Nên biết rằng chế độ hình luật nào cũng có các biện pháp trừng trị khác nhau dành cho những ai vi phạm luật lệ. Có thứ tội nặng thì bị tuyên án phát lưu hoặc khổ sai; có thứ tội nhẹ thì chỉ bị cảnh cáo hay là bắt học tập.
Theo một nghĩa rộng, thì nói được rằng các tu viện đều là nhà tù cải tạo, một đàng theo nghĩa là ai đã vào đấy thì phải chịu hạn chế một phần tự do, không thể tự do ra vào lúc nào tùy ý; và đàng khác, các tu sĩ đã chấp nhận sự hạn chế đó là vì họ cảm thấy mình có nhiều khuyết điểm, cần được sửa chữa rèn luyện.
Như vậy hiểu theo nghĩa rộng thì quả thực ta có thể nhại câu Kiều rằng “chữ tù liền với chữ tu một vần”. Nhưng mà ngoài nhà tù hiểu theo nghĩa rộng, lại còn nhà tù theo nghĩa hẹp, nghĩa là nơi giam giữ những tu sĩ cứng đầu cứng cổ nữa. Tôi xin xác nhận rằng trong các tu viện có nhà tù theo nghĩa hẹp.
May thay, chế độ nhà tù trong các tu viện đã bị bãi bỏ từ lâu rồi, cho nên bộ Giáo Luật hiện hành không có khoản nào nhắc tới nó nữa. Duy ở đ.1337 khoản 2 đả động xa xa tới một biện pháp thịnh hành trong quá khứ, đó là đức giám mục có thể gửi một giáo sĩ nào phạm lỗi phải đi cấm phòng ở một tu viện; tu viện có thể ví như nơi để cải tạo các giáo sĩ phạm lỗi. Dù sao, việc đi lùi lại thời gian để tìm hiểu lịch sử của các nhà tù trong các nhà tu không phải là chuyện thừa.
Các nhà tù không thành hình một sớm một chiều, cũng như không tan biến một sớm một chiều. Xét về sự thành hình, thì người ta ghi nhận những bước tiến như thế này. Trước hết, chúng ta phải chấp nhận rằng không phải hết những ai đi tu thì đều đã nên lành thánh. Có thể nói ngược lại: nếu ai đã là thánh nhân rồi, thì đâu cần phải tu luyện làm chi nữa!
Mặt khác, trong lịch sử Kitô Giáo, những hình thức tu trì tiên khởi là các ẩn sĩ ở bên Ai Cập và Syria, rồi dần dần hình thức cộng đoàn mới xuất hiện. Không rõ các ẩn sĩ tiên khởi xuất thân từ thành phần nào trong xã hội, nhưng một điều chắc là họ hành hạ thân xác dữ lắm để mà làm việc đền tội. Thí dụ như tránh không tiếp xúc với ai, ăn chay phạt xác, xiềng mình vào cái cột vv. Về sau, những hình thức hãm mình ấy được tiếp tục duy trì trong các bộ luật dòng, vừa mang tính cách khổ chế vừa mang tính cách đền tội.
Đúng vậy. Khi các tu sĩ sống thành cộng đoàn, các bộ luật được soạn ra. Trong các bộ luật đó, chúng ta thấy rằng: một đàng tất cả các tu sĩ phải thi hành vài hành vi khổ chế gì đó (thí dụ: ăn chay kiêng thịt, thức khuya dậy sớm, thinh lặng, vv); đàng khác, những chế tài để phạt những tu sĩ sai lỗi cũng là những hành vi mà các người khác đã phải thực hiện rồi nhưng với một mức độ nặng hơn. Tỉ dụ như cả cộng đoàn phải ăn chay nhưng mà mỗi năm chỉ trong mấy ngày hay mấy tháng, còn ai phạm lỗi nặng thì phải ăn chay suốt cả năm hay là suốt mấy năm liền.
