Như chị đã biết, lễ Vu Lan được cử hành vào ngày rằm tháng 7 âm lịch, còn gọi là Tết Trung nguyên. Có lẽ lễ này không bắt nguồn từ Phật Giáo, nhưng từ phong tục dân gian. Dù sao, trọng tâm của niềm tin ngày rằm tháng bảy âm lịch là “xá tội vong nhân”: vào ngày này, các tội nhân dưới âm phủ được giải thoát. Thân nhân những người mới qua đời tổ chức lễ cầu siêu.
Nguồn gốc của lễ các linh hồn bên Công Giáo thì khác, với nhiều giai đoạn tiến triển khác nhau. Ta có thể lấy một mốc điểm lịch sử là ngày 2 tháng 11 năm 998, để từ đó theo dõi sự tiến triển khi đi ngược hay đi xuôi.
Tại vì theo lịch sử, Thánh Ôđilon, viện phụ thứ năm của đan viện Cluny dòng Biển đức đã ấn định dành ngày 2 tháng 11 (nghĩa là ngày hôm sau lễ kính các thánh) để cầu nguyện cho tất cả các tín hữu đã qua đời, qua việc dâng thánh lễ, đọc kinh cầu nguyện và làm việc bác ái.
Như vừa nói, Cha Ôđilon chọn ngày 2 tháng 11 bởi vì liền kế ngày 1 tháng 11. Vào ngày này, phụng vụ mừng lễ kính tất cả các thánh, nghĩa là các tín hữu đã lìa đời và đang được hưởng hạnh phúc ở bên Chúa. Tuy nhiên, chúng ta biết rằng bên cạnh các phúc nhân, còn có những tín hữu khác đang trải qua cuộc thanh luyện. Vì thế, chúng ta cũng hãy nhớ cầu nguyện cho họ.
Chúng ta cần phân biệt nhiều khía cạnh: việc dành ngày 2 tháng 11 để cầu cho tất cả những người qua đời là sáng kiến của Cha Ôđilon. Nhưng việc cầu nguyện cho những người đã qua đời thì đã có từ lâu rồi, mãi từ cuối thời Cựu Ước, như chúng ta đọc thấy chứng tích trong sách Macabê, quyển hai, chương 12, khi ông Macabê quyên tiền gửi về đền thờ Giêrusalem để cầu nguyện cho các tử sĩ.
Trong Tân Ước, ta cũng thấy Thánh Phaolô khuyên ông Timôthêô hãy cầu nguyện cho Onêsiphorô, một cộng tác viên với thánh tông đồ tại Êphêsô (2Tm 1,16-18). Dĩ nhiên, tập tục này được duy trì trong suốt lịch sử của Hội Thánh. Còn việc dành một ngày trong năm phụng vụ để cầu cho tất cả các linh hồn thì cũng đã có trước Cha Ôđilon từ ba thế kỷ.
Việc tưởng nhớ những người qua đời được gặp thấy nơi nhiều dân tộc, với nhiều ý nghĩa khác nhau. Có khi việc tưởng nhớ người quá cố là dịp để thân quyến gặp gỡ nhau, để ôn lại công đức tiền nhân, bày tỏ lòng tri ân ngưỡng mộ, đồng thời khuyến khích nâng đỡ nhau trên đường đời.
Có nơi thì tin rằng hương hồn của tổ tiên vẫn còn hiện diện với con cháu, vì thế họ được mời đến tham dự những biến cố quan trọng của gia đình, cũng giống như lúc sinh tiền.
Có nơi tổ chức cúng giỗ để cung cấp lương thực và đồ dùng cho người quá cố, bởi vì người ta tin rằng những người bên kia thế giới cũng có những nhu cầu và sinh hoạt giống như ở đời này.
Có nơi thì tổ chức lễ cầu siêu, xin cho các linh hồn còn bị giam ở địa ngục được giải thoát. Dĩ nhiên, không phải tất cả các quan niệm này đều phù hợp với đức tin Kitô Giáo.
Trong việc cầu nguyện cho những người qua đời, có khá nhiều động lực khác nhau. Trước hết, chúng ta không thể nào bỏ qua khía cạnh tâm lý: những buổi cầu nguyện bên cạnh quan tài người chết hoặc vào dịp giỗ giáp tháng giáp năm nhằm bày tỏ sự thương tiếc người đã qua đi.
