Phương pháp triệu chứng-nhiệt độ -- áp dụng cho việc điều hoà sinh sản -- dựa trên sự phân biệt một vài hiện tượng và triệu chứng của thời kỳ trứng rụng để xác định trạng thái có thể thụ thai hay không thể thụ thai trong chu kỳ kinh nguyệt. Những hiện tượng và triệu chứng này gồm: hình thức chất nhờn phát xuất từ các hạch ở âm hộ trước khi trứng rụng; sự đau nhức và ra máu ở giữa thời kỳ trứng rụng; biến chuyển các hạch ở cửa âm hộ; và biến chuyển nhiệt độ lên cao xảy ra ngay sau thời kỳ trứng rụng, cũng như quá khứ của chu kỳ kinh nguyệt.
Phương pháp này có kết quả hay không là tùy thuộc vào việc tránh giao hợp và tránh sự đụng chạm giữa các bộ phận sinh dục trong suốt thời kỳ có thể thụ thai của chu kỳ kinh nguyệt.
Qua việc ghi chép nhiệt độ cơ thể hàng ngày vào bản theo dõi nhiệt độ, và qua việc quan sát, ghi nhận những thay đổi của chất nhờn từ các hạch ở âm hộ, cũng như các hiện tượng khác, người phụ nữ có thể nhận ra thời kỳ có thể thụ thai hay không thể thụ thai trong chu kỳ kinh nguyệt của mình.
Hầu hết các cơ phận thuộc bộ phận sinh dục nam đều nằm ở bên ngoài cơ thể.
Bìu dái là túi đựng hai ngọc hành.
Ngọc hành là tuyến sinh dục nam, có công dụng sản xuất tinh trùng và kích thích tố testosteron.
Tinh trùng là những tế bào sinh sản dương tính, một tinh trùng hợp với một trứng để sinh ra một con người. Kích thích tố testosteron tạo nên các đặc tính phụ của phái nam như hình vóc đàn ông, râu, lông, tiếng nói.
Tinh dịch che chở và mang tinh trùng ra khỏi tinh hoàn qua ống dẫn tinh.
Ống dẫn tinh nối liền với ống dẫn tiểu, xuất phát từ bọng đái. Cả nước tiểu lẫn tinh dịch đi ra ngoài cơ thể qua ống dẫn tiểu nằm giữa dương vật.
Dương vật được cấu tạo bởi mô bì xốp, khi bị kích thích dương vật trương lớn, dài, cứng vì máu dồn về nhiều. Xuất tinh là sự tống xuất tinh dịch và tinh trùng ra ngoài dương vật qua ống dẫn tiểu. Mỗi lần xuất tinh có hàng trăm triệu tinh trùng. Tuy vậy, tinh trùng có thể hiện diện trong bất cứ dung dịch nào đi qua dương vật, tỉ như nước tiểu, và đặc biệt trong nước nhờn trước khi xuất tinh. Do đó, sự đụng chạm hai cơ quan sinh dục nam và nữ cũng có thể thụ thai, mặc dù không thực sự giao hợp.
Ðàn ông luôn luôn có khả năng làm người đàn bà thụ thai, vì tinh trùng luôn luôn được cấu tạo. Mỗi khi rời dương vật, tinh trùng có thể sống từ vài giờ đến vài ngày.
Hầu hết cơ phận sinh sản của người nữ đều nằm trong vùng xương chậu của cơ thể.
Buồng trứng là các hạch sinh sản trứng cũng như kích thích tố của phụ nữ như estrogen và progesteron.
Hai ống dẫn trứng nằm ở phía trên tử cung. Ở đầu hai ống dẫn trứng này có hai bộ phận hình bàn tay để đón trứng rồi chuyển qua ống dẫn trứng đến tử cung.
Tử cung là một cơ thịt rỗng, bên trong thường lớn bằng trái lê, có thể giãn rộng nhiều khi mang thai.
Nội mạc tử cung là lớp trong của tử cung, thường thay đổi hàng tháng theo chu kỳ kinh nguyệt, dưới ảnh hưởng của kích thích tố buồng trứng.
Các tuyến cổ tử cung nằm trong cổ tử cung. Dưới ảnh hưởng của kích thích tố estrogen, các tuyến ở cổ tử cung tăng lượng chất nhờn trước thời kỳ trứng rụng.
Miệng tử cung nở ra dưới ảnh hưởng của kích thích tố estrogen.
Âm đạo là đường co giãn, ăn thông từ tử cung ra ngoài cơ thể phụ nữ.
Những giai đoạn này gồm: - giai đoạn trước khi trứng rụng, giai đoạn trứng rụng và giai đoạn sau khi trứng rụng.
- Giai đoạn trước khi trứng rụng của chu kỳ kinh nguyệt gồm những ngày có kinh, và những ngày trước khi trứng rụng. Ngày đầu tiên có kinh là ngày thứ nhất của chu kỳ kinh nguyệt. Những ngày có kinh được coi là có thể thụ thai .
Một vài ngày đầu sau khi dứt kinh và những ngày trước khi trứng rụng được xem là những ngày khô, có nghĩa thiếu sự xuất hiện của chất nhờn. Những ngày khô được xem là không thể thụ thai.
Khi gần đến ngày trứng rụng, trạng thái ướt, trơn tru và dẻo của nước nhờn gia tăng đến độ có thể nhận thấy được. Những ngày ướt át được xem là có thể thụ thai .
- Hiện tượng then chốt của chu kỳ kinh nguyệt là sự trứng rụng. Trứng thường rụng vào khoảng ngày sau cùng của thời kỳ chất nhờn ướt, dẻo, trơn tru và thông thường trước khi nhiệt độ cơ thể tăng vọt lên . Khi ấy, một trứng sẽ tách rời ổ trứng. Trong thời kỳ này, sự thụ thai chắc chắn sẽ thành tựu.