Có chứ. Nhưng mà cần phải đi từ từ để tìm ra nguồn ngọn của nó. Như vừa nói, tuy rằng tất cả các tu sĩ đều còn bất toàn, và vì vậy các việc khổ chế nhằm rèn luyện họ để càng ngày càng tới sát lý tưởng hơn; nhưng trong cộng đoàn cũng có một vài phần tử ương ngạnh, cho nên cần phải có biện pháp đối với họ. Dĩ nhiên, những biện pháp trừng phạt có cấp độ nặng nhẹ khác nhau tùy theo mức độ trầm trọng của lỗi phạm.
Có khi hình phạt chỉ là sự cảnh cáo nơi công khai (chừng đó cũng đủ làm cho đương sự xấu hổ vì bị mất mặt trước cộng đoàn). Có cấp độ nặng hơn thì tăng gia các việc khổ chế như vừa nói (thí dụ ăn chay trong thời gian lâu hơn những người khác). Có cấp độ nặng nữa thì bị loại ra khỏi cộng đoàn.
Đời nay thì đúng là như vậy, nhưng mà đời xưa thì không có chuyện tháo lời khấn hay đuổi. Đương sự phải ở lại trong nhà dòng và chịu những hình phạt mà luật đã dự trù. Đối với những tội nặng, thì những bộ luật cổ nói rằng tu sĩ bị “tuyệt thông”, nghĩa là cấm không được lai vãng tiếp xúc với các phần tử khác trong cộng đoàn.
Mức độ tuyệt thông có nhiều cấp độ. Cấp độ nhẹ thì chỉ cấm các phần tử khác không được chuyện trò nói năng với đương sự. Cấp độ kế tiếp là đương sự không được tham gia vào các sinh hoạt của cộng đoàn: thí dụ như phải ăn cơm riêng chứ không ngồi chung với cộng đoàn. Cấp độ thứ ba là phải sống tách rời khỏi cộng đoàn, sống một cái lều hay cái chòi nào đó tuy vẫn trong lãnh thổ của đan viện.
Chúng ta có thể tìm thấy những cấp độ tuyệt thông (tuyệt giao) trong luật của thánh Biển đức, (một bộ luật cổ điển của các đan sĩ Tây Phương viết vào thế kỷ VI), cách riêng ở chương 23. Hình thức tuyệt thông có thể coi như manh nha của các nhà tù về sau.
Thực vậy, khi nghe nói tới nhà tù, chúng ta thường liên tưởng tới xà lim với xiềng xích, hoặc cái nhà có hàng kẽm gai bao vây. Kỳ thực hình khổ chính của nhà tù là bị cắt đứt khỏi xã hội: tù nhân bị cô lập hóa, bị xã hội xa tránh như một thành phần nguy hiểm. Các bộ luật cổ cũng đối xử như vậy với các tu sĩ phạm trọng tội.
Đó là bước thứ nhất trong tiến trình thành hình nhà tù. Như đã nói trên, có nhiều cấp độ tuyệt giao: có khi chỉ là cấm không được chuyện trò; có khi là không được ăn chung; nhưng cũng có khi là sống biệt ra ở một căn nhà khác. Từ cấp độ sống tách biệt, chỉ cần một bước nhỏ nữa là tiến tới nhà tù theo nghĩa chặt.
Trong giai đoạn thứ hai của tiến trình, người tu sĩ phạm tội sẽ bị nhốt trong một phòng (ta tạm gọi là xà lim). Hình thức nhà giam được ấn định tỉ mỉ ở trong luật của thánh Isiđôrô vào đầu thế kỷ VII bên Tây Ban Nha. Việc phân chia cấp độ của các lỗi cũng được hoàn bị hơn, gồm 4 hạng: lỗi nhẹ (culpa levis), lỗi nặng (gravis), lỗi nặng hơn (gravior), lỗi rất nặng (gravissima).