Thế nhưng bên cạnh động lực tâm lý, dần dần đức tin Kitô Giáo đã mang đến nhiều động lực mới. Ngay từ những lá thư đầu tiên (tựa như thứ thứ nhất gửi các tín hữu Têxalônica, chương 4, câu 13), Thánh Phaolô đã nhắc nhở các tín hữu đừng buồn rầu như những kẻ thiếu niềm hy vọng.
Thực vậy, đối với người tín hữu, cái chết không phải là sự tận diệt của cuộc sống, mà chỉ là ngưỡng cửa bước sang cuộc sống vĩnh cửu. Vì thế, các tín hữu tiên khởi gọi ngày qua đời là “sinh nhật” (dies natalis), bởi vì họ được sinh vào cuộc sống mới. Điều này được áp dụng đặc biệt cho những vị tử đạo. Không lạ gì mà vào ngày giáp năm ngày tử đạo, các tín hữu họp nhau lại để đọc hạnh tích của vị tử đạo, không những để khuyến khích nhau bắt chước tấm gương can đảm, nhưng nhất là để tạ ơn Chúa vì đã cho một tín hữu được hoà đồng với Đức Kitô.
Nói cách khác, việc mừng các vị tử đạo được liên kết với Thánh Lễ, tức là lễ hy sinh của Đức Kitô. Các vị tử đạo là những người đã đi theo sát với Thầy mình trên đường thập giá, cho nên chắc chắn họ cũng được thông dự vào sự phục sinh với Người.
Đúng rồi. Khi kính nhớ các vị tử đạo, các tín hữu xác tín rằng các đấng đang được hưởng vinh quang với Chúa rồi. Đó là buổi cử hành vui tươi. Thế nhưng không phải tất cả các tín hữu đều chết vì đạo. Nói cách khác, không phải tất cả các tín hữu sau khi qua đời đều nắm chắc sẽ được hưởng vinh quang với Chúa. Vì thế, những người qua đời cần được Hội Thánh cầu nguyện để được thanh luyện khỏi tội lỗi, như chúng ta thấy phản ánh nơi đoạn văn trích từ sách Macabê quyển 2 chương 12 đã nhắc đến trên đây. Chúng ta chỉ cần trưng dẫn một chứng tích thì đủ rõ.
Trong sách Tuyên xưng (Confessiones hay Tự thuật), Thánh Augustinô kể lại lời trối trăn của thân mẫu Monica rằng: “Các con có thể chôn xác mẹ ở đâu cũng được. Mẹ chỉ xin các con một điều là dù các con ở đâu, thì hãy nhớ đến mẹ trước bàn thờ Chúa”. Câu nói này phản ánh một tập tục đã có từ lâu đời, đó là cầu nguyện cho các người qua đời trong khi dâng Thánh Lễ. Thánh Lễ là nơi mà các tín hữu sống cao độ tín điều về sự “thông hiệp các thánh”.
Thực vậy, không những các tín hữu thông hiệp vào Mình và Máu của Chúa Kitô, nhưng còn thông hiệp với Nhiệm thể của Chúa là Hội thánh. Các Kinh nguyện Thánh Thể đều nhắc đến sự thông hiệp với Đức Maria, các thánh, các phúc nhân, và tất cả những ai đã ly trần.
Sự tưởng nhớ này không những chỉ tuyên xưng rằng các người qua đời vẫn còn sống (chứ không bị hủy diệt ra tro bụi), nhưng còn cầu xin Chúa nhân lành thương xóa bỏ những thiếu sót của họ. Dĩ nhiên, không phải chỉ chúng ta (những người còn sống) chuyển cầu cho các người qua đời, nhưng là cả Hội Thánh (nghĩa là kể cả Đức Kitô, Đức Maria và các phúc nhân) đều liên đới chuyển cầu cho các linh hồn.
Ngoài việc cử hành Thánh Lễ, Hội Thánh cũng cầu nguyện cho các người qua đời bằng những kinh nguyện khác, cũng như bằng các công tác bác ái.
