi thấy Thầy Giảng Úy và một vài người khác không chối đạo. Sau đó họ quyết định đưa các tù nhân về tỉnh Sanh Thái thuộc Bắc Ninh. Trên đường về Huyện Lương Tài, Cha Tự đã nói truyện với quan huyện và cho ông biết các lời vu khống về đạo Công Giáo.
Trong tù, cha nhận thấy một sổ sách của cha mà họ đã tịch thu trong đó có một tờ bìa ghi tên các người Công Giáo. Cha xin họ cho cha đọc sách đó trong khi bị giam. Họ cho cha đọc và khi thấy vài tờ sách có tên tuổi, địa chỉ của những người Công Giáo, cha sợ họ bị liên lụy vì thế cha muốn hủy bỏ nhưng không biết làm sao được vì có lính canh rất cẩn mật. Cha xin một chậu nước để rửa mình, mục đích là để gột rửa hàng tên nhưng cũng không được vì có một tên lính theo dõi luôn. Cha lại xin một manh chiếu để đuổi muỗi vì cha bị muỗi hành hạ không ngủ nổi. Dự định là khi có manh chiếu cha có thể dùng để che và như vậy cha có thể nhai nuốt mấy tờ giấy có địa chỉ đó nhưng vì bị khát và đói khô cổ nên cha cũng không thể nuốt nổi. Trong dịp này quan lại muốn làm tiền cha nữa, họ đòi cha 20 lạng bạc nếu có, cha sẽ được tha và muốn làm cho cha tin họ, họ đã lấy bớt gông cổ ra nhưng cha trả lời: “Chúa đã cho tôi được chịu đau khổ vì Người, tôi sẵn sàng chấp nhận, bổn đạo của tôi không có tiền”.
Thấy không thể kiếm được tiền, chúng lại bắt cha đeo gông và ngày hôm sau cha phải giải về tỉnh Sanh Thái (Bắc Ninh).
May mắn thay, người lãnh binh chịu trách nhiệm giải Cha Tự là ông Chánh, một người ngoại đạo rất tốt, để ý về cha và tỏ ra rất thương hại cha. Ðược cấp trên cho phép, ông cắt bớt gông cùm cho cha và cha chỉ phải đeo một phần nhỏ thôi. Ông cũng làm một ghế tre nhỏ để cha ngồi khi bị cáng.
Khoảng trưa tất cả đã tới làng Do và mọi người dừng chân để nghỉ ngơi. Quan tòa cho giải chiếu sẵn để cha ngồi và ông mời cha ăn chung. Nhưng Cha Tự xin phép được ngồi riêng vì biết rằng khoảng cách cấp bậc giữa cha và quan rất xa. Ông ta không đòi hỏi nữa và chỉ bắt cha dùng phần ăn của ông thôi.
Sau bữa ăn trưa, họ lại bắt đầu tiếp tục đi, họ gặp một bà bán hàng nồi, bà ta nói với cha: “Tôi thờ trời đất và Thần Phật, tôi rất nghèo không có của gì để dâng cúng, tôi chỉ có cái chậu nhỏ này nhưng tôi muốn dâng cha với cả tâm hồn tôi, cha có nhận không? Khi cha khát cha có thể dùng nó mà chứa nước”.
Cha Tự chấp nhận món quà đó và cám ơn bà.
Chúng ta chỉ có thể tóm tắt trong ba tháng mà Cha Tự đã phải trải qua trong tù. Thường thường cha bị tra tấn, có lúc được hứa hẹn hão huyền có lúc bị đe dọa để bắt ép cha chối Chúa. Nhưng chúng ta được biết qua các chứng nhân, tất cả các mưu mẹo đều hỏng cả. Người không bỏ qua một dịp nào mà không giảng đạo cho các bạn tù và các người thẩm vấn. Khi thấy một số giáo dân chối đạo cha đã than khóc và có lúc cha đã quở trách họ làm cho một số người phải kinh khiếp.
Khoảng trưa ngày mồng 3-7, khi nhìn thấy một cây thánh giá lớn để tại cổng thành Bắc Ninh, họ bắt cha phải bước qua, cha nhất định không đi và cứ đứng tại chỗ cha nói như ra lệnh khiến quân lính phải lấy đi. Cùng lúc quan tòa hỏi cha để lấy lại những cuốn sách mà họ đã tịch thu. Quan tỉnh biết là nhóm người tù đã tới nơi, trong khi chờ đợi, họ giải chiếu cho cha ngồi và bắt lính phải hầu trà. Tên lính này tỏ vẻ khinh bỉ cha và rót nước vào cốc thường, quan tòa sửa mắng tên lính và bắt hắn rót nước cho cha vào tách trà thật đẹp và bắt một đầy tớ quạt cho cha.