- Giai đoạn sau khi trứng rụng gồm những ngày có thể thụ thai ngay sau khi trứng rụng và một số ngày khô không thể thụ thai, kéo dài đến ngày khởi đầu của chu kỳ kinh nguyệt kế tiếp. Chu kỳ kinh nguyệt kế tiếp khởi đầu khi bắt đầu có kinh trở lại. Giai đoạn trước khi trứng rụng thì co giãn vì thời gian trứng rụng có thể thay đổi từ chu kỳ kinh nguyệt này sang chu kỳ kinh nguyệt khác.
Giai đoạn sau khi trứng rụng thường từ 12 đến 16 ngày . Số ngày của giai đoạn sau khi trứng rụng thì bằng nhau từ chu kỳ này đến chu kỳ khác.
Trong giai đoạn trước khi trứng rụng, các bao noãn trong ổ trứng được kích thích để sinh sản. Trứng già, rụng đi và tạo nên sự trứng rụng. Khi những bao noãn phát triển nhiều thì ổ trứng gia tăng việc tiết ra kích thích tố estrogen để chuẩn bị cho thời kỳ trứng rụng.
Khi trứng già và ổ trứng gia tăng kích thích tố estrogen thì cổ tử cung cũng tiết nhiều chất nhờn ướt và trơn. Số lượng chất nhờn có thể gia tăng, nhưng quan trọng hơn là sự thay đổi đặc tính của chất nhờn, từ đặc kẹo đến trong đục, trơn tru hoặc có pha mầu hồng của máu . Chất nhờn này có thể mường tượng như lòng trắng trứng sống, đặc dẻo và ướt át.
Triệu chứng tột đỉnh của chất nhờn bài tiết ra có liên hệ đến mức độ bài tiết của kích thích tố estrogen. Vào lúc đó, đặc tính quan trọng nhất của chất nhờn là ướt át và trơn tru mà người phụ nữ cảm thấy trong âm hộ. Trứng thường rụng trong khoảng từ 24 đến 48 giơ ø, sau khi mức độ bài tiết chất nhờn lên đến tối đa.
Khi cơ thể người phụ nữ được nghỉ ngơi, nhiệt độ cơ thể gia tăng. Trong thời kỳ trước khi trứng rụng, nhiệt độ cơ thể được ghi nhận là thấp hơn.
Trước khi trứng rụng, các bao noãn trong ổ trứng gia tăng bài tiết kích thích tố estrogen. Sau khi trứng rụng, các bao noãn này tiếp tục bài tiết kích thích tố estrogen. Ðồng thời, các bao noãn tạo trứng sẽ chết đi. Những xác của bao noãn này tiết ra kích thích tố progesteron để giúp duy trì màng nhầy của tử cung, cũng như để nuôi dưỡng các trứng có thể thụ thai được, nếu việc thụ thai xảy ra.
Kích thích tố progesteron cũng làm thay đổi đặc tính của chất nhờn, được tiết ra từ cổ tử cung. Chất nhờn dẻo, giống như lòng trắng trứng sống, sẽ biến đổi từ trạng thái đặc kẹo sang lỏng hơn , hoặc có thể mất hẳn. Sự kiện này làm người phụ nữ cảm thấy khô khan trong âm hộ.
Sự thay đổi nhiệt độ cơ thể xảy ra ngay sau khi trứng rụng. Mức gia tăng nhiệt độ sẽ được kích thích tố progesteron duy trì từ 12 đến 16 ngày .
Sự chất dứt việc bài tiết chất nhờn, và sự thay đổi nhiệt độ (cao hơn nhiệt độ bình thường) đánh dấu giai đoạn sau khi trứng rụng bắt đầu.
Giai đoạn sau thời kỳ trứng rụng chấm dứt khi bắt đầu có kinh nguyệt kế tiếp. Ngay trước khi hoặc trong thời kỳ kinh nguyệt sắp đến, nhiệt độ cơ thể sẽ giảm xuống rõ rệt, bằng với nhiệt độ trước thời kỳ trứng rụng.
Chính yếu, phương pháp này dựa trên các biến chuyển của những triệu chứng chất nhờn ở cổ tử cung trước khi trứng rụng, và sự gia tăng nhiệt độ cơ thể lên cao hơn sau khi trứng rụng. Các hiện tượng và triệu chứng phụ thuộc có thể gồm sự đau nhức, chẩy máu và/hoặc sự vú nhậy cảm khi có kinh trong khoảng thời kỳ trứng rụng.
Hình thức biến đổi của chất nhờn cổ tử cung giúp cho ta biết là thời kỳ trứng rụng sắp đến. Nhiệt độ cơ thể vẫn giữ ở mức độ thấp trước khi trứng rụng. Sự gia tăng nhiệt độ lên cao có thể là dấu hiệu của thời kỳ trứng rụng đã bắt đầu.
Phương pháp Triệu Chứng-Nhiệt Ðộ tùy thuộc vào việc đo nhiệt độ cơ thể hàng ngày, và việc quan sát thường xuyên chất nhờn ở cổ tử cung . Việc quan sát hàng ngày phải được ghi nhận kỹ lưỡng, cho mỗi ngày của mỗi chu kỳ, để thiết lập một hồ sơ kinh nguyệt chính xác, đồng thời ghi chép các trạng thái của chu kỳ kinh nguyệt.
Các trạng thái chu kỳ kinh nguyệt sẽ giúp nhận định các hình thức có thể thụ thai và những thay đổi của thời kỳ kinh nguyệt. Thời gian trứng rụng của một người có thể thay đổi từ chu kỳ này sang chu kỳ kinh nguyệt khác. Qua việc quan sát số ngày của những chu kỳ trước, đôi vợ chồng có thể phỏng đoán khoảng thời gian có thể thụ thai trong chu kỳ hiện tại và tương lai.
Chất nhờn dễ được nhận thấy trong vùng âm hộ và qua những thay đổi của âm hộ, từ trạng thái khô khan đến sự gia tăng ướt và trơn, khi thời kỳ trứng rụng gần đến. Số lượng chất nhờn có thể tăng nhiều nhưng sự thay đổi đặc tính của chất nhờn mới quan trọng hơn.