Trên đây, chúng ta nhắc đến lễ Trung nguyên, một ngày mà tục lệ dân gian ở Á đông cầu siêu cho các vong nhân. Ở Rôma thời cổ, cũng có một ngày cầu siêu như vậy, vào ngày 22 tháng Hai dương lịch (nghĩa là vào ngày cuối năm theo lịch cổ Rôma). Không lạ gì mà nhiều nơi trong Giáo Hội Công Giáo cũng muốn dành ra một ngày để cầu nguyện cho tất cả các người qua đời.
Chứng tích cổ nhất là bản luật các đan sĩ của Thánh Isiđorô Sevilla bên Tây Ban Nha (+636), truyền dâng Thánh Lễ cho tất cả các người qua đời vào ngày thứ hai sau lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống. Vào các thế kỷ sau đó, người ta thấy tại nhiều đan viện tại Đức, Pháp, Ý, chỉ định một ngày trong năm để cầu cho hết các linh hồn, tuy không trùng ngày như nhau. Với Cha Ôđilon, thì ngày này được ấn định sau lễ kính các thánh. Nhờ uy tín của các đan viện Cluny, tục lệ này sớm lan tràn khắp châu Âu từ thế kỷ XI.
Không phải, tập tục này ra đời muộn hơn, bắt đầu từ cuối thế kỷ XV với các cha dòng Đaminh ở Valencia (Tây Ban Nha). ĐTC Bênêđictô XIV năm 1748 châu phê tập tục này và nới rộng cho tất cả các linh mục bên Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, châu Mỹ la-tinh. Mãi đến năm 1915, ĐTC Bênêđictô XV mới nới rộng ra toàn thể Hội Thánh. Dù sao, nên biết là Hội Thánh không chỉ dành mỗi năm một ngày để tưởng nhớ các người đã qua đời. Nhiều tu viện và giáo xứ vẫn có thói quen cầu nguyện cho các linh hồn mỗi ngày, hay ít là mỗi tuần vào ngày thứ Hai.
Nguồn gốc tục lệ này là một quan điểm hơi kỳ quặc vào thời Trung Cổ. Người ta cho rằng các linh hồn ở luyện ngục được xả hơi vào Chúa Nhật để mừng Chúa Phục Sinh, và qua ngày thứ Hai, lại phải tiếp tục lao động. Vì thế, chúng ta nên giúp cho họ một tay. Tuy nhiên, ngày nay chúng ta có thể cầu nguyện cho các linh hồn vào bất cứ ngày nào mà không cần đếm xỉa đến tập tục đó.
Trong lịch sử nhân loaị, tục lệ hỏa táng không phải là điều mới lạ. Thậm chí, đôi khi nó gắn liền với một nền văn hóa hay với một tôn giáo nữa. Chúng ta có thể lấy nước Ấn Độ làm thí dụ, nơi mà tục lệ hỏa táng đã có từ lâu đời, tuy khó nói rằng việc hỏa táng có nhất thiết gắn liền với thuyết luân hồi hay không. Thế nhưng, khi bước sang truyền thống của người Do Thái, thì chúng ta thấy ngược lại.
Từ những tác phẩm cổ điển của Kinh Thánh, chúng ta đã thấy họ chôn cất người chết chứ không hỏa thiêu, dù vào thời cổ, người Do Thái chưa có quan niệm rõ rệt về số phận con người bên kia thế giới. Như chị đã biết, vào cổ thời, người Do Thái tin rằng sau khi chết, con người dù tốt dù xấu đều phải xuống dưới cõi âm ti, với cuộc sống thoi thóp, không biết có đáng gọi là sống hay không nữa.
Dù sao, vào thời của Đức Kitô, tục lệ chôn cất người chết đã thành phổ thông ở Palestina. Theo Phúc Âm, chúng ta được biết rằng sau khi Người đã chết, các môn đệ đã hạ xác Người khỏi thập giá và mai táng trong huyệt đá; nhưng vào ngày thứ Ba, khi ra thăm viếng mộ thì các môn đệ thấy nó đã trống rỗng, bởi vì Người đã sống lại.
Sau đó, các Kitô Hữu, dù là gốc Do Thái hay gốc từ các dân tộc khác, đã duy trì việc mai táng người chết, một đàng có lẽ vì muốn bắt chước việc táng xác Thầy của mình, và đàng khác cũng muốn biểu lộ niềm tin vào việc thân xác sống lại theo lời Chúa hứa.
