Chúng ta nên phân biệt hai vấn đề. Thứ nhất: lời khuyên Phúc Âm là gì? Thứ hai: có bao nhiêu lời khuyên Phúc Âm? Vấn đề thứ hai tùy thuộc vấn đề thứ nhất.
Câu hỏi thứ nhất: lời khuyên Phúc Âm là gì?
Có ít là hai lối giải thích: (1) một lối giải thích khá quen thuộc là sự phân biệt giữa “lời truyền” và “lời khuyên”. Theo lối giải thích này, trong Phúc Âm chúng ta đọc thấy nhiều điều mà Chúa truyền buộc phải giữ (chẳng hạn như mười điều răn); nhưng bên cạnh đó, còn nhiều điều khuyên, nghĩa là khuyến khích thực hành, để trở nên tốt hơn.
Nền tảng của sự phân biệt này có thể tìm thấy nơi trình thuật của Phúc Âm nhất lãm về cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu với một thanh niên. Anh ta hỏi Người: Thưa thầy, tôi phải làm điều gì để được vào Nước Trời? Chúa trả lời: Hãy giữ các điều răn (tức là luật truyền). Anh tiếp thêm: tôi đã tuân giữ tất cả từ hồi còn nhỏ. Chúa liền nói: Còn thiếu một điều nữa; anh về bán hết gia tài, phân phát cho người nghèo, rồi đến đây theo tôi. (Mt 19,16-22 và song song).
Theo lối giải thích cổ truyền, thì trong câu chuyện này, ta thấy có hai cấp độ: cấp một là giữ các giới răn; đây là điều kiện thiết yếu để được vào Nước Trời; cấp thứ hai là từ bỏ tài sản để đi theo Chúa. Điều này Chúa không buộc nhưng chỉ khuyên thôi. Chàng thanh niên đó không đáp lời khuyên đó (và có lẽ làm cho Chúa buồn) nhưng mà điều đó không phương hại đến phần rỗi.
(2) Tuy nhiên, ngoài lối giải thích vừa kể (phân biệt lời truyền với lời khuyên), còn có một lối giải thích khác về ý nghĩa của từ ngữ “lời khuyên Phúc Âm”, đó là: tất cả Phúc Âm đều là lời khuyên hết. Theo nghĩa này, lời khuyên không phải đối chọi với lời truyền cho bằng lời mời yêu thương nhắm tới bạn hữu.
Những người chủ trương ý kiến này muốn nêu bật sự khác biệt giữa hai chế độ Cựu Ước và Tân Ước. Trong Cựu Ước, ta gặp thấy rất nhiều giới luật: ai tuân hành luật Chúa thì sẽ được thưởng, còn ai lỗi luật thì bị luận phạt. Mối tương quan giữa con người với Thiên Chúa ra như dựa trên sự công bằng pháp luật.
Còn trong Tân Ước, Đức Kitô muốn đi xa hơn. Người cho thấy rằng trọng tâm của hết mọi luật lệ là tình yêu thương; và rồi từ chỗ yêu thương, Người mời gọi hết mọi người hãy tiến xa luôn mãi, cho đến mức trọn lành giống như Cha trên trời. Đức Giêsu muốn đánh vào con tim của mỗi người, yêu cầu họ hãy vượt lên não trạng ba cọc ba đồng, ngõ hầu trao phó toàn cuộc đời cho tình yêu Chúa.
Nếu hiểu theo nghĩa thứ hai, thì không thể nào đếm xuể hết các lời khuyên, hay nói đúng hơn, toàn thể Phúc Âm chứa đựng một lời khuyên tổng quát, đó là hãy yêu mến Chúa hết lòng. Còn hiểu theo nghĩa thứ nhất, (lời khuyên đối lại với lời truyền) thì con số có thể đếm được trên đầu ngón tay, tuy dù có sự tiến triển không nhỏ trải qua lịch sử Giáo Hội.
Ngay từ thế kỷ III, ông Origène đã bắt đầu vạch ra một số lời khuyên trong Phúc Âm nhằm giúp tín hữu đặt tới sự trọn
lành, đặc biệt là 6 lời khuyên sau đây:
1/ từ bỏ tài sản, dựa theo Mt 19,21: “Nếu anh muốn nên trọn lành, thì hãy bán hết những gì anh có và phân phát cho người nghèo.. rồi đến đây, đi theo tôi”.
