Tôi không rõ ở Việt Nam có ai mang chức viện mẫu hay không. Viện mẫu dịch từ tiếng La Tinh abbatissa, tiếng Pháp abbesse, tiếng Anh abbess. Và muốn hiểu “viện mẫu” là gì, chúng ta cần phải quy chiếu về một định chế tương đương trong các đan viện, đó là các Viện phụ. Xét về lịch sử, viện phụ có trước viện mẫu.
Ở Việt Nam, dòng Biển đức và dòng Xitô có các viện phụ, vị đứng đầu một đan viện. Dĩ nhiên, người ta có quyền nêu thắc mắc: sao không gọi là viện trưởng (như các tu viện trưởng) mà gọi là viện phụ? Câu trả lời là: tại vì càng ngày chúng ta càng xa tinh thần Phúc Âm, và chỉ chú trọng tới hình thức bên ngoài.
Nói tới các viện phụ, chúng ta liên tưởng đến các vị đeo thánh giá, đội mũ chống gậy giống như các giám mục. Tuy nhiên, vào lúc đầu thì không phải như vậy. Abbas trong tiếng Hy Lạp chỉ có nghĩa là “cha”.
Vào lúc khai nguyên đời đan tu Kitô Giáo bên Ai Cập (hồi thế kỷ IV), các tu sĩ gọi các bậc lão thành là abbas, những người có khả năng dìu dắt trên đường tiến đức. Thiết tưởng có thể ví được như tiếng “sư phụ” bên Đông Phương vậy. Các sư phụ này không có quyền hành gì hết, nhưng họ có đặc sủng dìu dắt môn sinh trên đường tiến đức. Đến khi có đời sống cộng đoàn, ta thấy vai trò của abbas bắt đầu thay đổi.
Abbas không phải chỉ là người hướng dẫn đường tu đức mà còn là người điều khiển cộng đoàn. Dù vậy, trong luật của thánh Biển đức, vai trò dìu dắt về đường tiến đức vẫn được xếp hàng đầu: abbas là người hướng dẫn các đan sinh trong việc tìm ra ý Chúa. Việc quản trị cộng đoàn được ủy thác cho một thủ trưởng (praepositus). Thánh Biển đức không hề mơ ước abbas sẽ mang mũ gậy giống như giám mục.
Nên biết là các abbas (tức là các sư phụ) không phải là linh mục. Thánh Biển đức cũng không phải là một linh mục, cũng như đại đa số các đan sĩ đương thời.
Từ thế kỷ VIII trở đi, số các đan sĩ linh mục càng ngày càng gia tăng vì nhu cầu mục vụ, truyền giáo. Trong bối cảnh đó, abbas cũng là linh mục. Hơn thế nữa, đan viện còn phụ trách mục vụ cho những làng mạc kế cận. Vai trò của abbas không chỉ giới hạn vào việc hướng đẫn tinh thần cho các tu sĩ, mà còn kiêm luôn việc quản trị cộng đoàn đan tu và các giáo xứ.
Quyền hạn của abbas tương đương với giám mục, như trường hợp của các vị abbas nullius (nay được gọi là đan viện tòng thổ). Từ đó, không lạ gì mà các abbas cũng có mũ gậy như giám mục, kể từ thế kỷ IX.
Có chứ. Trên đây, tôi đã nói là vào lúc đầu abbas chỉ có nghĩa là “cha” kiểu như sư phụ, một từ bày tỏ lòng cung kính, chứ chẳng có quyền hành gì hết. Một cách tương tự như vậy, vào lúc đầu, hồi thế kỷ IV, bên Ai Cập, các nữ tu gọi người hướng dẫn là amma, có nghĩa là “má, mẹ”. Khi các bản luật tiếng La Tinh ra đời, thì người đứng đầu các tu viện nữ được gọi là abbatissa, có nghĩa là “nữ abbas”, hay nữ viện phụ. Dịch nôm na là “bà cha”.
Chói tai là điều chắc rồi. Vì thế mà nhiều bản luật không dùng từ abbatissa, thay vào đó là magistra (cô giáo), mater (mẹ), hoặc priora (bà nhất). Tuy tiếng “bà cha” nghe chói tai, nhưng trên thực tế, các bà vẫn thích làm cha.