Về chiều, họ nộp cha cho quan trên, họ lại đặt cây Thánh Giá trên lối đi và cha lại dõng dạc như truyền lịnh và họ phải cất thánh giá đi.
Khi gặp quan thượng, quan cầm cuốn sách đã bị xé mấy tờ, quan hỏi cha: “Tại sao cuốn sách này lại có ít tờ như vậy?”
Cha điềm nhiên trả lời: “Khi vào thành, người ta bắt tôi đưa sách cho họ, tôi không chịu trách nhiệm khi tôi không có sách”.
May mắn thay, quan tòa đã hài lòng về câu trả lời khôn ngoan đó. Họ đưa cha vào tù, và từ đó cha phải mang xiềng xích nặng hơn. Cổ cha bị đeo một kiềng sắt và giây buộc cổ cũng bằng sắt dài tới quá đầu gối, lại có hai móc, và hai móc đó buộc vào hai kiềng chân. Hình khổ này làm cha rất đau đớn không chỉ vì sức nặng nhưng vì cha cao hơn nên người phải cúi khòm lưng.
Khi vào tù cha gặp lại Thầy Giảng Úy, mà hai người đã bị tách rời từ trước. Một chút tiền đút lót đã mang hai cha con lại với nhau. Hai thầy trò nằm gần bên nhau và thủ thỉ truyện trò, nhờ đó, sau này có mấy giáo dân kể lại, Cha Tự nói: “Nếu con muốn sống, cha sẽ nói mấy lời để con khỏi phải liên lụy và con có thể trốn thoát được”.
Thày giảng hỏi: “Vậy cha sẽ nói lời gì?” Cha trả lời: “Cha sẽ nói rằng con là người nấu ăn cho cha, và đó là đúng”.
Thày giảng trả lời: “Con xin cha đừng nói lời đó! Con chỉ có một ao ước này là chịu đau khổ và chết với cha”. Cha nói: “Ðược rồi, vậy cha sẽ nói con là thầy giáo, lời đó sẽ đưa con tới phúc tử đạo, nhưng con phải theo y lời cha nói và đừng để ý đến lời ai cả”.
Cả hai thầy trò rất đỗi vui mừng. Họ cầu nguyện lâu giờ và sau đó thầy giảng xin xưng tội. Ngày hôm sau Cha Tự bị điệu lên tòa, họ thẩm vấn cha về nhân số các linh mục tại miền Tây và miền Bắc, khi nhận thấy họ thuộc loại người nào Cha Tự từ chối ngay. Thấy vậy một người đã bỏ đạo tên là Tôn hỗn xược nói: “Nếu cha không nói, thì đòn vọt sẽ làm cha nói”. - “Anh lấy quyền gì để nói thế, nếu anh muốn thì anh cho tôi hầu quan”.
Anh ta tức giận trả lời: “Cha hãy nhớ, cha chỉ là một tù nhân”. - “Ðúng vậy tôi chỉ là một tên tù, vì tôi bị trói buộc bằng xiềng xích nhưng đâu có phải vậy mà anh được quyền đánh tôi?”
Người đứng cạnh đó bảo anh ta: “Anh đã theo đạo rồi chứ?”
Anh ta trả lời: “Ðúng rồi, trước kia tôi theo đạo, nhưng thấy đạo vô ích, tôi đã bỏ”.
Khi nghe vậy, cha rất bất mãn và bảo anh: “Anh không có đạo nghĩa gì cả, nhưng anh chỉ xu thời và tình cảm thôi. Anh có thể tới nơi mà tôi sắp tới không? Ðạo tôi là đạo thật, cả bao thế hệ trước tôi đã theo, cha mẹ tôi đã theo và bây giờ tôi đang theo”.