2/ sống độc thân. Lời khuyên này được nói ở Mt 19, 11-12, nhưng được phát biểu rõ hơn nữa ở thư thứ nhất Thánh Phaolô gửi giáo đoàn Côrintô, chương 7, câu 25-26, khi người nói rõ là không truyền nhưng chỉ khuyến khích nếp sống trinh khiết mà thôi.
3/ từ bỏ gia đình, dựa theo Mt_10,37: “Ai yêu cha mẹ hơn ta thì không xứng đáng với ta, ai yêu con cái mình hơn ta thì không xứng đáng với ta”.
4/ khước từ quyền lợi chính đáng, dựa theo bài giảng trên núi (Mt 5,38-42) không chống cự kẻ bóc lột mình.
5/ làm việc thiện kín đáo, cũng dựa theo bài giảng trên núi (Mt 6,6-18), khi Chúa dạy đừng phô trương rầm rộ mỗi khi ăn chay bố thí;
6/ từ bỏ mình đi theo Chúa (Mc 8,43-38 và song song): vác thập giá đi theo Người và sẵn sàng liều mạng sống vì Người.
Nên nhớ là ông Origène viết những dòng trên đây cho tất cả mọi tín hữu, thúc giục họ hãy cố gắng tiến tới sự trọn hảo, kể cả khi phải hy sinh tính mạng. Tác giả sống vào thế kỷ III, lúc Giáo Hội còn đang bị bách hại. Lúc đó, thần học về các lời khuyên Phúc Âm chưa dính dáng gì tới đời tu trì hết, bởi vì nếp sống tu trì chỉ phát triển vào một thế kỷ sau, khi mà các cơn bắt đạo đã qua, và Giáo Hội rơi vào nguy cơ hạ thấp những yêu sách của Tin Mừng.
Theo nhiều sử gia, các đan sĩ đầu tiên rút lui vào sa mạc bởi vì muốn nuôi dưỡng nhuệ khí cha ông. Vì thế không lạ gì họ quyết tâm tuân giữ những lời khuyên Phúc Âm.
Các đan sĩ đầu tiên không kết tụ ngay thành một dòng tu, với một bản luật đồng nhất quy định hết tất cả các nghĩa vụ. Dù sao thì nếp sống tu trì còn bao gồm nhiều điểm mà ta không thấy liệt kê trong danh sách của ông Origène, chẳng hạn như sự cầu nguyện. Đành rằng tất cả mọi tín hữu đều buộc phải cầu nguyện, nhưng các đan sĩ dành nhiều thời giờ hơn vào việc cầu nguyện, đến nỗi có người định nghĩa đời đan tu là đời cầu nguyện. Một cách tương tự như vậy, tất cả các tín hữu đều phải khổ chế, nhưng các đan sĩ thực hành khổ chế cách nghiêm khắc hơn.
Thật khó trả lời, bởi vì đã từ lâu, nhiều đan sĩ đã tuyên hứa ba điều, nhưng không hẳn là ba lời khuyên Phúc Âm giống như Giáo Luật hiện nay. Chúng ta thử lấy một thí dụ từ các bản luật đan tu hồi thế kỷ IV-V bên Tây Phương thì đủ hiểu.
Ai giữ luật Thánh Augustinô thì cam kết ba điều: độc thân, khó nghèo, sống cộng đoàn. Các tu sĩ dòng Biển đức thì cũng tuyên hứa ba điều: định cư, hoán cải cuộc sống, vâng phục.
Chúng ta thấy rằng ba điều này của luật Biển đức thì rộng hơn ba lời khuyên Phúc Âm rất nhiều, bởi vì lời hứa “hoán cải” coi như là vô giới hạn, bó buộc phải cải thiện liên lỉ theo tinh thần Phúc Âm. Một cách tương tự như vậy, lời hứa “vâng lời” cũng mang tầm mức rất phổ quát, bởi vì đan sĩ hứa tuân giữ bản luật đặt ra rất nhiều nghĩa vụ tu đức (từ việc đọc kinh cầu nguyện, ăn chay kiêng thịt, cho đến thực tập đức khiêm nhường), chưa kể đến việc vâng phục bản luật sống là chính viện phụ.
Vì thế mà không lạ gì các tu sĩ dòng Đaminh chỉ hứa một điều, đó là vâng giữ Hiến pháp, xét vì tất cả các lời khuyên đều được viết trong đó rồi. Dù sao thì việc xác định ba lời khấn dòng trong Giáo Luật chỉ trở thành cố định từ năm 1253, trong một tuyên ngôn của đức thánh cha Innôcentê IV gửi cho dòng thánh Clara, tóm tắt các điểm cốt yếu của đời tu vào sự khiết tịnh, khó nghèo và vâng phục.