Ngay sau khi dứt kinh và trước khi chất nhờn bài tiết ra, vùng âm hộ có thể cảm thấy khô khan. Nhưng khi chất nhờn cổ tử cung bắt đầu xuất hiện, thì vùng âm hộ sẽ trở nên dẻo dính hoặc ẩm ướt, và khi đó có thể nhận ra được một ít chất nhờn. Trong suốt thời gian này, nhiệt độ cơ thể sẽ ở mức tương đối thấp.
Khi thời kỳ trứng rụng sắp đến, chất nhờn biến đổi từ ướt, trong hoặc đục, giống như lòng trắng trứng sống, với những đặc tính đàn hồi hoặc dẻo và dần dần gia tăng trạng thái của nó. Cảm giác trơn và ướt này cho thấy thời kỳ trứng rụng sắp đến.
Trước ngày trứng rụng, Ngày Tột Ðỉnh là ngày mà chất nhờn bài tiết nhiều nhất. Ngày Tột Ðỉnh là ngày sau cùng mà chất nhờn ở trạng thái ướt và trơn . Một khi Ngày Tột Ðỉnh qua đi, thì trạng thái trơn và ướt của chất nhờn cũng chấm dứt. Sau khi trứng rụng, hiện tượng chất nhờn có thể biến mất và cảm giác khô khan trong âm hộ lại tái xuất hiện.
Không nên làm vệ sinh âm hộ ở giai đoạn trước thời kỳ trứng rụng, vì sẽ làm mất chất nhờn ở cổ tử cung. Nếu nghi ngờ về sự hiện diện và trạng thái chất nhờn cổ tử cung, người phụ nữ có thể phân biệt giữa cảm giác khô khan và ướt át qua tính chất giãn nở của da âm hộ.
Số lượng nhiều ít của chất nhờn không quan trọng bằng sự thay đổi tính chất của nó: từ dẻo và dính đến ướt nhiều, đàn hồi và trơn như lòng trắng trứng sống. Chất nhờn trong, đàn hồi, ướt và trơn là dấu chỉ quãng thời gian rất có thể thụ thai của chu kỳ kinh nguyệt.
Nhiệt độ cơ thể được định nghĩa là nhiệt độ của cơ thể trong trạng thái nghỉ ngơi, được ghi nhận vào cùng một giờ và cùng một điều kiện.
Thí dụ sau đây là một biểu đồ nhiệt độ trong một chu kỳ kinh nguyệt. Hãy lưu ý là trong suốt giai đoạn trước khi trứng rụng, nhiệt độ được ghi nhận là thấp . Nhiệt độ trung bình ở mức độ thấp là khoảng 97.6 F. Vào ngày thứ 16 của chu kỳ kinh nguyệt, nhiệt độ cơ thể tăng vọt.
Trước khi có sự tăng vọt của nhiệt độ trong thời kỳ trứng rụng, sự gia tăng này phải ít nhất là 0.4 F cao hơn nhiệt độ trung bình, được ghi nhận liên tục ít nhất 6 ngày trước đó. Sự thay đổi nhiệt độ của thời kỳ trước khi trứng rụng, từ thấp lên cao hơn, chứng tỏ là thời kỳ trứng rụng có thể bắt đầu.
Trong biểu đồ sau, nhiệt độ cao đến khoảng 98.2 F và tiếp tục duy trì ở mức độ này từ 12 đến 16 ngày, và khi bắt đầu có kinh nguyệt thì nhiệt độ tụt xuống thấp hơn.
Cũng nên để ý các ghi chú trên biểu đồ về hình thức chất nhờn cổ tử cung, liên hệ đến sự thay đổi nhiệt độ, cả hai đều cho thấy thời gian trứng rụng. Trong thí dụ này, Ngày Tột Ðỉnh là ngày thứ 14, là ngày trước khi nhiệt độ gia tăng cách đột ngột. Những triệu chứng chất nhờn cổ tử cung vào thời kỳ trước khi trứng rụng và sự thay đổi nhiệt độ cơ thể là những hiện tượng rõ ràng chứng minh là thời kỳ trứng rụng đã bắt đầu.
Ngoài những biến chuyển chất nhờn cổ tử cung và sự tăng vọt của nhiệt độ trong thời kỳ trứng rụng, còn có một số dấu hiệu khác được ghi nhận. Do đó, những dấu hiệu này cũng phải được ghi chép trong biểu đồ.
• Sự khó chịu trong người, hoặc đau bụng, đau lưng là một trong những triệu chứng của thời kỳ trứng rụng mà nhiều phụ nữ có thể nhận ra. Các cơn đau cùng với việc gia tăng bài tiết chất nhờn xảy ra trước khi nhiệt độ tăng vọt là bằng chứng cụ thể của thời kỳ trứng rụng.
• Ra huyết trong thời kỳ trứng rụng cũng có thể xảy ra. Sự ra huyết này liên hệ đến sự thay đổi mức độ estrogen và có thể từ rỉ máu đến dầm dề, thông thường kéo dài từ 1 đến 2 ngày.
• Cổ tử cung và miệng tử cung cũng bị thay đổi bởi ảnh hưởng của chu kỳ kinh nguyệt. Ngay sau khi dứt kinh, cổ tử cung trở nên cứng và miệng tử cung thu hẹp lại. Khi trứng bắt đầu rụng, cổ tử cung từ từ nhô lên và trở nên mềm, đồng thời miệng tử cung mở ra. Ðến khi trứng rụng, miệng tử cung căng rộng và có thể rất khó chạm được cổ tử cung vì nó ở sâu trong âm hộ. Sau khi trứng rụng, miệng tử cung dần dần đóng lại và miệng tử cung trở nên cứng hơn và trở về vị trí cũ trong âm hộ.
Sự đau nhức và ra huyết cũng như các thay đổi của đầu và miệng tử cung là những dấu hiệu và triệu chứng có thể xảy ra cùng với các biến chuyển của trạng thái chất nhờn và sự gia tăng nhiệt độ, tất cả cho thấy thời kỳ trứng rụng bắt đầu.