Các ký lục và đội trưởng rất cảm kích về lời nói của cha, có kẻ tặng cha miếng trầu tỏ vẻ khâm phục người. Tên bỏ đạo rất tức giận, hắn đi tìm quan tòa ngay và thúc giục ông này tìm cách hành hình người càng sớm càng tốt. Quan tòa cũng cho gọi cha lên nhưng tên bỏ đạo Tôn càng bất mãn hơn vì thấy ông này đối với cha rất tử tế. Ông ta cho mời cha vào sân, bắt lính trải chiếu hoa cho cha ngồi. Quan tòa thấy cha đi lom khom nên hỏi cha duyên cớ. Cha nói: “Tôi sẵn sàng chết, nhưng trong khi chờ đợi, họ đeo xích ngắn làm tôi không đi thẳng được.” Quan cho gọi người thợ đến và nối thêm hai vòng sắt nữa. Trong khi thợ làm việc thì quan truyện vãn với cha. Quan tòa dùng mọi cách để bắt ép cha khai tên các vị thừa sai ở các miền Ðông, Tây, Nam. Cha chỉ cho biết tên một số vị mà chính họ đã biết còn ngoài ra cha giữ yên lặng hoàn toàn.
Trong lúc ngồi hầu tòa, người ta mang Thầy Giảng Xavier Mậu ra trước công đình. Quan tòa tra vấn thầy, thầy hiên ngang trả lời thầy là đệ tử chính của Cha Tự. Ðiều này làm cha rất hài lòng và được an ủi phần nào vì những người khác đã bỏ đạo. Ðây là thầy giảng thứ hai của Cha Tự đã anh dũng xưng đạo.
Một số các ký lục bắt cha phải ký nhận là đã thăm hết mọi gia đình giáo hữu trong làng. Cha Tự chối vì lý do không đúng sự thật và cũng vì thế mà chúng bắt cha phải làm để chúng có dịp cướp bóc các gia đình Công Giáo.
Ngày 10-7 họ lại gọi cha ra hầu tòa và đưa cho cha xem ảnh tượng, áo lễ, và đòi biết ý nghĩa của các tang vật. Cha sẵn sàng giảng nghĩa cho họ. Quan lại cho biết ngày hôm sau có bốn vị trùm trưởng của bốn họ đạo sẽ bước qua thập giá. Tin này làm cha đau đớn vô cùng. Quan tòa tiếp tục hỏi cha về hôn nhân Công Giáo cũng như lý do cấm lấy nhiều vợ. Cha giảng giải cho họ và sau đó họ lại điệu cha về ngục.
Cha lo âu về vấn đề 4 ông trùm sắp bước qua thập giá nên khi bước vô tù, cha nói lớn như để cho mọi người nghe: “Bước qua thập giá là một điều mà Thiên Chúa rất gớm ghét, vì chính Chúa đã nói: 'Ai chối ta trước mặt thiên hạ, Ta sẽ chối từ nó trước mặt Cha Ta ở trên trờí. Vì thế chúng ta phải cầu xin Chúa ban sức mạnh và phải cầu xin bằng nước mắt và ăn chay”.
Cha cứ nói như vậy mấy lần. Sau đó cha thấy một số tù nhân ăn chay và cầu nguyện. Ngày hôm sau khốn thay tất cả đã bỏ đạo trừ một cụ già ngoài 70 tuổi. Cụ già này là thầy lang Giuse Hoàng Lương Cảnh. Sự trung thành của cụ Cảnh làm cha bớt buồn phiền.
Giông tố đã sàng sẩy vỏ trấu và gạo, bây giờ thì Cha Tự chỉ còn có cụ Giuse Cảnh, Dòng Ba Ða Minh, Thầy Giảng Ðominicô Úy, Xavier Mậu và ba người giáo hữu khác là Tôma Ðệ, Augustinô Mới và Stêphanô Vinh. Cha Tự và cụ Cảnh bị kết án xử giảo, còn năm người kia mỗi người bị đánh trăm roi và bị lưu đầy tại Bình Ðịnh. Quyết nghị này đã được gửi về kinh để xin phê.
Ông vua khát máu này tỏ vẻ vui sướng vì sự trừng phạt của bảy vị xưng đạo. Tuy nhiên ông vẫn chưa hài lòng lắm vì cho rằng những hình phạt này còn chưa thỏa đáng nên ông tự bày mưu. Vua tỏ vẻ như thương hại Cha Tự và sáu người kia, và hứa nếu tất cả bước qua thập giá thì ông sẽ phạt nhẹ thôi, bằng không sẽ còn phạt nặng gấp trăm. Ðồng thời ông ban khen cho quan và lính.