Theo chỗ tôi biết, vào thời đó, người ta chưa sử dụng từ ngữ “lời khuyên Phúc Âm”. Người ta chỉ muốn xác định những điểm tạo nên bản chất đời tu trì, khác biệt với các hàng ngũ khác trong Giáo Hội.
Thánh Tôma Aquinô giải thích ba lời khấn dòng theo nghĩa là dâng hiến cho Thiên Chúa ba điều thiện cao quý của con người: lời khấn khó nghèo hiến dâng tài sản; lời khấn khiết tịnh dâng hiến thân xác; lời khấn vâng lời dâng hiến ý chí tự do.
Tư tưởng “lời khuyên Phúc Âm” mới trở lại phổ thông vào thời cận đại, khi người ta muốn đào sâu thêm ý nghĩa của ba lời khấn theo viễn tượng làm môn đệ Chúa Giêsu. Ai muốn đi theo Chúa Giêsu thì cũng muốn bắt chước nếp sống của Người, đó là khiết tịnh, thanh bần và vâng phục. Ba lời khấn dòng trở thành ba khía cạnh của cuộc sống theo Đức Giêsu, nghĩa là theo Tin Mừng.
Dĩ nhiên là Phúc Âm còn gồm nhiều lời khuyên khác nữa. Trên đây tôi đã nói đến một ý kiến cho rằng toàn thể Phúc Âm là một lời khuyên phổ quát, đó là sống trọn tình yêu. Còn ông Origène nêu lên 6 lời khuyên.
Ngay cả đức thánh cha Gioan Phaolô II, tuy nhiều lần nhấn mạnh các tu sĩ hãy tuân giữ ba lời khuyên Phúc Âm mà họ đã tuyên hứa theo Giáo Luật, nhưng chính người cũng thêm (ở trong tông thư Hồng ân cứu độ, số 9) rằng Phúc Âm còn gồm nhiều lời khuyên nữa, thí dụ khuyên đừng xét đoán, khuyên cho vay mà đừng mong được đền đáp, khuyên cố gắng làm thỏa mãn hết những gì tha nhân yêu cầu; khuyên tha thứ tới 77 lần 7.
Dĩ nhiên danh sách này còn dài nữa. Nói thế có nghĩa là ba lời khuyên Phúc Âm của các tu sĩ chỉ là một bước khởi hành để đi theo Chúa Giêsu, nhưng không thể nào chỉ dừng lại ở điểm khởi hành. Họ cần phải nhắm thể hiện toàn thể tinh thần Phúc Âm.
Khỏi nói ai cũng biết, Phúc Âm không chỉ dành riêng cho các tu sĩ, nhưng dành cho tất cả mọi Kitô Hữu. Kể cả một người đã lập gia đình vẫn còn rất nhiều cơ hội để thực hiện lời khuyên Phúc Âm, trong đó có lời khuyên yêu thương nhẫn nhục mà họ gặp hàng ngày. Điều này chắc hẳn là không đơn giản gì.
Trong mục “Tìm hiểu Giáo luật”, tôi đã nói qua sự tiến triển về các hình thức của sự cam kết mà các tu sĩ phải tuyên giữ. Tôi đã có dịp nói tới trường hợp của Dòng Đaminh chỉ tuyên một lời khấn, lời khấn vâng lời, thay vì số ba như các Dòng khác. Lần này thì chúng ta bước sang trường hợp ngược lại, tức là những dòng thêm lời khấn thứ tư hay nhiều hơn nữa.
Lịch sử bắt đầu từ thời Trung Cổ. Chúng ta nên nhớ rằng từ thế kỷ IV hình thức tu trì thịnh hành trong Giáo Hội là đời sống đan tu. Sang tới thế kỷ XII, bắt đầu xuất hiện những Dòng làm việc tông đồ. Các Dòng này, ngoài các nghĩa vụ cổ truyền của đời tu, còn thêm một lời cam kết nữa sẽ đi phục vụ công tác chuyên biệt của Dòng.
Theo các sử gia, hai công thức cổ nhất của lời khấn thứ tư là Dòng Đức Bà chuộc kẻ làm tôi và Dòng thánh Clara, cả hai vào thế kỷ XIII. Dòng Đức Bà chuộc kẻ làm tôi thêm lời khấn sẽ đi cứu những người Công Giáo bị người Hồi Giáo bắt làm nô lệ; còn lời khấn của Dòng Clara là giữ nội vi.