Ðây là biểu đồ mẫu để ghi nhận các dấu hiệu và triệu chứng hàng ngày.
Hãy dùng biểu đồ này để ghi nhận nhiệt độ, sự bài tiết của âm hộ, hoặc các triệu chứng khác vào ô thích hợp dành riêng cho mỗi ngày của chu kỳ.
Trên biểu đồ, số ngày từ 1 đến 36, tượng trưng cho những ngày của chu kỳ kinh nguyệt. Ngày thứ nhất của chu kỳ là ngày số 1. Ðừng quên ghi lại thời gian (ngày, tháng, năm) của chu kỳ và cách lấy nhiệt độ (ở miệng, hậu môn hay âm hộ).
Phải thường xuyên quan sát trong suốt ngày. Mỗi tối, hãy ghi nhận triệu chứng của ngày đó. Dùng các ký hiệu để đánh dấu biểu đồ.
K: Ngay khi có kinh nguyệt.
R: Khi sự ra huyết giảm, dù chỉ rỉ máu.
Kh: Khi sự ra huyết chấm dứt thì bắt đầu cảm thấy khô khan.
U: Khi thấy ướt hoặc chất nhờn bài tiết lần đầu tiên.
(U): Ngày Tột Ðỉnh
D: Sau ngày tột đỉnh chất nhờn có thể ngưng hoặc đổi sang trạng thái dẻo dính.
Mỗi ngày phải đo và ghi nhận nhiệt độ cơ thể.
Ðể có sự chính xác của chu kỳ kinh nguyệt dựa trên nhiệt độ cơ thể, các bạn nên lấy nhiệt độ trong các điều kiện giống nhau. Những điều kiện này gồm:
- Lấy nhiệt độ vào buổi sáng, cùng một giờ
- Lấy nhiệt độ sau khi ngủ ít nhất từ 3 đến 5 tiếng
- Lấy nhiệt độ trong 5 phút .
Ngoài việc ghi nhận các giai đoạn bài tiết của chất nhờn và sự thay đổi của nhiệt độ, các bạn hãy lưu ý và ghi nhận các quan sát sau đây:
V: vú nhậy cảm
Ðb: đau bụng, khó chịu trong người, vọp bẻ.
Ðo: đau ốm.
Tr: lấy nhiệt độ trễ hơn bình thường.
Hãy ghi nhận tất cả những lần giao hợp trước thời kỳ trứng rụng, và ngay sau thời kỳ trứng rụng.
G: Những ngày có giao hợp.
Giai đoạn này gồm những ngày có kinh, những ngày khô và nhiều ngày ướt trước thời kỳ trứng rụng.
Ngày đầu tiên của chu kỳ là ngày đầu tiên có kinh. Thời gian có kinh có thể bị che lấp bởi sự bài tiết chất nhờn lần đầu, và nếu giao hợp, có thể thụ thai được. Nếu không muốn thụ thai, phải tránh giao hợp và sự đụng chạm bộ phận sinh dục trong suốt thời gian có kinh. Khi huyết giảm, bạn có thể quan sát được sự hiện diện của chất nhờn cổ tử cung. Nếu phát hiện chất nhờn thì tránh giao hợp và mọi đụng chạm bộ phận sinh dục, cho đến giai đoạn sau thời kỳ trứng rụng là thời kỳ không thụ thai được.
Trước hoặc trong thời gian kinh nguyệt, nhiệt độ cơ thể giảm xuống thấp đến mức độ bằng với nhiệt độ ở thời kỳ trước khi trứng rụng, và nhiệt độ sẽ giữ ở mức này cho đến khi trứng rụng .
Sau khi hết kinh, người phụ nữ có thể ở vào giai đoạn không thụ thai của thời kỳ trước khi trứng rụng. Nếu những ngày trước thời kỳ trứng rụng sau khi dứt kinh là những ngày khô, thì những ngày khô này được coi là không thể thụ thai. Ðể xác định ngày khô, hãy kiểm soát xem chất nhờn có bài tiết hay không khi thức dậy và trước khi đi tiểu. Vào ban ngày, tiếp tục kiểm soát chất nhờn. Cho đến đêm, nếu không thấy chất nhờn, bạn có thể xác định đó là ngày khô.
Ðôi khi rất khó phân biệt giữa tinh dịch và chất nhờn cổ tử cung. Do đó, trong những ngày khô trước thời kỳ trứng rụng, phải hạn chế sự giao hợp và đụng chạm bộ phận sinh dục. Có thể giao hợp cách đêm và chỉ trong những ngày khô mà thôi. Nếu phát hiện chất nhờn cổ tử cung thì phải tránh giao hợp và đụng chạm bộ phận sinh dục.
Tóm lại, trong giai đoạn trước khi trứng rụng, chỉ giao hợp và đụng chạm bộ phận sinh dục trong những đêm của ngày khô, tránh giao hợp trong ngày và đêm tiếp đó.
Khi mức độ kích thích tố estrogen trong cơ thể gia tăng thì chất nhờn cũng gia tăng bài tiết. Cảm giác khô trong âm hộ trở thành ướt át, dẻo dính và có thể cảm thấy sự hiện diện của chất nhờn trong tử cung. Ðặc tính của chất nhờn thay đổi từng ngày một, cho đến khi trở nên ướt dẻo, trơn như lòng trắng trứng sống. Do đó, rất quan trọng để nhận ra ngày sau cùng của chất nhờn ướt và trong . Ngày này được gọi là Ngày Tột Ðỉnh . Cũng nên lưu ý là các thay đổi nhiệt độ từ thấp lên cao thường xảy ra sau Ngày Tột Ðỉnh. Sự thay đổi nhiệt độ này gọi là nhiệt độ biến chuyển. Nhiệt độ biến chuyển khi nhiệt độ tăng cao hơn nhiệt độ trung bình của thời kỳ trước khi trứng rụng ít nhất 0.4 F và giữ ở mức độ này.