Vì sắc chỉ do mưu mô của vua nên ngày 9-8 cả thảy bảy người bị điệu ra công trường. Cha Tự nghi ngờ những gì sẽ xảy ra nên càng cầu nguyện sốt sắng hơn. Cha Tự dẫn đầu sáu tù nhân ra trước công trường, người ta thấy ba vị quan tòa đã ngồi sẵn và chung quanh gồm có các ký lục, thẩm vấn và một số đông lính tráng.
Trên một bàn khác có thánh giá và các đồ đạo đã bị chiếm đoạt trong các giáo đường, và bên cạnh cũng được bày ra một số dụng cụ khủng khiếp để phạt những ai không chối đạo. Chúng ta hãy nghe lời tường thuật của Giám Mục Martin: “Trước những hình khổ được bày ra, có ai trong chúng ta là không run sợ? Nhưng các vị này đã được ơn trên soi sáng phù hộ nên không hề run sợ và nao núng”.
Cha Tự bị điệu ra đầu tiên, một trong những quan tòa hỏi cha: “Cha có biết là đức vua rất thương hại cha không? Cha chỉ việc bước qua thập giá là vua sẽ khoan hồng đại lượng với cha. Vì cha vẫn còn trẻ (43 tuổi) hơn nữa cha mới từ miền Nam tới, nên chúng tôi rất buồn nếu phải xử án tử cho cha. Vậy cha nghĩ sao?”
Cha Tự trả lời: “Tôi rất kính trọng đức vua nhưng đồng thời xin quan cứ việc xử tôi như người theo đạo Thiên Chúa. Vì Người là Chúa cả trời đất nên tôi phải thờ lạy, nếu vua cho phép tôi được sống, tôi hết lòng đa tạ, bằng không nếu vua muốn xử án chết, tôi xin tuân theo, còn ngoài ra với bất cứ giá nào tôi không thể làm theo ý vua”.
- “Thôi, đủ rồi! Tôi đã quyết định rồi cha không phải bị hành khổ nữa!”
Cha Tự lại bắt đầu cầu nguyện càng sốt sắng hơn để xin Chúa duy trì đức tin cho hai thầy giảng và bốn giáo hữu. Theo lời tường thuật của Giám Mục Marti, để dụ dỗ cha quá khóa, ngày 19-8-1838 quan mời cha ngồi chiếu hoa và đàm đạo về giáo lý. Cha gợi truyện với quan: - “Tôi luôn tôn kính ba cha”.
- “Ba cha nào?”
- “Thiên Chúa là Cha trên trời, là Chúa Tể, là Vua, và cha dưới trần là đức vua, và cha thấp hơn nữa là cha của tôi”.
- “Tốt lắm, nhưng cha hãy nghĩ lại đi, nếu vua là cha thay Chúa, Người truyền cho cha phải bước qua thập giá mà cha không vâng lời, vậy cha không làm vua phật ý sao?”
- “Không phải vậy, khi vua và cha tôi truyền cho tôi làm điều xấu như đạp qua thánh giá là dấu chỉ của Cha trên trời làm sao tôi có thể theo được?”
- “Vậy tại sao có bao nhiêu người phản bội cha tại làng Ðức Trãi?”
- “Tôi dạy họ mọi ngày, nhưng cũng giống như quan vậy, có nhiều đứa con quan muốn cho họ trưởng thành tốt lành, vậy tại sao lại có người vâng lời, có người lại không tuân theo”
- “Dân làng Ðức Trãi đã bước qua thập giá, tại sao cha lại vẫn bướng không theo?”
- “Tôi đã nhận ân huệ của Chúa rất nhiều, Người đã cho tôi cả gấp trăm, gấp ngàn lần sánh với dân làng Ðức Trãi, như vậy Người muốn tôi làm thủ lãnh dẫn giắt họ ra trận. Khi thấy kẻ thù họ thất đảm và chạy tán loạn, khổ cho họ. Còn tôi, tôi là tướng trận tôi phải can đảm và trung thành với Chúa tôi. Nếu tôi cũng hèn nhát như họ thì thà rằng tôi bị chém đầu và liệng xuống sông hay bị một cơn bệnh không thể chữa được còn hơn, và vì thế tôi phải trung thành và chiến đấu cho tới cùng. Ngay chính quan đây, nếu quan là tướng lãnh của vua, mỗi ngày quan lĩnh gấp trăm lần lính, còn họ chỉ lĩnh có một phần, vì lính ít lương nên họ đói và vì đói nên thấy kẻ thù đến họ chạy trốn. Vậy quan có bắt chước họ mà chạy trốn không? Nếu quan bắt chước thì khổ cho quan vì vua sẽ không dung tha cho quan.”