Còn hơn thế nữa, làm cha ở đây có nghĩa là hành sử quyền bính giống như giám mục và cũng có mũ gậy.
Quyền hành của các viện mẫu tiến triển từng cấp. Lúc đầu, các viện mẫu chỉ là “mẹ và cô giáo” đối với các chị em ở trong đan viện. Nhưng vào thời Trung Cổ, vài đấng nổi hứng lập dòng “kép”, nghĩa là một đan viện nam cạnh một đan viện nữ.
Thông thường, vì bề trên của đan viện nam cũng là bề trên của đan viện nữ; nhưng cũng có luật trừ, đó là bề trên đan viện nữ (viện mẫu) điều khiển cả đan viện nam, như trường hợp xảy ra cho dòng Fontevrault (đầu thế kỷ XI bên Pháp), và dòng Chúa Cứu thế do thánh Brigitta lập hồi thế kỷ XIV.
Trong cả hai trường hợp vừa kể, viện mẫu được coi như biểu tượng của Mẹ Maria, chủ toạ cộng đoàn các môn đệ tại Giêrusalem trong thời gian tĩnh tâm chờ đón Chúa Thánh Thần. Tuy nhiên, đó chỉ là chuyện nội bộ của vài dòng. Trường hợp đáng kể hơn nữa là có các viện mẫu không những chỉ làm bề trên của nam tu sĩ, mà còn hành sử quyền tài phán trên các linh mục, các giáo xứ, giáo dân.
Một trường hợp điển hình là viện mẫu đan viện Xitô ở Las Huelgas (gần Burgos, mạn bắc nước Tây Ban Nha), thành lập năm 1180. Dưới trướng của bà, có 15 nữ đan viện phụ thuộc. Mỗi đan viện phụ thuộc có những cơ sở đồn điền cùng với dân cư, và hàng giáo sĩ lo việc mục vụ. Tất cả các giáo sĩ và giáo dân này đều thuộc quyền tài phán của bà. Nói khác đi, bà là giám mục của họ, với quyền hạn tương tự như các viện phụ tòng thổ.
Không hẳn như vậy, không phải tất cả các viện mẫu đều mang mũ gậy, và không phải tất cả các viện mẫu có mũ gậy cũng đều hành sử quyền hành giám mục.
Thực vậy, những trường hợp viện mẫu hành sử quyền tài phán đã thuộc về quá khứ chứ ngày nay không còn nữa. Còn tục lệ trao mũ gậy cho viện mẫu thì được du nhập hầu như đồng thời với tục lệ dành cho các viện phụ, tuy không được phổ quát cho lắm.
Lễ nghi chúc phong cho viện mẫu thay đổi tùy nơi tùy thời. Thường thì viện mẫu được trao thánh giá đeo trên ngực và chiếc nhẫn. Điều này không có gì khác thường. Đôi khi được trao thêm gậy. Gậy ở đây không có ý nghĩa cai quản như giám mục, nhưng chỉ là tượng trưng của sự sửa bảo cũng như sự tận tâm với chức vụ. Còn mũ miện thì đã bị cấm sử dụng từ thời Trung Cổ.
Ngày nay, rất ít viện mẫu sử dụng mũ gậy. Có hai lý do giải thích hiện tượng này.
Lý do thứ nhất, vì người ta muốn trở về với tinh thần đơn sơ của buổi đầu thời đan tu, khi mà như đã nói trên đây, thánh Biển đức không biết đến mũ gậy. Vai trò của abbas hay abbatissa không phải hành sử quyền bính địa vị, nhưng tiên vàn là sư phụ, nghĩa là thầy dạy dỗ về đường tiến đức.
Lý do thứ hai, chức vụ viện mẫu không phải chỉ dành cho Dòng Biển đức hay Xitô mà thôi, nhưng còn cho nhiều dòng khác nữa. Thực vậy, trong khi mà dòng nam giới được thành lập từ thế kỷ XIII về sau (chẳng hạn như dòng Đaminh, dòng Phansinh) đã loại bỏ chức vụ viện phụ (bề trên được gọi là anh nhất, prior; hay phục vụ viên, minister), thì các dòng nữ vẫn còn giữ tước hiệu abbatissa.