Ðể có thể dễ nhận ra sự biến chuyển nhiệt độ, hãy gạch một Lằn Phân Ðịnh 0.1 F cao hơn mức cao nhất của nhiệt độ thấp thông thường. Thí dụ, mức cao nhất của nhiệt độ thấp thông thường là 97.3 F thì lằn phân định được vạch ở mức 97.4 F. Ðể tính mức cao nhất của nhiệt độ thấp thông thường thì không được kể bất cứ sự xáo trộn nhiệt độ nào, tỉ như mức nhiệt độ cao vọt vào ngày thứ 10 của biểu đồ dưới đây. Với thí dụ này, nhiệt độ được ghi nhận ở ba ngày 17, 18 và 19 cho thấy sự biến chuyển nhiệt độ và xác nhận giai đoạn sau khi trứng bắt đầu rụng.
Trong biểu đồ này cũng nên ghi nhận một triệu chứng khác của thời kỳ trứng rụng, đó là sự đau nhức.
Một khi có chất nhờn xuất hiện trong thời kỳ trưóc khi trứng rụng, phải tránh giao hợp và đụng chạm bộ phận sinh dục cho đến chiều tối ngày thứ tư sau ngày chất nhờn ra nhiều nhất, hoặc cho đến chiều tối ngày thứ ba, là ngày nhiệt độ cao nhất, tùy theo trạng thái nào xảy ra sau cùng.
Thông thường, chiều tối ngày thứ ba trong ba ngày nhiệt độ gia tăng liên tiếp, và chiều tối ngày thứ tư sau triệu chứng tột đỉnh chất nhờn, xảy ra song song. Tuy nhiên, đôi khi hai sự kiện trên xảy ra cách nhau khoảng một hay hai ngày.
Theo biểu đồ mẫu bên dưới, triệu chứng tột đỉnh chất nhờn xảy ra vào ngày thứ 15; nhiệt độ biến chuyển vào ngày thứ 17. Ngày thứ ba mà nhiệt độ gia tăng và ngày thứ tư sau Ngày Tột Ðỉnh chất nhờn, cả hai đều rơi vào ngày thứ 19. Giai đoạn từ ngày thứ 11 đến ngày thứ 19 được coi là những ngày thụ thai được. Giai đoạn sau thời kỳ trứng rụng bắt đầu vào chiều tối ngày thứ 19.
Tránh giao hợp và đụng chạm bộ phận sinh dục cho đến chiều tối ngày thứ ba, là ngày nhiệt độ cao nhất và kéo dài, hoặc cho đến chiều tối ngày thứ tư sau Ngày Tột Ðỉnh chất nhờn, tùy theo trạng thái nào xảy ra sau cùng.
Giai đoạn không thụ thai được sau thời kỳ trứng rụng bắt đầu vào chiều tối của ngày thứ ba trong ba ngày liền mà nhiệt độ cơ thể được ghi nhận là cao hơn và kéo dài, và chiều tối ngày thứ tư sau Ngày Tột Ðỉnh chất nhờn, tùy theo trạng thái nào xảy ra sau cùng.
Nhiệt độ cơ thể sẽ giữ ở mức cao hơn cho đến khi chu kỳ kinh nguyệt kế tiếp bắt đầu. Chất nhờn hoặc sẽ biến mất hoặc có tính cách dẻo dính trong giai đoạn không thụ thai được của thời kỳ sau khi trứng rụng.
Với thí dụ bên dưới, ngày thứ ba mà nhiệt độ tăng cao và ngày thứ tư sau Ngày Tột Ðỉnh chất nhờn, cả hai đều rơi vào ngày thứ 19. Giai đoạn không thụ thai sau thời kỳ trứng rụng được bắt đầu vào chiều tối ngày thứ 19 và tiếp tục cho đến ngày thứ 30. Tất cả những ngày này được coi là không thể thụ thai.
Ngày thứ 31 trong biểu đồ này là ngày thứ nhất của chu kỳ kinh nguyệt kế tiếp. Biểu đồ này được thiết lập cho một chu kỳ kinh nguyệt. Do đó phải thiết lập một biểu đồ mới cho chu kỳ mới.
Biểu đồ bên dưới cho thấy một chu kỳ kinh nguyệt có hai triệu chứng tột đỉnh chất nhờn. Tột đỉnh đầu xuất hiện vào ngày thứ 11, tuy nhiên không có sự gia tăng nhiệt độ đi kèm với tột đỉnh này. Chất nhờn có gia tăng nhưng trứng không rụng sau Ngày Tột Ðỉnh đầu.
Tiếp theo Ngày Tột Ðỉnh này mà nhiệt độ không thay đổi, hãy tiếp tục quan sát các biến chuyển của chất nhờn, và ghi chú vào biểu đồ. Tránh giao hợp cho đến chiều tối ngày thứ ba là ngày mà nhiệt độ được ghi nhận gia tăng.
Tột đỉnh thứ hai được ghi nhận vào khoảng thời gian ngắn trước khi nhiệt độ thay đổi rõ rệt, được thấy trên Lằn Phân Ðịnh.
Hiện tượng này thường xảy ra trong các chu kỳ kinh nguyệt dài. Trứng rụng bị chậm đi và triệu chứng tột đỉnh thứ hai xuất hiện. Việc trứng rụng được xác nhận bởi sự thay đổi nhiệt độ tăng cao hơn trong những ngày tiếp đó.
Một điểm phụ được ghi nhận là có rỉ máu vào ngày thứ 18 của chu kỳ. Nếu có rỉ máu, hãy tránh giao hợp cho đến chiều tối ngày thứ tư sau khi rỉ máu, và chiều tối ngày thứ ba mà nhiệt độ gia tăng, tùy theo trạng thái nào xảy ra sau cùng.
Biểu đồ bên dưới cho thấy Ngày Tột Ðỉnh chất nhờn xảy ra muộn và nhiệt độ cơ thể thay đổi sớm. Lằn Phân Ðịnh cho thấy hai mức nhiệt độ thật cách biệt rõ ràng.