- “Sau khi chết cha sẽ đi đâu vì cha đã trung thành với Chúa trời đất như vậy? Và những người Ðức Trãi, người chối đạo, sẽ đi đâu?”
- “Tôi sẽ về trời với Chúa, và tất cả những ai ở Ðức Trãi đã trung thành với Chúa hoặc sau khi chối, mà ăn năn trở lại cũng được về trời với NgàI. Còn những người đã quyết tâm chối Người cho tới cùng sẽ trở về lòng đất”.
- “Trời và lòng đất có nghĩa là gì?”
- “Xin quan hãy hiểu câu châm ngôn sau đây: 'Sinh ký, tử quý. Ðời sống là một cuộc hành trình, còn chết là đi về nhà”.
- “Ði về đâu?”
- “Các triết lý gia đã suy luận về nơi hạnh phúc cho những người tốt và hỏa ngục chỗ những kẻ xấu, chính quan là bạn của vua được sống sung túc trong nhà lầu nguy nga còn tôi một phàm nhân làm mất lòng vua phải đeo xiềng xích và bị tống ngục”.
- “Ai là tốt, ai là xấu?”
- “Người tốt là những người đã thực hành giáo lý Công Giáo, người xấu là những người không thực hành giáo lý Công Giáo hay là những người theo đạo mà ăn ở bội bạc phản đạo”.
- “Vậy người Công Giáo xấu là ai? Có phải là những người làng Ðức Trãi không? Vua và tất cả những người không theo đạo có phải sa hỏa ngục không?”
- “Phải sa hỏa ngục”
- “Tôi là quan và tôi đã trung thành với vua của tôi, cũng như cha, cha đã trung thành với Chúa của cha tại sao một người được lên Thiên Ðàng, còn một người phải xuống lòng đất?”
Cha Tự khôn ngoan trả lời: “Quan chắc hẳn sẽ không tin lời tôi nói, vì những lời này sẽ làm chướng tai quan”.
- “Hãy cứ nói đi!”
- “Quan trung thành với vua, thật đúng! Nhưng quan đã chọn lầm chủ. Thí dụ cụ thể, quan ra một tỉnh khác, quan gặp một ông vua, vua cho quan sống trong lầu cao lại đặt quan làm thị trấn, quan nhậm chức. Nhưng sau một thời gian, vua thật của quan tới với đoàn tùy tùng. Ðương nhiên vua sẽ coi quan như người chống đối và vua đó sẽ chém đầu quan”.
Quan không nhịn được cười, tỏ vẻ cảm phục cách thế nói truyện của cha rất lễ phép, đồng thời cũng rất chân thật. Tỏ ra ngưỡng mộ, quan sai lính hầu trà cho cha. Rồi hai người vẫn tiếp tục truyện trò: “Tại sao cha không thờ cúng cha mẹ tổ tiên?”
- “Khi cha mẹ tôi còn sống tôi rất mực trọng kính các người, tôi lo lắng và săn sóc chu đáo, nhưng khi các đấng chết, các đấng không còn ăn uống nữa vì linh hồn là thiêng liêng không cần gì nữa. Cha mẹ của quan đã mất, mà quan vẫn còn thờ cúng chuối oản như là các đấng còn sống, nếu các đấng ăn được, các đấng đã dùng rồi. Còn như vàng bạc tiền nong gửi cho họ bằng cách đốt đi, nếu giả như họ dùng được tại sao quan lại không đốt vàng thật hay tiền thật? Làm vậy không phải là một trò diễu cợt người chết ư?”
Quan thực sự cảm phục lối giải nghĩa đó và vì cứng lòng không muốn theo nên đã cho cha về tù và cho hai túi trà. Trong khi chờ đợi lệnh vua, Cha Tự không bỏ qua một giây phút nào mà không cầu nguyện, hoặc an ủi hay khuyên nhủ con chiên bổn đạo trong tù. Cha giải tội cho họ, và vì thế có nhiều người đút lót cho lính canh để được vào nhà tù xưng tội với cha. Phần cha, cha cũng khao khát được xưng tội nên một ngày kia cha than thở cùng một người Công Giáo: “Tôi rất đói khát mà không ai cho ăn, còn những cuộc viếng thăm này có ích gì?”