Trường hợp điển hình là dòng Clara. Như vừa nói, trong dòng Phansinh, chức vụ viện phụ abbas không còn nữa; nhưng trong dòng thánh Clara thì bề trên vẫn còn gọi là abbatissa. Điều này không có gì khó hiểu cho lắm. Có lẽ một phần vì lúc đầu dòng nữ Clara còn theo luật Biển đức, mãi sau này mới có luật riêng.
Tuy nhiên, lý do quan trọng hơn là tại vì các dòng nữ vẫn còn duy trì cơ cấu của các đan viện, nghĩa là mỗi nhà là một đơn vị biệt lập, và các nữ tu ở trong nhà kín chứ không nay đây mai đó như các nam tu sĩ. Ngoài dòng thánh Clara, vài dòng nữ Augustinô cũng còn giữ tước hiệu viện mẫu. Có lẽ nguồn gốc do thừa kế cơ cấu các nữ kinh sĩ.
Trong tiếng Việt, kinh sĩ dễ bị hiểu lầm là người chuyên môn đọc kinh. Thực ra đây là dịch không đúng. Trong tiếng Pháp, chanoine có thể hiểu là các giáo sĩ ở nhà thờ chánh toà hát kinh thần vụ, và vì thế gọi là “kinh sĩ”.
Theo nguyên gốc la ngữ, “canonici” là một tính từ được áp dụng vào thời Trung Cổ cho các giáo sĩ tuân giữ một bản luật (canon có nghĩa là lề luật), hiểu ngậm là sống chung với nhau; đối lại với các giáo sĩ sống tư riêng, không khấn giữ một luật. Những người này gọi là saeculares. Dĩ nhiên, đó là nói tới nam giới. Nhưng mà các bà cũng sớm theo gót các ông.
Nhiều thiếu nữ thuộc giới thượng lưu cũng họp thành hội (capitulum) để nguyện kinh chung với nhau, hoặc đối đáp với các canonici. Họ mang danh là canonicae, dịch ra tiếng Pháp là chanoinesse; từ đó có chuyện “nữ kinh sĩ”.
Các canonicae không phải chỉ họp nhau để hát kinh nhưng còn phụ trách việc giáo dục, cách riêng là giới thượng lưu. Tuy nhiên, trong khi mà các canonici (nam giới) sống có lời khấn, và bề trên (là một giáo sĩ) mang tước hiệu abbas (với mũ gậy), thì các canonicae sống với nhau mà không có lời khấn, hoặc chỉ có bà chủ tịch tuyên khấn khiết tịnh mà thôi. Nhưng mà bà cũng thích tước hiệu Viện mẫu.
Đó là nguồn gốc của các nữ kinh sĩ, nhưng mà định chế này đã biến hóa thay đổi rất nhiều. Một thí dụ điển hình là dòng các bà Oiseaux, mang danh là nữ kinh sĩ Augustinô, nhưng ngày nay đã trở thành một Dòng tu, và chẳng còn biết đến chức vụ viện mẫu nữa. Cũng nên biết là ngay một vài ngành của Dòng Biển đức cũng bỏ danh hiệu viện mẫu.
Sư huynh và tu huynh đều bởi một gốc mà ra, đó là dịch bởi danh từ “frère” tiếng Pháp, “brother” tiếng Anh. Tự nó, frère chỉ có nghĩa là anh (hoặc là em), chứ chẳng có dính dáng gì đến chuyện “sư” hay là “tu” hết cả.
Theo tôi nghĩ, có hai lý do để gắn liền “sư” với “huynh”: thứ nhất, bởi vì các tu sĩ dòng Lasan dạy học, cho nên gọi “sư” là phải: sư có nghĩa là thầy giáo (nhất tự vi sư, bán tự vi sư). Nhưng còn lý do thứ hai nữa: truyền thống Việt Nam đã gọi các người đi tu là sư (tựa như bên Phật Giáo), hoặc nói nôm na là “thầy tu”.
Dĩ nhiên, không phải tất cả các nhà sư (hay thầy tu đều mở trường dạy học, kiểu như thầy đồ), nhưng “thầy” được dùng theo nghĩa là người trổi vượt về đức hạnh. Trước đây, chúng ta nghe các từ “thầy tu, thầy dòng” khá thông dụng trong giới Công Giáo, thậm chí trường của các sư huynh Lasan được gọi nôm na là “trường các thầy dòng”.