Như đã nói trên đây, người Kitô Hữu không bày ra việc an táng người chết, nhưng họ đã lấy lại tục lệ của người Do Thái. Đến khi bước sang vùng văn hóa Hy Lạp La Mã, thì chúng ta cũng thấy người dân tại đây chôn cất người chết chứ không có hỏa táng như bên Ấn Độ. Nói như thế không có nghĩa là các Kitô Hữu chấp nhận một thói tục thường tình. Lắm lúc họ đã phải phấn đấu để duy trì một điều mà họ cho là có liên hệ tới niềm tin.
Vấn đề này được đặt ra trong trong thời kỳ các Kitô Hữu bị bách hại trong Đế quốc Rôma. Một số tín hữu đã bị kết án tử hình vì đã không tuân hành luật lệ của Hoàng đế.
Chiếu theo hình luật, các tử tội không được an táng, nhưng thây của họ phải bị phơi giữa trời trong vòng 6 ngày rồi sau đó bị đốt ra tro. Các tín hữu đã tìm hết cách, không để cho thi hài các vị tử đạo phải chịu cảnh đó. Có khi thì họ lén lút lấy trộm xác vào ban đêm để về mai táng; có khi thì họ đút lót cho binh sĩ để chuộc xác về. Dĩ nhiên, có người sẽ nói rằng đó là do lòng nhiệt thành tôn kính các vị tử đạo. Dù vậy, phải nhận rằng còn có động lực khác nữa khiến cho các Kitô Hữu không muốn thấy thi hài bị thiêu đốt. Đó cũng là lý do vì sao các Kitô Hữu tại Rôma cũng như tại các nơi khác đã tậu đất để lập nghĩa trang riêng.
Nên biết là trong tiếng La Tinh “nghĩa trang” được gọi là “coemeterium”, gốc bởi tiếng Hy Lạp "coimeterion”: nơi an nghỉ, chờ ngày phục sinh. Các tín hữu năng lui tới các nghĩa trang này, được coi là “đất thánh”, không những là để tưởng nhớ người chết mà còn để cầu nguyện, cử hành phụng vụ, và biểu dương niềm tin và hy vọng phục sinh nữa.
Có lẽ trong quá khứ ít khi có người đặt ra câu hỏi đó. Tưởng cũng nên biết là tuy quan niệm về số phận con người sau khi chết có khác nhau, nhưng tục lệ chôn cất người chết coi như là phổ thông trong những miền mà Phúc Âm được rao giảng trong các thế kỷ đầu tiên.
Chị cứ nghĩ tới các kim tự tháp bên Ai Cập thì đủ rõ: các kim tự tháp chẳng qua chỉ là các lăng tẩm của các vua Pharaô đó thôi. Nói được là trong suốt thời Trung Cổ tại Âu Châu, không ai đòi xét lại vấn đề chôn cất người chết cả. Mặt khác, phụng vụ đã có nghi thức không những là để cầu cho người quá cố, mà còn có lễ nghi an táng, bắt đầu từ khi tẩm liệm nhập quan, kế đó đưa quan tài vào nhà thờ cử hành thánh lễ cầu hồn, và sau cùng là nghi thức tạm biệt, khi mà cộng đoàn tháp tùng quan tài ra nghĩa trang, đến nơi an nghỉ.
Thực ra thì vào thời Trung Cổ, đôi khi người ta cũng thi hành việc hỏa thiêu, chẳng hạn như khi xảy ra một vụ dịch tễ; nhưng đó chỉ là ngoại lệ. Việc xét lại xảy ra không phải từ khi Phúc Âm được truyền bá sang nền văn hóa quen thuộc với tục hỏa táng (tỉ như tại Ấn Độ), nhưng là tại Âu Châu, và cách riêng là tại Pháp.
Do ảnh hưởng của các nhóm Tam điểm, nhiều phong trào đã được thành lập để cổ động cho việc hỏa táng. Một kết quả cụ thể là quốc hội Pháp biểu quyết đạo luật ngày 15/11/1887 cho phép các công dân đuọc tự do lựa chọn giữa việc mai táng hay hỏa thiêu. Và hai năm sau đó, khi đạo luật có giá trị chấp hành, một lò hỏa thiêu đã được khai trương tại nghĩa trang thành phố Paris.