Người này đã hiểu cha muốn nói gì liền đút lót ít tiền bạc cho cai tù, ông ta đã có thể đưa Cha Phương vào tù. Khi quan canh thấy Cha Phương ông ta đã nói: “Tôi biết ông là ai, và tôi cho ông vào tù vì tôi tin rằng một linh mục Công Giáo không thể phản bội tôi được”.
Hai cha ban phép giải tội cho nhau và Cha Phương ra về vô sự. Từ khi Cha Tự biết ngày của mình đã gần đến để minh chứng tình yêu cho Chúa nên cha đã dọn mình sốt sắng. Cha tỏ ra rất vui vẻ và thanh thoát. Khi thấy giáo dân vào thăm có vẻ buồn, cha bảo họ không có gì để buồn cả, nếu họ buồn thì đừng vào. Khi nghe tin có ba người Công Giáo đã anh hùng xưng đạo, cha vui vẻ gặp họ và gieo mình xuống hôn chân họ. Hành động này làm cho nhiều người cảm phục và mạnh dạn hơn. Trong tù cha đã gặp rất nhiều thử thách. Một số cai tù cho là cha được chiều đãi hơn vì có nhiều người đút lót nên tính lợi dụng cha để làm tiền giáo dân. Một lính canh tù tình nguyện lo cho cha ăn uống, hắn ta nuôi hy vọng sẽ được trả trọng hậu. Cha vô tình không biết và đã nhận lời, nào ngờ tên đó sau này đòi công quá lớn đến nỗi cha không thể có. Hắn ta làm nhục cha, vì thế Cha Tự hứa sẽ xin giáo dân nhưng vì với số tiền lớn như vậy không thể lo trong vài ngày được. Anh ta la lối mắng chửi và còn xui người khác cũng làm để thủ lợi. Ngoài việc đó, còn có những kẻ khác đến giảng thuyết cho cha bỏ đạo. Cha kiên nhẫn lắng nghe nhưng sau cùng cha phải xin ông chấm dứt.
Các quan dụ dỗ không được thì kết án Cha Tự và cụ Cảnh phải xử giảo, nhưng vua cho như vậy là quá nhân đạo liền truyền cho hai vị bị chém đầu. Lệnh vua ban ra vào ngày 5-9, cha vui mừng sung sướng và người loan báo cho giáo dân. Còn một ít tiền cha phân phát hết cho các bạn tù và đồng thời cha khuyên nhủ họ. Khi đã chuẩn bị sẵn sàng xong, cha bận áo dòng trắng của dòng Ða Minh rồi cha nâng niu cây thánh giá mà cha đã hôn kính cả ngàn lần trong thời gian tù tội. Cha thầm lặng cầu xin để chờ cho lính đến đón đưa ra pháp trường. Các lính canh tù thấy cha mặc áo trắng rất ngạc nhiên và họ xin cha cho biết ý nghĩa của nó. Cha nói: “Ðây là áo dòng mà tôi đã được hân hạnh mặc, mầu trắng chỉ sự khiết tịnh mà những người trong dòng thật quý mến. Còn đây là thánh giá mà vua đã bắt tôi bước qua, nhưng tôi đã không làm và vì thế tôi phải mang án chết. Tôi ao ước luôn luôn có thánh giá này trong khi tôi chết”.
Khi nghe tin cha bị xử trảm, rất đông giáo hữu cũng như ngoại giáo kéo nhau đến nhà tù. Vì phải chờ đợi lâu, nên cha dùng dịp đó để giảng đạo cho họ. Cả tiếng đồng hồ người giảng về Chúa Giêsu và điều kiện cần thiết để được theo Người. Cha Tự cũng xin lính cho cha đứng trên một bục gỗ cao để dễ dàng đàm thoại với dân chúng, có lúc cha lớn tiếng kêu to: “Ngày hôm nay Thiên Chúa đã ban cho tôi một đặc ân, xin muôn đời ngợi khen Người, và riêng tôi, tôi xin cảm tạ Người hết lòng hết trí tôi”.
Sự xinh đẹp và hoan hỉ mừng vui tỏ lộ trên khuôn mặt tuấn tú của Cha Tự làm cho một người lương phải kêu lên: “Kìa xem, ông đó đẹp trai biết bao! Tại sao họ nỡ tâm giết một người như vậy?”