Vừa đúng vừa không đúng. Đúng theo nghĩa vừa giải thích, nghĩa là tục lệ ở Việt Nam vốn trọng các tu sĩ, tôn làm “thầy” hay là “sư”; vì thế sư huynh với tu huynh cũng là một. Tuy nhiên, dưới một khía cạnh khác, thì sư huynh không phải là tu huynh, và thậm chí cả hai từ đó đều không lột được hết tinh thần của nó.
Như đã nói trên đây, tiếng “sư huynh” và “tu huynh” đều là hai kiểu dịch cho cùng một danh từ trong tiếng châu Âu: frater (La Tinh), frère (Pháp), brother (Anh). Những từ này được du nhập vào đời tu trì Kitô Giáo nhằm nêu bật một đặc trưng của đạo, đó là tinh thần huynh đệ trong cộng đoàn.
Đúng thế. Việc du nhập tiếng “frater” vào đời tu nhằm phản ứng lại não trạng chuộng địa vị giai cấp trong Hội Thánh. Tiếc rằng tính con người khó sửa cho nên trải qua lịch sử đời tu trì, đã có nhiều đợt du nhập tiếng “frater”. Nhưng sau một thời gian thì đâu lại hoàn đấy, vì thế lại nảy lên một đợt cải tổ khác.
Trong Hội Thánh tiên khởi, các Kitô Hữu gọi nhau là anh em (thí dụ như Tông Đồ Công Vụ 1,15; 10,23; 11,29). Thánh Phaolô chuyên mở đầu và kết thúc các lá thư với lời chào: “anh em thân mến” (fratres). Thế nhưng, dần dần, với sự củng cố hàng phẩm trật, các mối liên hệ cũng thay đổi: thân tình thì đối xử nhau như là cha con; còn nơi bàn giấy thì lại có vẻ như quan với dân.
Nhằm phản ứng lại não trạng đó, khi đời tu trì mới chớm nở, các đan sĩ gọi nhau là anh em, như chúng ta thấy trong cuộc đời thánh Antôn, tổ phụ đời tu hành. Đến khi đời đan tu được củng cố với các bản luật, thì dần dần các sự phân biệt lại nảy ra. Một đàng, người đứng đầu cộng đoàn được gọi là abbas, dịch nôm na là “cha” (hay sư phụ). Mối tương quan giữa abbas với các phần tử được ví như liên hệ cha với các con; tuy vậy, các đan sĩ vẫn gọi nhau là anh em.
Thế nhưng, từ khi con số các tu sĩ chịu chức linh mục tăng lên (nhất là từ thế kỷ X), thì ta thấy nảy ra tựa như là hai giai cấp trong cộng đoàn: các đan sĩ (monaci) có chức linh mục, chiếm đa số, và được gọi là cha; danh từ “fratres” chỉ còn được dùng cho những người không làm linh mục, thường vì ít học. (Những người này cũng còn mang tên là “conversi” nữa).
Sang đến thời Trung Cổ, Thánh Đaminh và Thánh Phanxicô chủ trương trở về với Phúc Âm và nếp sống các tín hữu tiên khởi, dựa theo lời khuyên của Chúa Giêsu: “Các con đừng gọi ai là cha, đừng gọi ai là thầy... bởi vì chỉ có một Cha trên trời, một Thầy; tất cả các con là anh em với nhau” (Mt 23,8). Vì thế các tu sĩ dòng Đaminh và dòng Phansinh được gọi là “fratres” theo ba chiều kích:
1/ Chiều ngang, giữa các tu sĩ với nhau, không có sự phân biệt giai cấp; tất cả đều là anh em với nhau.
2/ Chiều dọc, không có bề trên bề dưới hay là viện phụ; người lãnh đạo được coi là anh cả, anh hai (đại ca: prior).
3/ Đối ngoại, các tu sĩ muốn được các giáo dân đối xử như là anh em.
Danh xưng chính thức của Dòng Đaminh là fratres praedicatores (các anh em giảng viên), và của Dòng Phansinh là fratres minores (các anh em hèn mọn). Khổ nỗi là chẳng bao lâu các tu sĩ này trở thành giáo sĩ, giám mục, giáo hoàng, cho nên cũng nhiễm bệnh say chức tước: cha, đức cha, vân vân. Danh xưng fratres chỉ còn dành cho những tu sĩ nào không chịu chức linh mục, ở Việt Nam quen gọi là các thầy trợ sĩ.