Từ đó, nhiều Dòng đã thêm lời khấn thứ tư vào ba lời khấn cổ truyền, ra như muốn biểu lộ đặc sủng riêng của Dòng mình. Thêm vào đó, có những thời buổi mà đời tu xuống dốc quá, nên các vị sáng lập hay cải tổ muốn thêm một lời khấn nhằm bài trừ một khuynh hướng mà họ cho là nguyên nhân của sa đoạ.
Chúng ta có thể lấy tỉ dụ thuộc cả hai động lực, nghĩa là hoặc là nhằm biểu lộ mục tiêu hoạt động riêng biệt của Dòng hoặc là nhằm bài trừ một tệ đoan. Dĩ nhiên là loại thứ nhất có nhiều và đáng kể hơn.
Thí dụ: phục vụ người đau yếu (Dòng thánh Camillo de Lellis), phục vụ bệnh viện (Dòng Thánh Gioan Thiên Chúa), phục vụ người nghèo (Dòng Thừa sai truyền giáo), giáo dục thiếu niên (Dòng sư huynh Lasan), suy gẫm sự thương khó của Chúa (Dòng Passionisti).
Còn loại thứ hai ta có kể vài trường hợp tựa như khấn sẽ không mơ ước làm Giám Mục (Dòng Chúa Ba Ngôi, Dòng Tên, Dòng Camillô), khấn sẽ trình Bề trên nếu bị Tòa Thánh bắt nhận chức Giám Mục (Dòng Tên), lời khấn sẽ không làm linh mục (Dòng Escolapiô và một số trợ sĩ trong các Dòng Augustinô, Carmêlô).
Đối với các Dòng nữ, cần phải kể tới lời khấn giữ nội vi. Sau cùng còn phải kể tới lời khấn vâng phục Đức Thánh Cha.
Theo một thống kê vào năm 1987, thì trải qua lịch sử đã có 140 loại lời khấn thứ tư, trong số đó loại thứ nhất chỉ chiếm một phần ba.
Tôi không rõ cho lắm, nhưng có điều là thái độ của Giáo Hội khi thì khuyến khích, khi thì làm ngơ, lúc thì cấm thêm lời khấn thứ tư.
Như đã nói, lời khấn thứ tư xuất hiện từ thế kỷ XIII với các Dòng chuyên biệt hoạt động tông đồ. Công đồng Trentô mặc nhiên chấp nhận tục lệ đó trong sắc lệnh bàn về đời tu.
Sang thế kỷ XVII-XVIII, con số các Dòng hoạt động tông đồ tăng lên, và vì vậy việc khấn lời khuyên thứ tư coi như là chuyện thường tình, xét vì mỗi Dòng thấy cần phát biểu căn cước riêng của mình.
Thế nhưng, vào cuối thế kỷ XIX sang thế kỷ XX, Tòa Thánh không cho phép các Dòng mới được phát biểu lời khấn thứ tư nữa, viện lẽ rằng ba lời khấn đã đủ để diễn tả các nghĩa vụ căn bản của đời tu rồi; các nghĩa vụ khác không nói ra thì đã bao hàm trong lời khấn vâng lời. (Một khi đã khấn vâng lời, thì tất nhiên là phải tuân giữ những gì bề trên truyền dựa theo hiến pháp của Dòng).
Lập trường của Tòa Thánh được xác nhận trong Quy luật về việc châu phê Dòng ban hành năm 1901. Tuy nhiên, hai bộ Giáo Luật ban hành năm 1917 và 1983 thì không đả động tới điểm này nữa. Sự làm thinh như vậy được coi như là không cấm.
Vì vậy từ sau công đồng, khi duyệt lại Hiến pháp, thì nhiều Dòng hoặc tái khẳng định lời khấn thứ tư nếu đã có, hay sửa đổi lại công thức cho phù hợp với thời đại hơn. Nhưng cũng có Dòng trước kia không có lời khấn thứ tư, thì nay cũng du nhập vào. Và rồi các bản Hiến pháp ấy vẫn được Tòa Thánh châu phê, chứ không bị làm khó dễ. Thiết tưởng sự thay đổi thái độ của Tòa Thánh đối với lời khấn thứ tư không hệ tại bản chất thần học của lời khấn cho bằng tại quan niệm pháp lý về các Dòng tu.