Trên đường tới pháp trường, cha trùm kín mũ áo dòng và thầm thĩ cầu nguyện, cha đọc kinh cầu các thánh và các kinh khác. Nhiều người không thể thấy mặt cha vì mũ áo dòng đã che kín, họ xin lính đến để xin cha kéo mũ áo xuống cho dân chúng được nhìn mặt, cha đã làm theo. Mọi người được chiêm ngưỡng bộ mặt hân hoan quả cảm của cha, một bộ mặt trẻ trung, đầy sức sống và cương nghị thế mà bằng lòng chết. Có người bỡ ngỡ nói: “Kìa xem, ông ta giương thánh giá để quảng cáo đạo ông ta!”
Có người lại nói: “Không phải vậy, ông ta chết vì cây thánh giá đó!”
Một tên lính đeo trước mặt cha một tấm bảng có chữ viết: “Nguyễn Văn Tự, tỉnh Nam Ðịnh, đã theo đạo Gia Tô, đạo giả và đã gây nhiều tai hại. Khi hỏi, ông ta đã thú nhận tất cả. Và vì thế chúng tôi thi hành án chết của ông”.
Ðồi Xài Bông là nơi thường được dùng để hành quyết các tội nhân, nhưng đặc biệt Cha Tự không phải chết ở đó, họ dẫn cha về phía bên phải đồi. Họ tháo gông cho cha và trói chặt hai cánh tay ra đằng sau. Một giáo dân tên Hải Thạc (sau này cũng chết vì đạo) đã lấy cái gối và xin Cha Tự quỳ trên gối để cho máu thấm vào đấy. Vì cha là người cao lớn ngay cả lúc quỳ cũng vẫn còn cao, vì vậy cha phải cúi đầu xuống để cho anh lý hình làm việc dễ dàng hơn. Khi mọi sự đã chuẩn bị xong, một quan hô to: “Hãy dùng một nhát kiếm mà chặt đầu ông ta, rồi hãy tung lên trời và không ai được khâu đầu vào cổ!”
Hồi trống thứ ba vừa chấm dứt, lý hình vung tay chém nhưng đầu vẫn chưa rơi khỏi cổ, anh ta phải vung mạnh lần thứ hai đầu mới rơi khỏi cổ. Theo tục lệ thời đó, đầu tội nhân phải tung lên cao ba lần cho mọi người trông thấy.
Lý hình vừa làm xong nhiệm vụ, thì cả lương lẫn giáo chạy xúm đến để thấm máu và tranh dành tất cả những gì của cha. Người ta chen lấn nhau đến nỗi một số người ngã trên vũng máu và làm cho cả đám người thấm máu của vị tử đạo.
Một số phép lạ xảy ra chứng tỏ Thiên Chúa đã muốn cho mọi người hiểu của lễ hy sinh mà cha đã dâng lên Chúa đẹp lòng Người bao nhiêu! Vừa khi cha được dẫn đến nơi xử thì trời bỗng dưng tối sầm lại và có ba tràng sấm vang dội. Rồi khi đầu cha rơi khỏi xác thì một đoàn sẻ bâu chung quanh như để chào đón linh hồn thánh thiện này. Một người Công Giáo đã lấy khăn tay và thấm máu cha, lạ lùng thay ông thấy ba hình in rõ trên vải, một hình của Cha Tự, một hình của tên lý hình và một hình chỗ cha bị xử tử. Một em bé ngoại đạo đã mắc bệnh đau bao tử nhiều năm, người ta cho em uống nước có hòa lẫn máu cha, tự nhiên em khỏe hẳn. Cậu Tham con quan Tuần đã lấy một miếng vải áo của cha. Ông Toàn muốn mua, cậu ta không bán vì cậu ta nói: “Từ khi tôi có miếng vải này, tôi khỏi bị ma quỷ quấy nhiễu”.
Theo lời Thầy Giảng Tín thì một tên lính ăn xôi bị quỷ nhập, thầy rảy nước thánh nó chỉ cười. Ông Loan nhớ là đã giữ cây kiếm tên lý hình dùng chém đầu Cha Tự, ông lấy thanh kiếm ra và ép vào cổ anh bị quỷ ám, tức thì anh ta được lành ngay.
Ðó là tất cả những sự lạ lùng mà Thiên Chúa đã làm để minh chứng lòng trung nghĩa của Cha Thánh Tự.