Tóm lại, đúng như chị nói, ở Việt Nam không ai gọi các tu sĩ Đaminh và Phansinh là “các anh”, hay “sư huynh”, “tu huynh”, mặc dù trên giấy tờ họ là fratres. Thế rồi, lịch sử xoay vần như bánh xe, một luồng canh tân khác nổi lên vào thời cận đại.
Một thí dụ điển hình là Thánh Gioan Baptiste de la Salle: người đặt tên cho tu hội là “frères des écoles chrétiennes”, quen gọi là các “sư huynh”. Điều trớ trêu là thánh tổ phụ nhấn mạnh rằng các tu sĩ mang danh là “frères” (các anh), chứ không được gọi là “maitre” (thầy giáo) tuy họ chuyên việc dạy học.
Như vậy dịch “sư huynh” là trái ngược với tinh thần của Thánh Gioan de la Salle. Người muốn các tu sĩ tuân giữ triệt để tinh thần Phúc Âm: tất cả các con là anh em (frère); danh xưng “thầy” (maitre) chỉ dành riêng cho Đức Kitô mà thôi. Và cũng để tránh khỏi rơi vào sự phân biệt giai cấp đã xảy ra trong các dòng cổ, người quyết định rằng các tu sĩ sẽ không chịu chức linh mục: như vậy sẽ không có các “cha” ở trong Dòng, mà chỉ có “frères” mà thôi. Đó cũng là nguồn gốc của các dòng “frères”.
Còn nhiều dòng khác nữa, tuy dòng Lasan nổi tiếng hơn cả. Thậm chí, nhiều khi nói tới “sư huynh” hay “frères” là người ta hiểu ngay là dòng Lasan.
Tại Việt Nam, chúng ta có thể nói tới hai hạng dòng frères, ngoại trừ dòng Lasan.
Thứ nhất, một số dòng được thành lập tại Việt Nam, với mục đích dạy học hay dạy giáo lý. Đó là các dòng Thánh Tâm Huế, dòng thánh Giuse Nha trang, dòng Chúa Kitô Vua ở Cái nhum.
Thứ hai là những dòng từ nước ngoài vào, điển hình là dòng Bệnh viện Thánh Gioan Thiên Chúa. Sinh hoạt của những dòng này thường chỉ giới hạn vào một địa phương, vì thế không được nhiều người biết đến như là Dòng Lasan, trước đây có mặt khắp ba miền Bắc Trung Nam.
Mặt khác, các dòng này không thu hút ơn gọi, bởi vì nhiều người quan niệm rằng đã đi tu thì phải làm linh mục (làm cha) chứ không thể an phận làm “frère”. Như đã nói trên đây, thực khó mà sống ơn gọi là frère, xét về đối nội cũng như đối ngoại. Đối nội, nghĩa là trong lòng cộng đoàn, Thánh Đaminh, thánh Phansinh, Thánh Gioan Lasan muốn rằng tất cả các tu sĩ đối xử với nhau như anh em, không phân biệt giai cấp ngôi thứ. Đối ngoại, các vị cũng muốn rằng các tu sĩ cũng hãy đ ối xử với các tín hữu như các anh em, cho dù mình là thầy giáo.
Tôi nghĩ có hai điểm không đúng. Một, như vừa nói, các vị thánh lập dòng không muốn cho các tu sĩ mang danh là thầy giáo (maitre). Hai, frère không phải chỉ là anh mà còn là em nữa. Như chị biết, “huynh” có nghĩa là anh, còn “đệ” là em. Dĩ nhiên, đây là sự phân biệt của văn hóa Đông Phương, chứ bên Âu Tây không có sự phân biệt đó.
Tuy nhiên, vài vị lập dòng cũng ý thức mối nguy cơ là các tu sĩ muốn tỏ ra bậc anh chị đối với thiên hạ, cho nên đã phải thêm vào một tính từ “petit frères”, được dịch là “tiểu đệ” (Nói nôm na là “em nhỏ”). Danh xưng này muốn diễn tả thái độ khiêm tốn không những trước mặt Thiên Chúa đã đành, mà còn trước mặt các phần tử trong cộng đoàn, và nhất là trước mặt người ngoài đời. Chị cứ tưởng tượng coi, gọi các tu sĩ linh mục từ “cha” xuống “thầy” đã khó rồi, huống hồ là gọi bằng “anh”, và tệ hơn nữa, giáng xuống làm “em”!