Việc xếp hạng bốn cấp độ các lỗi trở thành cổ điển trong hiến pháp các Dòng tu cho đến Công Đồng Vaticanô II.
Luật thánh Isiđôrô cũng dự trù những biện pháp khác nhau trong thời gian giam tù. Dĩ nhiên, trước tiên tùy theo mức độ nặng nhẹ mà xác định thời gian lâu mau: có thể hai ba ngày, nhưng cũng có thể lên tới 6 tháng.
Trong tù thì việc ăn uống bị hạn chế, tuy rằng không thể nói là bên ngoài anh em ăn ngon hơn! Ngoài chuyện bị thiếu ánh sáng, tù nhân có thể bị xiềng, và bị đánh đòn nữa.
Nãy giờ chúng ta bàn đến nguồn gốc của các nhà tù ở trong các nhà tu tại các đan viện thời cổ. Các nhà tù được coi như biện pháp để sửa trị các tu sĩ phạm lỗi nặng. Sang thời Trung Cổ, định chế nhà tù còn được duy trì trong các quyển hiến pháp của các Dòng. Giáo luật thời đó cũng dự liệu hình phạt tù chung thân cho những tu sĩ bỏ trốn nhà Dòng. Thêm vào đó, những tu sĩ phạm trọng tội cũng có thể được giao cho nhà nước xử lý, nghĩa là bị giam trong các nhà tù của chính quyền.
Vào thời sau công đồng Trentô, (năm 1566) đức giáo hoàng Piô V đã ra lệnh giam những tu sĩ không chấp nhận những sắc lệnh cải tổ mà công đồng đã ra. Điều trớ trêu là Thánh Gioan Thánh Giá (một người chủ trương ủng hộ việc cải tổ) thì lại bị nhóm chống cải tổ bắt nhốt 9 tháng ở Tôlêđô, vì lý do là người đã bỏ nhà dòng ra đi! Thế nhưng chính trong thời gian bị giam oan uổng như vậy mà thánh nhân đã viết những tác phẩm tuyệt nhất về thần bí. Mặt khác, nên biết là thánh Têrêxa trong hiến pháp của Dòng nữ Carmêlô cải tổ vẫn duy trì chế độ nhà giam trong đan viện.
Trong lịch sử, không phải đâu đâu các nhà tu cũng có nhà tù; vả lại tuy rằng các bản luật nói tới nhà tù nhưng không phải lúc nào tiếng nhà tù cũng được hiểu theo nghĩa chặt: đôi khi nó chỉ có nghĩa là sự sống tách biệt khỏi cộng đồng. Dù sao thì các nhà tù trong các nhà tu dần dần biến đi vì nhiều lý do.
(1) Kể từ cách mạng 1789 bên Pháp, nhiều quốc gia không còn nhìn nhận cho Giáo Hội có một chế độ hình luật riêng nữa. Vì thế, chỉ có chính quyền mới có quyền bắt giam xét xử các phạm nhân. Trong bối cảnh này, bề trên nào tống giam tu sĩ trong nhà dòng thì liều mình sẽ bị truy tố trước pháp luật vì tội cưỡng đoạt tự do của người khác cách bất hợp pháp.
(2) Lý do khác nữa là Giáo Luật gần đây đã tỏ ra dễ dãi hơn trong việc chuẩn lời khấn và trục xuất các tu sĩ. Vì vậy, ai không muốn tu nữa thì làm đơn xin về, chứ việc gì mà cứ ở trong nhà dòng phá rối rồi phải chịu hình phạt!
Nói ngược lại cũng đúng: nếu bề trên nào làm mạnh tay quá thì đương sự cũng cuốn gói ra đi, chứ không đời nào cắn răng lãnh hình phạt. Cũng vậy, những ai bướng bỉnh quá thì có thể bị nhà dòng trục xuất. Thời thế đã thay đổi. Không thể nào quan niệm nhà tu như cái nhà tù được nữa: chuyện đi tu có tính cách tự nguyện. Không cần phải đào hào đắp lũy để ngăn các tu sĩ tẩu thoát!