Trong các thế kỷ gần đây, và nhất là từ năm 1900, Tòa Thánh ra như muốn cho tất cả các Dòng phải giữ một luật như nhau. Thậm chí, nhiều Dòng nữ được thành lập trong thời gian này đã phải chấp nhận một mẫu Hiến pháp tiền chế mà Tòa Thánh đã soạn, và chỉ châm chế về tên gọi và kiểu áo Dòng.
Phải chờ tới Công Đồng Vaticanô II, thì tính chất đặc sủng đa diện của các Dòng tu mới được nhìn nhận. Bộ Giáo Luật hiện hành (đ.578) đã nhấn mạnh rằng mỗi Dòng có quyền và nghĩa vụ bảo vệ gia sản của mình. Hiểu như vậy, ta có thể kết luận rằng nếu Dòng nào đã có lời khấn thứ tư như gia sản thì cứ việc giữ. Dù sao nên lưu ý là phần lớn các dòng có lời khấn thứ tư thuộc vào số mới thành lập trong hai thế kỷ gần đây.
Đó là lập luận của văn kiện Tòa Thánh hồi đầu thế kỷ như tôi đã nói trên đây. Và có lẽ đó cũng là lập luận của nhiều tu sĩ Dòng Đaminh, cho rằng chỉ cần khấn vâng lời là đủ rồi: bởi vì vâng lời có nghĩa là vâng giữ tất cả những nghĩa vụ đời tu ghi trong Hiến pháp.
Thực ra, chúng ta nói “lời khấn thứ tư” là nói cho gọn vậy thôi, chứ không phải tất cả đều gọi lời khấn thứ tư như ngang hàng với ba lời khấn chính yếu của đời tu.
Một số Dòng gọi rõ là lời khấn riêng là “lời khấn tùy” (votum accidentale, votum accessorium), ra như muốn phân biệt hệ cấp của nó, sánh với ba lời khấn chính (vota substantialia, vota essentialia); có Dòng thì gọi là “lời khấn riêng biệt” (votum peculiare, votum speciale), theo nghĩa là một đặc sủng riêng của Dòng, nhằm xác định rõ hơn mục tiêu riêng biệt của Dòng họ.
Ngoài ra cũng nên biết rằng có thể một Dòng có tới hai hay ba lời khấn phụ như vậy, tuy rằng có thể không phải tất cả các phần tử đều phải khấn, nhưng chỉ có một vài hạng thôi. Thí dụ lời khấn không làm linh mục chỉ buộc các trợ sĩ; còn lời khấn không nhận chức Giám Mục hay tuân phục Giáo hoàng thì có lẽ buộc các bề trên nhiều hơn.
Bên cạnh các lời khấn theo nghĩa chặt (votum), có Dòng chỉ đòi hỏi một lời thề (iuramentum) (hình như ở Việt Nam người ta gọi là “lời giao”), tỉ như khi cần phải đi phục vụ ở miền truyền giáo xa xăm, hay phải thi hành một sứ mạng nguy hiểm tới tính mạng. Chính vì có những quan niệm khác nhau về bản chất của lời khấn thứ tư như vậy, nên khó có thể tạo ra một học thuyết tổng quát về ý nghĩa của nó.
Đại khái thì người ta vạch ra ba ý nghĩa chính sau đây:
1) Lời khấn thứ tư muốn củng cố và bảo đảm ý chí của tất cả các phần tử trung thành với mục tiêu riêng biệt của Dòng. Ý nghĩa này rõ rệt trong các lời khấn có tính cách cải tổ, vào những lúc Dòng sa sút hay bị nguy cơ lạc hướng, thì lời khấn thứ tư muốn xác quyết ý chí trung thành với ý hướng nguyên khởi, đặc biệt là sự khiêm nhường, khó nghèo, nhiệm nhặt. Dĩ nhiên có một só lời khấn ra đời vào một hoàn cảnh lịch sử riêng biệt nhưng nay đã qua rồi và trở nên lỗi thời: thí dụ sự vâng phục Đức Thánh Cha, là điều mà Giáo Luật hiện nay bắt buộc hết các tu sĩ (đ. 590 §2); hoặc luật nội vi Tòa Thánh dành cho các Dòng kín (đ.667 §3).