Vào cuối thế kỷ XIX, Bộ Thánh Vụ (nay gọi là Bộ Giáo Lý Đức Tin) đã ra nhiều nghị định liên quan tới việc hỏa táng. Một nghị định ngày 19/5/1886 cấm các tín hữu không được gia nhập những tổ chức phổ biến việc hỏa táng. Vài tháng sau, ngày 15/12/1886, một nghị định khác phạt người nào tự nguyện chấp nhận hỏa táng thân xác của mình sẽ không được an táng theo lễ nghi tôn giáo. Ngày 27/7/1892, một nghị định nữa thêm vài chi tiết ngăn cấm việc hỏa táng (nới rộng ra cả người làm cố vấn kỹ thuật cho việc hỏa táng).
Sở dĩ Bộ Thánh vụ đã có những biện pháp khắt khe như vậy là vì vào thời đó, các chiến dịch cổ động việc hỏa thiêu là do phong trào Tam điểm điều khiển, và phong trào này có nhiều điều chống lại Giáo Hội Công Giáo. Họ cho rằng việc an táng người chết là điều hủ lậu, bởi vì dựa trên lòng mê tín về việc con người có linh hồn bất tử. Mặt khác, tuy rằng sự hỏa thiêu tự nó không có gì trái ngược với đức tin Kitô Giáo, nhưng tâm thức của người thời đó vẫn coi chuyện hỏa thiêu như cái gì kinh tởm, tàn bạo. Vả lại, khi hỏa thiêu thì đâu có thể thi hành nghi thức an táng cổ truyền được nữa.
Cần nhắc lại là những nghị định trên đây đã được ban hành hối cuối thế kỷ XIX, trước khi có Bộ Giáo Luật. Trong bộ Giáo Luật ra đời năm 1917, kỷ luật ngăn cấm vẫn còn được duy trì ở đ.1203. Thêm vào đó, ai tình nguyện để cho xác mình hỏa táng sẽ bị phạt không được an táng theo nghi thức tôn giáo.
Mãi tới ngày 8/5/1963 mới có sự chuyển hướng trong kỷ luật của Giáo Hội. Xét rằng nhiều người đã chọn việc hỏa táng không phải vì lý do bài trừ tôn giáo, cho nên Bộ Thánh vụ đã ra một nghị định mới nói như sau: “Cần phải cố gắng duy trì tục lệ an táng người chết. Những điều ngăn cấm việc hỏa táng được bãi bỏ, trừ khi nào đã rõ là đương sự đã chọn lựa hỏa táng vì chối bỏ các tín điều Công Giáo, hay vì lòng thù ghét khích bác Giáo Hội. Để khỏi làm suy giảm sự gắn bó của các Kitô Hữu đối với việc an táng, những nghi thức dành cho việc an táng và các kinh nguyện kế tiếp sẽ không bao giờ được cử hành tại nơi hỏa táng. Và cũng sẽ không tháp tùng thi hài ra đến nơi hỏa táng.”
Tôi vừa mới nói đến nghị định của Bộ Thánh vụ ra năm 1963, nghĩa là trước khi bế mạc Công Đồng Vaticanô II. Sau công đồng, chúng ta thấy có một cuộc cải tổ về kỷ luật cũng như về phụng vụ.
Trong lãnh vực mà chúng ta đang bàn, thì việc cải tổ phụng vụ tiến hành sớm hơn, với sự xuất bản nghi thức an táng (Ordo exsequiarum) vào năm 1969. Nghi thức cho phép cử hành lễ nghi an táng cho những ngưởi tín hữu nào đã chọn việc hỏa táng không phải vì những lý do trái nghịch với Kitô Giáo. Và những nghi thức được cử hành tại nhà nguyện nghĩa trang hay tại huyệt thì có thể được cử hành tại nơi hỏa thiêu, hay tại lò hỏa thiêu (Dẫn nhập, Praenotanda, số 15). Như vậy là ta thấy có sự thay đổi, so với nghị định của Bộ Thánh vụ năm 1963.
Còn việc cải tổ kỷ luật, thì như chị đã biết, được hình thành với việc ban hành bộ Giáo Luật năm 1983. Đ.1176, khoản 3, nói như sau: “Giáo Hội thiết tha khuyên nhủ nên duy trì phong tục đạo đức chôn cất thi hài người quá cố. Tuy nhiên, Giáo Hội không cấm hỏa táng, trừ khi nào sự hỏa táng được chọn lựa vì những lý do trái ngược với đạo lý Kitô Giáo”. Như vậy, không có chi mới lạ.