Xét về lý thuyết, thì lời thề hôn nhân và lời thề tu trì không hoàn toàn như nhau. Hôn nhân là một bí tích, còn lời khấn dòng không phải là bí tích. Dây hôn nhân không tháo gỡ được bởi vì đã có lời cấm “sự gì Thiên Chúa đã liên kết thì con người không thể tách ly”.
Vả lại, dây hôn phối có ảnh hưởng đến định chế gia đình, việc giáo dục con cái; nếu gia đình lỏng lẻo thì xã hội cũng chịu ảnh hưởng theo. Nhưng đó là lý luận trên lý thuyết, chứ trên thực tế đời hôn nhân và đời tu trì có rất nhiều điểm giống nhau. Cả đôi bên đều dựa trên sự tín trung của lời hứa. Khi đã cam kết với ai suốt đời thì phải cương quyết thi hành bằng bất cứ giá nào.
Hơn thế nữa, nếu xét về phía người nhận lời thề hứa, thì phải nói rằng nếu mình đã hứa với Chúa thì chỉ có Chúa mới tha được, còn nếu mình hứa với người khác thì chỉ cần người này đồng ý xí xóa là đủ rồi.
Thực ra, khi bàn đến tới việc tháo lời khấn hay tháo dây hôn phối, Giáo Hội không phải chỉ để ý tới những yêu sách thần học mà còn phải lưu ý tới các khía cạnh thực tiễn nữa.
Thí dụ như trường hợp một tu sĩ cảm thấy rằng mình mất ơn kêu gọi. Trường hợp này cần được xét tới dưới nhiều góc cạnh, tư và công. Bởi đâu mà anh ta đã mất ơn gọi, và những hậu quả của việc mất ơn kêu gọi đối với phần rỗi đời đời là một chuyện tư giữa lương tâm của anh ta với Thiên Chúa.
Nhưng giả như anh ta quấy rối trong cộng đoàn, bê bối trong lời khấn khiết tịnh, phung phá tiền bạc, gây ra gương mù gương xấu cho các tín hữu và người ngoại đạo... thì lại là một chuyện có ảnh hưởng tới công ích của Giáo Hội. Vì vậy mà cần phải tìm ra một biện pháp để giải quyết song luận: hoặc là cương quyết bắt buộc anh ta ở lại trong nhà dòng, và cộng đoàn cắn răng nghe thiên hạ chửi bới; hoặc là tháo lời khấn để cho anh ta ra đi cho đỡ gương mù. Phải chọn đường nào?
Ta cũng có thể nói cách tương tự như vậy đối với các đôi hôn nhân: hoặc là phải duy trì hôn nhân bằng mọi giá, kể cả việc vợ chồng đập lộn chửi bới nhau trước mặt con cái? Hay là tìm cách để cho mỗi người đi một ngả để cho yên thân mình và hàng xóm cũng không bị quấy rầy?
Đối với các đôi hôn nhân tan vỡ, thì tuy rằng Giáo Hội không chấp nhận cho ly dị, nhưng mà Giáo Luật đã có nhiều giải pháp điều trị từ việc xin ly thân, cho tới việc xin tuyên bố giá thú vô hiệu, hoặc xin miễn chuẩn hôn nhân bất hoàn hợp. Xét vì vấn đề hôn nhân quá rộng lớn và không thể đề cập ở đây, tôi chỉ xin giới hạn vào việc chuẩn lời khấn Dòng.
Khi nói tới lời khấn nói chung, Thánh Tôma Aquinô đã nghĩ rằng lời khấn với Chúa có thể chước được. Thánh Tôma lý luận như thế này: khi khấn với Chúa, con người nhằm tới một điều nào toàn thiện hơn. Tuy nhiên, có khi một điều lúc này là tốt nhưng mà vì thay đổi hoàn cảnh thì không còn tốt nữa; vì thế mà có thể xin chuẩn.