2) Còn đối với những Dòng mà lời khấn thứ tư nhằm tới một hoạt động chuyên biệt, thì họ cho rằng ba lời khấn căn bản quá mơ hồ trừu tượng; vì vậy cần phải xác định rõ ràng hơn ý nghĩa của việc dâng mình cho Chúa. Lời khấn thứ tư nhằm xác định cụ thể lý do của sự dâng mình: tôi tình nguyện dâng hết cả đời tôi để phục vụ người nghèo, người bệnh, người bị tù đày chẳng hạn.
3) Một chiều hướng khác nữa thì lập luận rằng: mỗi Dòng tu có một đặc sủng riêng; mỗi vị sáng lập đã nhận được một ơn gọi riêng để phục vụ Hội Thánh và nhân loại. Lời khấn thứ tư nhằm biểu lộ khía cạnh đặc sủng của Dòng; và như vậy các lời khấn thứ tư biểu lộ tính cách đa dạng của đời tu, nhằm hoạ lại những nét phong phú của việc đi theo Đức Kitô.
Trong tiếng Hán Việt, chữ khấn tự nó chỉ có nghĩa là cầu xin (khấn nguyền, khấn cầu). Có người cho rằng nó bắt nguồn bởi tiếng “khẩn” là thành thật. Khấn thường đi kém với hứa. Hứa thì thêm tư tưởng “hẹn” (hứa hẹn). Khấn hứa vừa bao gồm việc cầu xin, vừa hẹn sẽ tạ ơn nữa. Thiết tưởng nên ghi nhận là việc khấn hứa được dành riêng cho thế giới thần linh (cầu Trời khấn Phật) chứ không áp dụng cho xã hội loài người.
Chúng ta có thể lấy một thí dụ từ đời sống hàng ngày, khi một người phải đương đầu với một khó khăn nào đó (thí dụ: sinh viên sắp đi thi, bệnh nhân sắp bị mổ, thương gia sắp lên đường kinh doanh), thì họ đến cầu khấn Chúa, (hay đức Mẹ, hay một vị thánh nào đó) giúp đỡ và hứa rằng nếu vượt qua được thì sẽ tạ ơn.
Quan điểm này khá gần gũi với quan điểm “votum” trong tiếng La Tinh cổ điển. Động từ vovere có nghĩa là bày tỏ ước nguyện lên các đấng thần linh, kèm theo lời hứa sẽ thực hiện một công việc gì đó. Ta thấy hàm chứa một tương quan khế ước trong đó: nếu thần linh ban cho tôi được ơn này, thì tôi sẽ tạ lễ như thế này; dĩ nhiên là nếu thần linh không ban ơn thì tôi cũng không bị ràng buộc gì hết.
Thế nhưng, đến khi Thánh Tôma Aquinô suy luận về bản chất của lời khấn thì người đã sửa lại quan điểm khế ước về lời khấn, nghĩa là chỉ giữ lại khái niệm về lời hứa sẽ thực hiện điều gì đó, chứ không đặt điều kiện là phải nhận được ơn lành.
Quan điểm thần học của Thánh Tôma được bộ Giáo Luật lặp lại ở điều 1191: “khấn (votum) là hứa với Thiên Chúa sẽ thực hiện một điều tốt”. Mình hứa với Thiên Chúa sẽ thực hiện một điều tốt bởi vì mình muốn bày tỏ lòng kính mến Chúa, muốn tiến trên con đường trọn lành, chứ không phải chỉ vì muốn đút lót để xin Người làm ơn cho mình.
Dù sao, đó là nói trên nguyên tắc trừu tượng. Trên thực tế, có nhiều cấp độ mà chúng ta khấn hứa với Thiên Chúa. Chúng ta có thể hứa sẽ làm một công tác nào cụ thể (thí dụ kiêng hút thuốc, kiêng xem tivi, ngày thứ sáu; hứa sẽ đi lễ hàng ngày); nhất là chúng ta có thể hứa sẽ dâng trót mình phụng sự Chúa.
Thực ra không dễ gì mà phát biểu được nội dung việc dâng trót mình phụng sự Chúa. Giáo luật phải mất gần 13 thế kỷ mới cô đọng thành công thức ba lời khấn.
Trong các thế kỷ đầu tiên, các trinh nữ và các nhà khổ hạnh biểu lộ sự tận hiến cho Chúa qua việc độc thân (không lập gia đình), khổ hạnh, cầu nguyện, làm việc bác ái.