Cứ dựa theo các bản văn thì phải trả lời là có thể cử hành các lễ nghi. Thế nhưng khi đi vào thực tế thì người ta mới thấy nó rắc rối. Phải hiểu thế nào là nghi thức an táng dành cho người hỏa thiêu? Có nghĩa là mang thi hài đến nhà thờ cử hành thánh lễ an táng trước khi đem hỏa táng ư? Chuyện này chẳng có gì khó khăn cả. Có nghĩa là làm phép xác tại nghĩa trang trước khi hỏa thiêu, tương tự như trước khi chôn xuống lòng đất ư? Vấn đề trở nên phức tạp hơn, bởi vì phải thay đổi nhiều lời kinh. Chưa hết, lại còn có chuyện thi hài được hỏa táng liền sau khi chết; thế thì có được đem hủ tro vào nhà thờ cử hành thánh lễ giống như là đối với thi hài hay không?
Trong một bài báo đăng trong tạp chí “Notitiae” năm 1977 (trang 45), bộ Phụng tự đã trả lời là không, bởi vì thiếu trung thực với cử chỉ. Trong nghi thức an táng với sự hiện diện của thân xác, Giáo Hội bày tỏ lòng tôn kính đối với thân xác, đã được thánh hóa nhờ bí tích rửa tội, và trở nên đền thờ của Thánh Thần. Đám tro tàn không còn bộc lộ được dấu hiệu đó nữa, vì thế cho nên không thể dành cho đám tro những nghi thức dành cho thân xác, tựa như xông hương.
Dĩ nhiên, việc dâng Thánh Lễ cầu nguyện cho những người qua đời là chuyện khác, cho dù có thi hài hay không. Nhưng phần nào những câu hỏi vừa rồi còn nằm trong phần nguyên tắc. Khi đi vào thực tế, các mục tử còn thấy nhiều khó khăn khác nữa. Thí dụ như tại nhiều nơi Giáo Hội có thể có nghĩa trang riêng, và tổ chức các nghi thức tại đó tùy tiện. Nhưng các lò hỏa thiêu thì do Nhà nước quản lý, và được điều hành theo luật lao động, nếu chưa dám thêm là theo quy tắc của Sở vệ sinh. Chính vì thế mà sự hiện diện của thân nhân tại những nơi này đã gặp nhiều trở ngại rồi, phương chi là sự có mặt của các giáo sĩ để thi hành lễ nghi tôn giáo. Kế đó, phải xử sự như thế nào đối với tro tàn: tung bay theo chiều gió, đổ xuống sông, lưu trữ ở nơi công cộng, hay mang về gia đình? Đó là những thắc mắc mà các Hội đồng Giám Mục Âu Mỹ đang nghiên cứu.
“Te Deum” là hai tiếng đầu của một bài thánh thi. Nếu muốn trích cho trọn câu, thì phải nói “Te Deum laudamus”: Chúng con ngợi khen Chúa. Thực ra phụng vụ không phải chỉ hát bài ca này mỗi năm một lần vào dịp tất niên đâu! Nếu ai thường xuyên tham dự phụng vụ Giờ kinh thì sẽ có dịp đọc thánh thi này vào giờ Kinh Sách các Chúa Nhật ngoài mùa Chay cũng như vào các lề trọng và lễ kính. Vì vậy mà thánh ca đó cũng đã được dịch ra Việt ngữ, trong sách “Giờ kinh Phụng vụ”. Duy có điều đáng lưu ý là nếu mở cuốn “Giờ kinh Phụng vụ”, tại phần chung Kinh sách, thì chúng ta có thể thấy ghi chú là những câu cuối có thể bỏ; vì thế mà trong tờ phụ trương in rời, không có những câu đó.
Phải thú nhận rằng kinh Te Deum khá dài, và nếu hát thì cũng mất thời giờ không ít. Tuy nhiên, lý do mà từ khi cải tổ sách nguyện sau Công Đồng Vaticanô II, phụng vụ cho phép bỏ những câu cuối cùng không phải là tại vì muốn tiết kiệm thời giờ nhưng vì thấy chúng không ăn khớp với văn mạch của toàn thể thánh thi. Không biết chị đã bao giờ đọc thánh thi này chưa, nhưng dù sao tôi muốn lợi dụng cơ hội này để trình bày và phân tích nội dung của nó cho cả những người đã đọc hay hát nhiều lần song không lưu tâm tới ý nghĩa của nó.