Mặc dù không đau ốm nặng, nhiệt độ cũng có thể gia tăng cùng lúc với khi chất nhờn xuất hiện. Khi nhiệt độ gia tăng và kéo dài đến mức cao nhất trước Ngày Tột Ðỉnh, thì hãy coi Ngày Tột Ðỉnh là dấu hiệu xác định giai đoạn không thụ thai được, sau khi trứng rụng.
Trong chu kỳ này, tột đỉnh chất nhờn xảy ra vào ngày thứ 14. Giai đoạn không thể thụ thai được bắt đầu vào chiều tối ngày thứ 18.
Tránh giao hợp và mọi đụng chạm bộ phận sinh dục cho đến chiều tối ngày thứ tư sau Ngày Tột Ðỉnh chất nhờn, hoặc đêm thứ ba mà nhiệt độ gia tăng, tùy theo trạng thái nào xảy ra sau cùng.
Sau khi trứng rụng, giai đoạn không thụ thai được bắt đầu vào chiều tối thứ ba mà nhiệt độ gia tăng, và vào chiều tối thứ tư sau Ngày Tột Ðỉnh.
Biểu đồ bên dưới cho thấy sự thay đổi đặc tính của chất nhờn, Ngày Tột Ðỉnh và sự thay đổi muộn của nhiệt độ cơ thể. Nhưng biểu đồ không cho biết rõ tại sao nhiệt độ lại thay đổi muộn. Biểu đồ này tiêu biểu cho hình thức chất nhờn với các đặc điểm có thể thụ thai được và do đó, chu kỳ này phải được coi là có trứng rụng.
Giai đoạn có thể thụ thai được trong biểu đồ này bắt đầu vào ngày đầu tiên có nước nhờn (trước khi trứng rụng), đó là ngày thứ 11, và chỉ chấm dứt vào chiều tối ngày mà nhiệt độ gia tăng lần thứ ba , đó là ngày thứ 24.
Khi phát hiện sự thay đổi trạng thái chất nhờn và nhiệt độ thay đổi muộn, phải tránh giao hợp và mọi đụng chạm bộ phận sinh dục từ ngày thấy chất nhờn bài tiết cho đến chiều tối ngày thứ tư sau Ngày Tột Ðỉnh chất nhờn, và chiều tối ngày thứ ba, là ngày mà nhiệt độ được ghi nhận gia tăng.
Biểu đồ bên dưới ghi nhận đỉnh nhiệt độ trước thời kỳ trứng rụng là 98 F vào ngày thứ bảy của chu kỳ kinh nguyệt. Sang ngày thứ tám, nhiệt độ trở lại mức bình thường như trước khi trứng rụng.
Vào ngày thứ 13, nhiệt độ tăng lên 97.9 F. Ðể nhận ra sự gia tăng nhiệt độ sau thời kỳ trứng rụng, phải kẻ Lằn Phân Ðịnh ở mức 97.4 F.
Khi dùng Lằn Phân Ðịnh để xác định mức nhiệt độ cao sau khi trứng rụng, phải loại bỏ tất cả nhiệt độ bất thường, nếu biết được lý do đã gây nên sự bất thường ấy.
Ðể đoán biết ngày chấm dứt của giai đoạn không thụ thai trước khi trứng rụng, phải ghi nhận các dấu hiệu và triệu chứng ít nhất trong 6 chu kỳ liên tiếp. Một hồ sơ chính xác của sáu chu kỳ này có thể dùng làm kim chỉ nam cho các chu kỳ tương lai.
Các cách thức ước tính đều hữu ích cho người phụ nữ khi họ gặp khó khăn trong việc xác định chất nhờn cổ tử cung, và cũng có thể được dùng để tính ngày giờ chấm dứt giai đoạn không thể thụ thai ở thời kỳ trước khi trứng rụng.
Cách tính toán sau đây được dựa trên số ngày được coi là sớm nhất của thời kỳ trứng rụng của 6 chu kỳ liên tiếp (16) cộng với thời gian lâu nhất mà tinh trùng còn sống (5).
16 ngày + 5 ngày sinh tồn của tinh trùng = 21
Ðể biết ngày cuối cùng của giai đoạn không thụ thai được, hãy lấy số ngày của chu kỳ ngắn nhất trừ đi 21 .
Thí dụ: Trong 6 chu kỳ kinh nguyệt liên tiếp của cô A., chu kỳ ngắn nhất là 27 ngày. Lấy 27-21 = 6. Ngày 6 là ngày cuối cùng của thời kỳ trước khi trứng rụng mà không thể thụ thai được.
Cách thức tính này không dựa trên các dấu hiệu và triệu chứng của chu kỳ kinh nguyệt hiện tại. Rất có thể trứng rụng sớm hơn. Do đó, nếu phát hiện chất nhờn trước ngày ước tính, hãy tránh giao hợp và mọi đụng chạm bộ phận sinh dục cho đến khi giai đoạn không thụ thai được của thời kỳ sau khi trứng rụng bắt đầu.
Nếu áp dụng phương pháp này để tránh thụ thai, hãy theo các chỉ dẫn sau:
1. Những Ngày Có Kinh: tránh giao hợp khi có kinh và hãy để ý chất nhờn khi kinh sắp dứt.
2. Những Ngày Khô Trước Khi Trứng Rụng: sau khi dứt kinh, những ngày khô trước khi trứng rụng là những ngày không thụ thai được. Khi thấy có chất nhờn, chỉ giao hợp trong những đêm của ngày khô mà thôi, và tránh giao hợp trong những ngày, đêm kế tiếp.
3. Những Ngày Có Chất Nhờn Trước Khi Trứng Rụng: Tất cả những ngày có chất nhờn trước khi trứng rụng được coi là thụ thai được. Tránh giao hợp ngay khi chất nhờn được phát hiện cho đến khi bắt đầu giai đoạn không thể thụ thai được sau thời kỳ trứng rụng.