Có phần đúng. Và ngay từ Phúc Âm, Chúa Giêsu đã cảnh cáo não trạng này rồi, thí dụ Mt 20,24-28; 23,8-12. Tuy nhiên, không phải chỉ có nam giới mới mắc bệnh này, mà các bà cũng thế thôi.
Chị biết trong tiếng Âu Châu, frère là anh em, và soeur là chị em. Trong lịch sử các dòng tu, khi các vị lập dòng nam muốn cho các tu sĩ gọi nhau là frater (frère), thì một phong trào tương tự cũng xảy ra bên nữ giới: các nữ tu gọi nhau là soror (soeur).
Danh từ này muốn phản ứng lại tập tục đan tu, nơi mà bề trên mang danh hiệu là “viện mẫu” (abbatissa), nói nôm na là “mẹ”. Thế nhưng dần dần, các nữ đan tu cũng được tặng chức “mẹ” tuy không phải là bề trên hay lão thành. Đây là sự đua đòi với nam giới, từ khi các đan sĩ chịu chức linh mục và được gọi là “cha”.
Vì muốn trở về với tinh thần Phúc âm, nhiều vị lập dòng quyết định loại trừ tiếng “mẹ” ra khỏi ngôn ngữ cộng đoàn. Các nữ tu gọi nhau là “sorores”, chị em; người lãnh đạo là “chị nhất” chứ không phải là “mẹ bề trên”. Thế nhưng, thực tế như thế nào thì chị đã biết rồi. Và đến khi chuyển dịch sang Việt ngữ, nhiều người thích gọi là “xơ” hơn là “chị”, và thử hỏi ai dám gọi họ là “em”?
Một cách tương tự như vậy, dòng “petite soeur” được dịch nho nhã là “tiểu muội”, bởi vì đâu ai muốn bị đối xử như là những em gái nhỏ đâu? Tóm lại, sống cho trọn tinh thần Phúc Âm không phải là chuyện dễ, dù là nam giới hay nữ giới.
Chắc rằng khi dặn các môn đệ đừng có gọi ai dưới đất là “cha”, Chúa Giêsu không hề có ý bảo họ về nhà hãy gọi ông thân sinh là “đồng chí” thay vì gọi là cha! Khi đọc Phúc Âm, chúng ta thấy rằng Đức Giêsu đã muốn dành riêng tiếng “Cha” cho Thiên Chúa. Lý do không những bởi vì đây là một hình ảnh mới mẻ về Thiên Chúa mà Đức Giêsu mặc khải cho nhân loại (Thiên Chúa là Cha gần gũi với chúng ta, chứ không phải là Thượng Đế Ngọc hoàng ở trên chín tầng mây), mà còn vì Đức Giêsu muốn bộc lộ một mối tương quan độc đáo của mình đối với Thiên Chúa, mà Người gọi là “Abba”.
Chúng ta hãy nhớ lại cảnh Đức Maria tìm được con mình ở đền thờ sau 3 ngày thất lạc. Bà mẹ ra như trách móc: “Tại sao con lại làm như vậy? Con không biết là cha và mẹ phải hốt hoảng tìm con hay sao?” Thế nhưng thay vì hối hận xin lỗi, Đức Giêsu đã nhắn khéo bà mẹ rằng mình đang lo chuyện của Cha đấy chứ. Ông Giuse đâu có phải là cha! Vì lý do đó, không lạ gì mà Đức Giêsu rất cẩn trọng mỗi khi dùng tiếng “cha”. Từ này có ý nghĩa quá đặc biệt đối với Người, bởi vậy đừng nên sử dụng bừa bãi.
Thực ra thì trong ngôn ngữ hàng ngày, tiếng “cha” có thể mang nhiều ý nghĩa khác nhau. Tôi chỉ xin lấy một thí dụ qua những sự gán ghép từ ngữ trong tiếng Việt. Tuy cùng bởi một gốc là “cha”, nhưng mà khi nghe nói tới “cha ông” (chẳng hạn truyền thống cha ông) thì “cha” mang ý nghĩa tốt đẹp; còn khi ghép “cha” với ”chú” (cha chú), thì nó đã mang nghĩa xấu rồi; và thậm chí có nơi dùng tiếng “thằng cha” với giọng rất là khinh bỉ.