Sang thế kỷ IV, với các bản luật đời đan tu, nội dung của sự tận hiến được phát biểu như là: độc thân, từ bỏ tài sản, cầu nguyện. Luật Thánh Augustinô thêm việc sống trong cộng đoàn. Các đan sĩ Biển đức thì khấn hứa ba điều: vĩnh cư (không lang thang nay đây mai đó), hoán cải và vâng phục bề trên.
Đến thế kỷ XIII, nội dung của việc cam kết vẫn còn thả nổi, chẳng hạn như dòng Đaminh chỉ hứa vâng lời bề trên theo hiến pháp; còn dòng Phan sinh thì cam kết khiết tịnh, từ bỏ tư sản và vâng lời.
Phải chờ đến cuối thế kỷ XIII thì Giáo Hội mới buộc các tu sĩ tuân giữ ba lời khấn khó nghèo, khiết tịnh, vâng lời. Thánh Tôma Aquinô giải thích rằng ba lời khấn đó diễn tả việc dâng hiến những gía trị cao qúy nhất của con người: qua lời khấn khó nghèo, ta dâng những tài sản vật chất; qua lời khấn khiết tịnh, ta hiến dâng thân xác; qua lời khấn vâng phục ta hiến dâng ý chí tự do. Thế nhưng nhiều dòng tu vẫn chưa hài lòng với ba lời khấn đó, vì thế mà họ thêm lời khấn thứ tư.
Theo các sử gia, Dòng đầu tiên thêm lời khấn thứ tư là bản luật thánh Clara năm 1259, thêm lời khấn tuân giữ nội vi, mở màn cho chế độ các nhà kín. Số dòng thêm lời khấn thứ tư tăng gia vào thế kỷ XVI, vào thời cải tổ Giáo Hội. Một vài dòng thêm lời khấn ràng buộc sống nhiệm nhặt hơn, thí dụ: không nhận bổng lộc địa vị, kiêng thịt suốt đời. Một vài dòng khác thì thêm lời khấn thứ tư với mục đích làm nổi bật hơn mục tiêu tông đồ của dòng mình, chẳng hạn như: phục vụ người nghèo, phục vụ các bệnh nhân, rời bỏ quê hương đi truyền giáo.
Sở dĩ họ thêm lời khấn thứ bốn là vì họ thấy rằng công thức cổ điển về ba lời khấn có ít là hai điều thiếu sót. Điều thiếu sót thứ nhất là nó chưa đủ để giúp cho tu sĩ đạt được sự hoàn thiện. Thử hỏi như một tu sĩ rất khiết tịnh, rất khó nghèo, rất vâng lời, nhưng mà tính gắt gỏng, hay gây gỗ, chểnh mảng cầu nguyện, thì đã phải là tu sĩ gương mẫu chưa?
Điều thiếu sót thứ hai là ba lời khấn chỉ mới nhắm đến sự hoàn thiện bản thân chứ chưa đả động đến sứ vụ tông đồ, phục vụ Nước Chúa. Nói tóm lại, ba lời khấn cổ điển chưa diễn tả hết được ý muốn dâng hiến trọn đời cho Chúa.
Bộ Giáo Luật hiện hành còn nói đến lời khấn trọng thể ở điều_1192, khoản 2, nhưng không giải thích ý nghĩa của nó. Muốn biết giá trị của lời khấn trọng thì phải trở về với bộ luật cổ điển, về sự phân biệt giữa lời khấn trọng với lời khấn đơn.
Sự phân biệt này không dựa trên hình thức tổ chức linh đình bên ngoài (khấn trọng không có nghĩa là tổ chức rùm beng), nhưng là dựa trên hiệu quả pháp lý, cách riêng về hậu quả của lời khấn khó nghèo và khiết tịnh.
Đối với lời khấn khó nghèo, khi khấn trọng người ta khước từ không những việc sử dụng tài sản mà khước từ luôn cả quyền thủ đắc tài sản; còn khi khấn đơn thì chỉ khước từ quyền sử dụng mà thôi.
Nhiều hoàn cảnh khác nhau đã đưa tới sự phân biệt này. Nói được là từ đầu cho đến thế kỷ XVIII, các tu sĩ đều khấn trọng, nghĩa là đối với sự khó nghèo, họ khước từ cả quyền sử dụng lẫn quyền sở hữu. Nhưng các cuộc cách mạng chính trị bên Âu Châu (khởi đầu với cuộc cách mạng 1789 bên Pháp) không nhìn nhận giá trị của sự khước từ đó, vì cho rằng tư hữu là quyền tự nhiên bất khả xâm phạm, bất khả chuyển nhượng.