4. Cách Ước Tính: Khi gặp khó khăn trong việc phát hiện chất nhờn hoặc chu kỳ kinh nguyệt kéo dài bất thường, cách tính sau đây sẽ giúp người phụ nữ ước định ngày cuối cùng của giai đoạn không thể thụ thai được (trước khi trứng rụng). Lấy số ngày của chu kỳ ngắn nhất trong 6 chu kỳ liên tiếp trừ đi 21.
Tránh giao hợp từ sau ngày ước tính này cho đến khi bắt đầu giai đoạn không thụ thai được của thời kỳ sau khi trứng rụng.
5. Ngày Tột Ðỉnh: được mô tả như ngày sau cùng mà chất nhờn tiết ra, lúc ấy chất nhờn trở thành ướt, dẻo và trơn.
6. Nhiệt Ðộ Thay Ðổi Hai Lần: có thể xác định bằng các quan sát sau đây:
a. Nhiệt độ gia tăng 0.4 F trên mức trung bình, được ghi nhận ít nhất 6 lần trong thời kỳ trước khi trứng rụng.
b. Vẽ một Lằn Phân Ðịnh trên mức cao nhất của các nhiệt độ thông thường là 0.1 F.
7. Giai Ðoạn Không Thụ Thai Ðược: thuộc thời kỳ sau khi trứng rụng, bắt đầu sau khi xảy ra các hiện tượng trứng rụng. Tránh giao hợp cho đến chiều tối ngày thứ tư sau Ngày Tột Ðỉnh, hoặc đêm thứ ba mà nhiệt độ gia tăng, tùy theo trạng thái nào xảy ra sau cùng.
Mọi phụ nữ đều khác nhau về hoạt động, cơ năng. Có những ngoại lệ trong các chu kỳ kích thích tố của phụ nữ, cũng như có những khác biệt trong các thời kỳ trứng rụng, sự bài tiết chất nhờn cổ tử cung và trạng thái nhiệt độ căn bản.
Một số phụ nữ dễ có con, có thể trải qua những chu kỳ không có trứng rụng trong những năm dễ thụ thai. Trong chu kỳ không có trứng rụng, họ cảm thấy sự thay đổi chất nhờn cổ tử cung, tùy theo lượng bài tiết của kích thích tố estrogen. Trứng không rụng thường xảy ra trong các trường hợp sau: người phụ nữ trước khi tắt kinh, người mẹ nuôi con bằng sữa mình và người phụ nữ ngưng uống thuốc ngừa thai.
Trong một chu kỳ bình thường, những ngày có kinh được tiếp theo bằng một vài ngày khô trước khi trứng rụng, sự thay đổi chất nhờn có Ngày Tột Ðỉnh, và một loạt ngày khô sau khi trứng rụng. Trong thời gian trước khi trứng rụng, nhiệt độ cơ thể thường thấp. Trong thời gian trứng rụng, nhiệt độ gia tăng và giữ ở mức độ này trong suốt thời gian sau khi trứng rụng.
Trong chu kỳ không có trứng rụng, những ngày có kinh được tiếp theo bởi một vài ngày khô và nhiều ngày có chất nhờn ướt và dính, sau đó là những ngày khoâ. Tuy nhiên, hình thức chất nhờn được ghi nhận là không thụ thai được. Người phụ nữ cảm thấy chất nhờn không thay đổi trong nhiều ngày và mức nhiệt độ cao hơn cũng không ở tại chỗ. Trong những chu kỳ như thế, phải coi những ngày có chất nhờn là ngày dễ thụ thai nhất , và tiếp tục ghi nhận nhiệt độ cơ thể.
Nếu có bất cứ sự thay đổi nào của chất nhờn, dày và dính, dù chỉ một ngày, hãy tránh giao hợp cho đến chiều tối ngày thứ tư sau ngày cuối cùng có chất nhờn.
Trong những ngày khô của thời kỳ trước khi trứng rụng, áp dụng quy luật ngày khô sớm: giao hợp buổi tối ngày khô--tránh giao hợp trong ngày và đêm kế tiếp.
Thời kỳ tắt kinh của người phụ nữ có thể bắt đầu sớm, khoảng 45 tuổi và có thể kéo dài trong nhiều năm. Việc quan sát các biến đổi của chất nhờn cổ tử cung và nhiệt độ cơ thể có thể giúp biết rõ những ngày có thể và không thể thụ thai của chu kỳ kinh nguyệt.
Thường chất nhờn trong thời kỳ trước khi tắt kinh hoặc rất ít, hoặc không thay đổi. Chất nhờn có thể gợn từng miếng nhỏ, đóng cục hoặc dính. Do đó, người phụ nữ không thể thấy chất nhờn thay đổi thành ướt, trơn và dẻo. Ngoài ra, nhiệt độ cơ thể có thể thấp, không lên đến mức cao như khi trứng rụng.
Những ngày khô được xem là không thể thụ thai được. Tránh giao hợp và mọi đụng chạm bộ phận sinh dục trong thời gian ra huyết, rỉ máu hoặc trong bất cứ ngày nào có chất nhờn ướt, dẻo và trơn.
Người phụ nữ nào cảm thấy sự biến chuyển của chất nhờn nhưng không thấy nhiệt độ thay đổi đưa đến sự trứng rụng, thì có thể họ đã bước vào thời kỳ tắt kinh của mình.