Do đó, có thể nói được rằng người ta có thể sẵn sàng gọi các linh mục là cha nếu họ có tư cách giống như thân sinh của ta; nhưng chắc chắn là không ai muốn thấy các linh mục cư xử kiểu cha chú, bởi vì rõ ràng là trái ngược với Phúc Âm.
Tuy nhiên, thay vì đào sâu vào khía cạnh ngôn ngữ học, chúng ta hãy tìm hiểu lịch sử của việc dùng từ “cha” trong Giáo Hội. Như chị đã biết, không phải chỉ có tại Việt Nam, các linh mục mới được gọi là cha, nhưng đây là một tục lệ có trong tất cả các ngôn ngữ: Père (tiếng Pháp), Father (tiếng Anh), Padre (tiếng Tây Ban Nha, Italia, Bồ Đào Nha).
Có thể nói được là nó bắt đầu từ Thánh Phaolô. Trong các thư gửi các tín hữu, Thánh Phaolô đã gọi họ là “anh em” (hay là để khỏi mất lòng các bà, ta có thể tán thêm “anh chị em thân mến”).
Chúng ta có thể mở thư gửi Rôma (chương 1 câu 13) thì thấy. Thế nhưng hơn một lần Thánh Phaolô đã gọi các tín hữu là con cái (Gl 4,19; 2 Cr 6,13), và ví mình như là cha của họ (1Cr 4,15). Lý do là vì nhờ việc rao giảng Tin Mừng, người đã giúp cho các tín hữu tái sinh vào đời sống mới. Thánh Phaolô đã ví những lao nhọc trong công cuộc tông đồ như những đau khổ cực nhọc của cha mẹ trong việc sinh thành dưỡng dục con cái.
Thực ra thì đây không phải là điều gì mới lạ trong lịch sử. Tục lệ Do Thái đã gọi các ông thầy của mình là cha (kiểu như “sư phụ” bên Đông Phương của ta), thí dụ như ông Êlisêu đã kêu ông Êlia, thầy của mình, là “cha” (sách Các Vua, quyển 2, chương 2 câu 12).
Hơn thế nữa, người Do Thái còn dùng tiếng cha không những trong tương quan cá nhân (kẻ đã sinh ra hay là đã dưỡng dục mình) mà còn trong tương quan của cả dân tộc, (tương tự như người Việt đôi khi nói đến “cha già của dân tộc”); đó là khi họ gọi Abraham là cha của Israel, không phải cha về đàng huyết nhục cho bằng cha về đức tin. Kiểu nói này còn phản ánh trong Phúc Âm theo Thánh Gioan chương 8, câu 39.
Như đã nói trên đây, tuy Chúa Giêsu đã muốn dành tiếng “Cha” cho Thiên Chúa nhưng Người không hề dạy các môn đệ hãy tước quyền làm cha của các thân sinh của mình! Một cách tương tự như vậy, qua lối nói của Thánh Phaolô, ta có thể nhận ra được rằng các Kitô Hữu đầu tiên cũng gọi các thầy dạy của mình là cha, nhất là khi nói tới những ông thầy không dạy chữ nghĩa văn tự cho bằng dạy đạo lý đức tin, những ông thầy giúp cho mình được tái sinh vào đời sống ơn nghĩa Chúa.
Đúng thế. Tuy vậy cũng nên biết là trong lịch sử Giáo Hội, tiếng “cha” không phải chỉ dành riêng cho các linh mục. Tiên vàn, có nơi đã gọi Đức Kitô là “cha” bởi vì Người là thầy bậc nhất của chúng ta. Nhưng mà tục lệ này không được phổ biến cho lắm, bởi vì trong kinh nguyện phụng vụ, tiếng Cha đã được dành cho Thiên Chúa Cha rồi.
Trong số các phần tử của Giáo Hội, tiếng “cha” được dành cách riêng cho các giám mục. Trên đây tôi có nói đến từ ngữ “cha của dân tộc” theo tục lệ Do Thái. Các Kitô Hữu ở các thế kỷ đầu tiên ra như cũng muốn tiếp tục truyền thống đó. Đối với cộng đoàn Kitô Hữu, ai đáng được liệt vào hàng “cha của dân tộc”? Thưa rằng các giám mục khi phải bảo vệ đạo lý đức tin của Giáo Hội. Từ đó, văn chương Kitô Giáo nói tới hai loại cha: các “giáo phụ” và các “nghị phụ”.