Một cách tương tự như vậy, hôn nhân cũng được coi như là một quyền bất khả chuyển nhượng, vì thế lời khấn khiết tịnh không có giá trị tiêu hôn. Trong bối cảnh chính trị như vậy, các dòng tu nam nữ được thành lập từ thế kỷ XIX chỉ còn lời khấn đơn chứ không có lời khấn trọng nữa.
Nguồn gốc của vấn đề này khá phức tạp, vừa bắt nguồn từ những hoàn cảnh chính trị bên Âu Châu, vừa bắt nguồn từ những yếu tố trong nội bộ Giáo Hội.
Xét về những hoàn cảnh chính trị thì như vừa nói, từ thế kỷ XVIII, tại Âu Châu và Mỹ châu, nhiều lần chính quyền cấm thiết lập các dòng tu. Vì thế các tu sĩ không thể tổ chức quy củ với các cơ chế cổ truyền; họ tụ họp dưới dạng của hiệp hội, thỉnh thoảng gặp nhau để nâng đỡ tinh thần. Đây là nguồn gốc của vài tu hội đời.
Xét về nội bộ Giáo Hội, ta thấy có những người khấn dòng mà không chịu giữ lời khấn hay chỉ giữ hình thức. Vì thế, vào thời cải cách công đồng Trentô, một vài vị sáng lập quyết định kêu gọi các thành viên hãy cam kết tiến trên đường trọn lành dựa theo thiện chí chứ không dựa trên nghĩa vụ Giáo Luật.
Đây là nguồn gốc của vài tu đoàn tông đồ, tựa như dòng Oratorio của thánh Philip Nêri, dòng Thừa sai của Thánh Vinh sơn Phaolô, dòng Xuân bích.
Riêng đối với nữ giới thì có một lý do khác, đó là các nữ tu có lời khấn thì buộc phải sống trong nội vi. Vì thế, những dòng nào muốn làm việc bác ái tông đồ thì không tuyên khấn. Trường hợp điển hình là các nữ tử bác ái của Thánh Vinh sơn. Các chị em Dòng Mến thánh giá và Đaminh tại Việt Nam cho đến giữa thế kỷ XX cũng không có lời khấn vì lý do tương tự.
Những dòng không có lời khấn thì thay thế bằng lời hứa với Chúa, hoặc cam kết trước mặt cộng đoàn, hoặc lời thề. Sự phân biệt này chỉ khác nhau về giá trị pháp luật, chứ trên thực tế, các phần tử đều cam kết giữ ba lời khuyên Phúc Âm.
Đây cũng là sự phân biệt đáng kể được du nhập từ Công Đồng Vaticanô II, tức là giữa 3 lời khấn và 3 lời khuyên. Trước đây các tu sĩ được đồng hóa với những người khấn khiết tịnh, thanh bần, vâng lời.
Trong bộ Giáo Luật hiện hành, người ta đồng hóa đời sống tận hiến với việc tuân giữ ba lời khuyên Phúc Âm. Còn hình thức tuân giữ chúng thì thay đổi theo dạng thức của đời tu trì: các dòng tu thì chấp nhận với lời khấn công. Các tu hội đời, các ẩn sĩ thì chấp nhận với lời khấn bán công, hoặc lời hứa lời thề. Các tu đoàn tông đồ cũng vậy.
Khấn công hay khấn tư không cốt ở chỗ khấn công khai hoặc khấn chui! Lời khấn được gọi là “công” khi được Giáo Luật nhìn nhận giá trị như vậy (chiếu theo bộ Giáo Luật điều 1192). Việc chước chuẩn phải theo một thủ tục do Giáo Luật ấn định.
Còn các lời khấn tư có giá trị đối với lương tâm, và tùy trường hợp có thể được cha xứ miễn chuẩn (chiếu theo Giáo Luật số_1196). Tuy nhiên, các nhà Giáo Luật còn phân biệt các cấp độ khác nữa, chẳng hạn như “bán công”.
Dù sao, càng ngày người ta càng ý thức rằng cần phân biệt giữa thực chất vấn đề và hình thức pháp lý. Thực chất vấn đề là việc đi theo Chúa Giêsu, và đây là cốt yếu của đời tận hiến. Còn các hình thức pháp lý thì có thể thay đổi tùy thời tùy nơi. Có thể một người không khấn hứa gì hết, nhưng mà thực hành các lời khuyên phúc âm. Chắc chắn là Chúa hài lòng với họ hơn nhiều.