Thí dụ việc ăn chay đền tội là việc tốt. Tuy nhiên, nếu vì ăn chay mà sức khỏe suy nhược đến nỗi không còn đủ sức để thi hành các bổn phận nữa thì việc ăn chay không còn là điều tốt. Vì thế, cần phải xin chuẩn việc ăn chay để nhằm đạt tới điều tốt hơn, tức là sức khoẻ để phục vụ.
Nhưng đó là nói về lời khấn nói chung; đến khi sang tới lời khấn khiết tịnh trong các Dòng tu, thì Thánh Tôma tỏ ra ngặt nghèo. Người cho rằng lời khấn trọng thể có hiệu lực như việc cung hiến một nhà thờ hay một chén thánh vậy. Do lời khấn, tu sĩ đã được thánh hiến nghĩa là trở thành đồ thánh cho nên không thể nào biến ngược lại thành đồ phàm tục được nữa. Vì lý do đó, Thánh Tôma nói rằng kể cả Tòa Thánh cũng không thể chuẩn lời khấn trọng thể khiết tịnh (Summa Theolica II-II, q.88, a.11).
Chị nên biết là Thánh Tôma viết những dòng vừa trích vào lúc mà Giáo Luật đã bắt đầu cho phép tháo lời khấn. Nói cách khác, Thánh Tôma đã không đồng ý với Giáo Luật, dù rằng tác giả của luật là chính Đức Giáo Hoàng Innôcentê III. Dù sao Tòa Thánh cũng nể ý kiến của Thánh Tôma, và vì thế các nhà Giáo Luật đã tìm cách để xoay ngược vấn đề.
Thánh Tôma đã ví việc khấn dòng như sự cung hiến nhà thờ, nghĩa là biến thành đồ thánh. Các nhà Giáo Luật lại dùng một thứ so sánh khác. Đành rằng Giáo Hội không thể tuyên bố biến cải nhà thờ thành nơi phàm tục nhưng mà Giáo Hội có thể cho phép sử dụng nó vào những mục tiêu khác.
Một cách tương tự như vậy, tuy rằng tu sĩ đã được thánh hiến cho Chúa rồi nhưng mà Giáo Hội có thể cho phép đình chỉ vài công hiệu của việc thánh hiến, kiểu như thay thế vào việc lành nào khác. Thực ra, tuy dù Tòa Thánh có quyền tháo lời khấn Dòng, nhưng cho tới mãi gần đây, ít khi mà đặc ân ấy được cấp ban.
Nếu gặp trường hợp phần tử nào ương ngạnh hoặc không thể tiếp tục đời sống trong tu viện, thì Tòa Thánh cho phép sống ở ngoài nhà Dòng nhưng không được phép lập gia đình. Nói cách khác, trước đây Tòa Thánh chỉ chuẩn lời khấn vâng lời và khó nghèo chứ không chuẩn lời khấn khiết tịnh.
Nói rằng việc tháo lời khấn trở nên dễ dàng hơn thì không đúng cho lắm. Vào thời Trung Cổ, hầu hết các Dòng tu đều chỉ tuân giữ một loại lời khấn, tức là khấn trọng, liền sau khi mãn năm tập.
Vào thời cận đại, người ta bắt đầu du nhập nhiều loại lời khấn Dòng: nào là khấn tạm thời và khấn trọn đời; nào là khấn đơn và khấn trọng; nào là Dòng giáo phận và Dòng Giáo hoàng. Tất cả đều là lời khấn Dòng, nhưng có những cấp độ, đó là chưa kể sự kiện nhiều Tu hội (chẳng hạn các Tu đoàn tông đồ hay tu hội đời) tuyên bố chỉ có lời khấn tư hay lời thề mà thôi.