Trong nguyên gốc La Tinh, “giáo phụ” có nghĩa là “cha của Giáo Hội” (patres Ecclesiae), còn các “nghị phụ” có nghĩa là “cha của công đồng” (patres conciliares). Cả hai từ có liên lạc mật thiết với nhau. Các giám mục đi họp công đồng được gọi là “nghị phụ” (nghĩa là cha) bởi vì họ là những người đã định nghĩa đạo lý đức tin và đời sống kỷ luật của Giáo Hội, đặc biệt vào các thế kỷ đầu tiên khi mà đức tin bị tấn công về phía các lạc giáo hay người ngoại giáo.
Cũng vì lý do đó mà các đấng được gọi là “Giáo phụ” (cha của Giáo Hội), bởi vì không những các đấng đã đóng vai trò dậy dỗ các tín hữu nhưng mà các đấng còn là những chứng nhân đức tin của những thế hệ đầu tiên. Vì thế có thể ví như những “cha ông” khai sơn lập quốc của Kitô Giáo, những kẻ gầy dựng truyền thống Kitô Giáo.
Đúng thế. Duy có điều là nhiều khi chúng ta dùng danh từ “phụ” của Hán ngữ cho nên không thấy sự liên hệ tư tưởng. Chẳng hạn chúng ta quen với tiếng “giáo phụ” mà quên rằng nó có nghĩa là “cha của Giáo Hội”.
Trước khi áp dụng tiếng “tổ phụ” cho những vị sáng lập các Dòng tu, văn chương Kitô Giáo đã áp dụng nó cho những người khai sinh ra nếp sống tu trì trong Giáo Hội.
Vào thế kỷ III-IV, một số Kitô Hữu đã rút lui vào sa mạc đồng hoang để sống đời cô tịch, khởi sự cho nếp sống đan tu trong Giáo Hội; những người đó được gọi là các “cha của sa mạc” (pères du désert). Trong khung cảnh đó mà ta thấy xuất hiện các “cha linh hướng”, tức là những đạo sĩ già dặn kinh nghiệm có khả năng hướng dẫn người khác trên đường tiến đức. Nên lưu ý là các ”cha linh hướng” không nhất thiết là linh mục, và chúng ta có thể hình dung cả các phụ nữ trong số những người ấy nữa.
Tôi nghĩ như vậy đó. Trên đây tôi đã nhắc tới sự kiện là tại các trường phái ngôn sứ ở Israel, vị lãnh đạo đã được gọi là “cha”, như trường hợp ông Êlisêu kêu ông Êlia. Vì thế chúng ta không lạ gì vị lãnh đạo của một đan viện được gọi là “cha” (abbas). Tiếc rằng từ “abbas” thường được dịch là “viện phụ”, nghe trang trọng quá, khiến chúng ta quên đi nguồn gốc của nó.
Người đứng đầu một đan viện được gọi là cha theo nghĩa tinh thần, bởi vì người đã từng trải trên đường nhân đức, và có khả năng hướng dẫn anh em mình trên đường tiến đức. Ngoài trách nhiệm lãnh đạo tinh thần, người cũng lo lắng phần vật chất cho các đan sĩ giống như người cha (gia trưởng) lo cơm ăn áo mặc cho con cái.
Một lần nữa, cần lưu ý là các “viện phụ” (abbas, cha của đan viện) không hẳn là linh mục. Nếu là nữ giới, thì người ta sẽ gọi là “mẹ”. Từ chỗ gọi người đứng đầu một đan viện là “cha”, sang tới chỗ gọi người sáng lập một Dòng tu là “tổ phụ” bước tiến không xa lắm. “Tổ phụ” chung quy cũng là “cha” thôi! Có điều là đôi khi từ “tổ phụ” được sử dụng hơi bừa bãi. Trước đây, vị lập dòng được tôn làm tổ phụ khi họ đã làm thánh, quen gọi là “cha thánh”. Còn ngày nay chỉ cần quy tụ được dăm ba môn đệ thì đã thành tổ phụ, khi mà chưa dám chắc là cái tổ chức này sẽ bền bỉ được bao lâu!