Trong thời kỳ trước khi tắt kinh, các dấu hiệu và triệu chứng có thể thụ thai được không xảy ra như trước kia. Tuy nhiên, các buồng trứng thỉnh thoảng tiếp tục bài tiết nhiều lớp estrogen để tạo ra trứng rụng. Trong nhiều chu kỳ, lượng kích thích tố estrogen nhiều đủ để thúc đẩy trứng rụng. Vì vậy, trong bất cứ ngày nào mà người phụ nữ cảm thấy có chất nhờn ướt, dẻo thì ngày ấy có thể thụ thai được. Vì có sự thay đổi của lượng estrogen, nhiều giai đoạn ra huyết có thể xảy ra. Ðể tránh thụ thai, người phụ nữ trong thời kỳ trước khi tắt kinh nên áp dụng các nguyên tắc sau:
a. Nếu có bất cứ sự thay đổi nào của chất nhờn, dày hoặc dính, dù chỉ một ngày, nên tránh giao hợp và mọi đụng chạm bộ phận sinh dục cho tới chiều tối ngày thứ tư sau ngày cuối cùng có chất nhờn.
b. Nếu cảm thấy chất nhờn ướt, đàn hồi và trơn, phải tránh giao hợp cho tới chiều tối ngày thứ tư sau ngày có triệu chứng chất nhờn.
c. Nếu ra huyết hoặc rỉ máu phải tránh giao hợp và mọi đụng chạm bộ phận sinh dục cho tới chiều tối ngày khô thứ tư sau ngày ra huyết hoặc rỉ máu.
d. Chỉ giao hợp trong những đêm của ngày khô mà thôi; tránh giao hợp và mọi đụng chạm bộ phận sinh dục trong những ngày và đêm kế tiếp.
e. Nếu nhiệt độ thay đổi báo hiệu trứng đã rụng, tránh giao hợp và mọi đụng chạm bộ phận sinh dục từ khi thấy chất nhờn thay đổi cho tới tối ngày thứ ba mà nhiệt độ gia tăng liên tiếp và chiều tối ngày thứ tư sau Ngày Tột Ðỉnh chất nhờn.
Khi người mẹ nuôi con hoàn toàn bằng sữa mình, chất nhờn bài tiết ra tùy thuộc vào lượng sữa sản xuất và việc cho con bú có thường xuyên hay không. Thông thường, trong những tháng cho con bú nhiều và sữa mẹ gia tăng, các hạch sản xuất chất nhờn cổ tử cung cũng giảm đi. Nếu người mẹ nuôi con hoàn toàn bằng sữa mình và không cho con ăn thức ăn nào khác, thông thường sự trứng rụng bị tạm ngưng trong một thời gian dài. Việc chất nhờn bài tiết trở lại với những đặc tính thụ thai và sự thay đổi nhiệt độ là tùy theo cá nhân người mẹ.
Trong những tháng nuôi con hoàn toàn bằng sữa mẹ, để tránh thụ thai, người mẹ phải để ý quan sát những thay đổi chất nhờn một cách chính xác. Trong thời gian này, chỉ có một ít ngày người mẹ cảm thấy chất nhờn dính, nhưng thông thường, họ cảm thấy khô khan trong âm hộ thật rõ rệt.
Nếu có bất cứ sự thay đổi nào của trạng thái chất nhờn, dày hoặc dính, dù chỉ một ngày, phải tránh giao hợp và mọi đụng chạm bộ phận sinh dục cho tới chiều tối ngày thứ tư sau ngày cuối cùng có chất nhờn.
Trong những ngày khô của thời kỳ trước khi trứng rụng, hãy áp dụng quy tắc ngày khô sớm: giao hợp buổi tối ngày khô--tránh giao hợp ngày và đêm kế tiếp .
Với việc nuôi con bằng sữa mẹ, không có quy tắc nào có thể áp dụng cho nhiệt độ. Nhiệt độ thường nằm ở mức độ thấp. Có thể gia tăng bất ngờ. Người mẹ có thể thụ thai trở lại khi có sự thay đổi của chất nhờn, ướt và đàn hồi, và có sự gia tăng của nhiệt độ dẫn đến sự trứng rụng. Khi những triệu chứng cho thấy có thể thụ thai trở lại, phải tránh giao hợp và mọi đụng chạm bộ phận sinh dục từ lúc phát hiện các thay đổi của chất nhờn cho tới chiều ngày thứ ba mà nhiệt độ gia tăng liên tiếp và chiều tối ngày thứ tư sau Ngày Tột Ðỉnh chất nhờn.
Sau khi người phụ nữ nuôi con hoàn toàn bằng sữa mẹ và khởi sự cho con ăn thêm thức ăn ngoài, họ được coi là cho con bú dặm. Trẻ con càng ít bú bao nhiêu thì các hạch càng kích thích trứng rụng nhiều bấy nhiêu.
Khi sự kích thích các hạch gia tăng, người mẹ cho con bú dặm bắt đầu cảm thấy những ngày có chất nhờn gia tăng.
Nếu có bất cứ sự thay đổi nào của trạng thái chất nhờn, dày hoặc dính, dù chỉ một ngày, phải tránh giao hợp và mọi đụng chạm bộ phận sinh dục cho tới chiều tối ngày thứ tư sau ngày cuối cùng có chất nhờn.
Người mẹ cho con bú dặm nên áp dụng quy tắc ngày khô trước khi trứng rụng: giao hợp vào đêm của ngày khô--tránh giao hợp ngày và đêm kế tiếp. Người mẹ ấy cũng phải nhận ra được sự bài tiết của chất nhờn với đặc tính có thể thụ thai, là ướt, đàn hồi và trơn.
Dù chỉ một ngày mà chất nhờn trở nên ướt, đàn hồi và trơn, hoặc nếu có huyết, rỉ máu, phải tránh giao hợp cho tới chiều tối ngày thứ tư sau ngày chất nhờn trở nên ướt, trơn hoặc ra huyết.
Người mẹ cho con bú dặm cũng nên tiếp tục quan sát nhiệt độ cơ thể của mình. Nên tránh giao hợp và mọi đụng chạm bộ phận sinh dục từ khi thấy chất nhờn thay đổi cho đến tối ngày thứ ba mà nhiệt độ gia tăng và cho đến chiều tối ngày thứ tư sau Ngày Tột Ðỉnh chất nhờn. Khi chất nhờn ướt, đàn hồi và trơn tiếp theo sự thay đổi nhiệt độ, điều đó xác định rằng thời kỳ trứng rụng có lẽ đã xảy ra.