Dĩ nhiên, nếu ai chỉ mới khấn tạm thời, thì đương sự ráng kiên nhẫn chờ đợi tới khi nào hết hạn (cùng lắm là 3 năm) thì ra đi, chẳng có áy náy gì. Nếu bất đắc dĩ phải xin chuẩn thì tương đối cũng dễ, nhất là nếu ở trong Dòng giáo phận.
Tuy nhiên, cũng nên biết là trong quá khứ, không thiếu lần chính các Bề trên đã đến xin Tòa Thánh dành độc quyền trong việc tháo lời khấn, vì e rằng các giám mục mà rộng tay quá thì tương lai sống còn của Dòng sẽ bị đe doạ.
Không đúng như vậy. Nếu đọc lại bộ Giáo Luật, số 691, thì sẽ thấy rằng nhà lập pháp không hề tỏ ý dễ dãi để chuẩn lời khấn. Lối hành văn cho thấy rằng đây là một chuyện hết sức bất đắc dĩ: “ai đã khấn vĩnh viễn thì không được xin đặc quyền ra khỏi dòng khi không có lý do rất trầm trọng đã suy xét trước mặt Chúa”.
Thông thường thì một lý do chính đáng đã đủ để xin miễn chuẩn việc giữ luật. Nhưng đối với việc xin tháo lời khấn, thì luật đòi hỏi phải có lý do “rất trầm trọng” (nghĩa là còn hơn lý do trầm trọng nữa).
Những lý do được viện dẫn để xin tháo lời khấn thì thiên hình vạn trạng. Nói chung gọi là “rất trầm trọng” khi mà đương sự xét rằng mình không thể nào chu toàn được các lời khấn được nữa, đến độ mà việc giữ lời khấn đưa đến tình trạng tội lỗi (nguy hiểm cho phần rỗi) thay vì giúp cho mình nên trọn lành. Vì thế đương sự cảm thấy rằng cần phải xin tháo lời khấn.
Dĩ nhiên, đây chỉ là một nhận xét rất tổng quát. Thực tế cho thấy có nhiều hoàn cảnh phức tạp hơn nhiều. Có người xin tháo lời khấn bởi vì họ đã chọn lầm đường: đương sự và các bề trên đã không nhận định chính xác về ơn kêu gọi của họ. Có người xin tháo lời khấn vì muốn thử nghiệm một phương pháp làm việc tông đồ mới, nhưng mà phương pháp này không phù hợp với ơn gọi của Dòng mà họ đã gia nhập.
Ta có thể nói rằng trách nhiệm luân lý trong những trường hợp này thì khác với trách nhiệm của những phần tử sống bê bối, vô kỷ luật, dần dần đi tới sự sa sút. Gặp trường hợp này, đôi khi chính bề trên khuyên họ hãy xin tháo lời khấn vì ích lợi bản thân và cộng đoàn, để tránh khỏi dùng biện pháp mạnh là trục xuất.
Khi phải cân nhắc tính cách trầm trọng của các lý do xin tháo lời khấn, thì chính đương sự là người đầu tiên lãnh trách nhiệm. Kế đó, là bề trên Dòng, sau khi đã bàn hỏi với những người liên hệ. Giáo quyền thường chỉ duyệt lại xem các thủ tục pháp lý có được tuân hành chu đáo hay không, chứ ít khi đi vào nội dung của các lý lẽ viện dẫn.
Việc chước chuẩn về phía nhà chức trách Giáo Hội đại khái tương đương với lời tuyên bố như sau: “Nếu quả thực, trước mặt lương tâm và Thiên Chúa, là con không có khả năng để tuân giữ các lời khấn, thì Giáo Hội tuyên bố rằng con không buộc phải tuân giữ nữa”.
Dù vậy, nên biết rằng sau khi đã nhận được đặc ân chước chuẩn của giáo quyền, tu sĩ vẫn còn tự do để khước từ không ký vào phúc nghị. Như vậy, phúc nghị sẽ không có hiệu lực gì, và tu sĩ tiếp tục đời tu như trước (đ.692 của bộ Giáo Luật).