Thánh thi này gồm có hai phần chính. Phần thứ nhất là một bài tán tụng lên Thiên Chúa Cha và kết thúc với lời chúc tụng Ba Ngôi Thiên Chúa. Phần thứ hai được dành riêng để chúc tụng Đức Kitô. Chúng ta hãy mở thánh thi theo bản dịch Việt ngữ để theo dõi tư tưởng.
Thánh thi bắt đầu với lời tán tụng dâng lên Thiên Chúa Cha với những lời như sau: “Lạy Thiên Chúa, chúng con xin ca ngợi hát mừng, tuyên xưng Ngài là Đức Chúa” (Như đã nói trên đây, chính những lời đầu tiên đã đặt tên cho toàn bài thánh thi, trong nguyên bản La Tinh là: Te Deum laudamus, te Dominum confitemur). Những lời chúc tụng tiếp đó mang cung giọng của Kinh Tiền Tụng trong Thánh Lễ, hợp xướng với các thiên thần, các tông đồ, các ngôn sứ, các vị tử đạo.
Xin đọc tiếp nguyên văn như sau: “Chúa là Cha, Đấng trường tồn vạn đại, / hoàn vũ này kính cẩn suy tôn. Trước nhan Chúa, các tổng thần phủ phục,/ mọi thiên thần và đạo binh thiên quốc đều cảm tạ và cung chúc tôn thờ,/ chẳng khi ngừng vang dậy tiếng tung hô: Thánh! Thánh! Chí thánh! Chúa Tể càn khôn là Đấng Thánh! Trời đất rạng ngời vinh quang Chúa uy linh. Bậc Tông đồ đồng thanh ca ngợi Chúa, / Bao vị ngôn sứ tán tụng Ngài. Đoàn tử đạo quang huy hùng dũng,/ máu đào đổ ra minh chứng về Ngài,/ và trải rộng khắp nơi trần thế/ Hội Thánh Ngài hoan hỉ tuyên xưng.”
Nãy giờ các lời chúc tụng đều hướng lên Chúa Cha; bây giờ trước khi kết thúc phần thứ nhất, tác giả mới hướng lên toàn thể Ba Ngôi với công thức ngắn gọn như sau: “Chúa là Cha lẫm liệt uy hùng, và Con Một Ngài chí tôn chí ái, cùng Thánh Thần, Đấng an ủi yêu thương”.
Vấn đề tác giả của bài thánh thi này là cả một câu hỏi gai góc đặt ra cho các sử gia. Tôi sẽ trở lại vấn đề đó. Tạm thời chúng ta đi tiếp theo nội dung của thánh thi.
Trong phần thứ nhất, chúng ta đã thấy những lời chúc tụng dâng lên Chúa Cha, kết thúc với công thức hướng về Chúa Ba Ngôi. Phần thứ hai gồm những lời chúc tụng và khẩn nài dâng lên Đức Kitô, Đấng Cứu chuộc nhân loại nhờ mầu nhiệm Nhập Thể, thập giá, phục sinh.
Những lời ấy như sau: “Lạy Đức Kitô, Con Chúa Trời hằng sống,/ Ngài là Chúa hiển vinh/ đã chẳng nề mặc lấy xác phàm/ nơi cung lòng Trinh nữ/ hầu giải phóng nhân loại lầm than. Ngài đã ra tay chiến thắng tử thần,/ mở cửa trời cho những ai tin tưởng. Ngài hiển trị bên hữu Chúa Cha,/ ngày cuối cùng sẽ giáng lâm thẩm phán. Cúi lạy Chúa, xin phù hộ bề tôi/ Ngài cứu chuộc bằng bửu huyết tuôn tràn. Xin được hợp đoàn cùng muôn thần thánh,/ phúc miên trường vui hưởng ánh vinh quang”.
Đó là hai phần chính của thánh thi, mang giọng văn tán tụng tạ ơn. Sang đến phần thứ ba thì chúng ta thấy một thể văn khác, coi như lạc đề.
Đúng như vậy. Phần còn lại của bài thánh thi xem ra không phải do cùng một tác giả sáng tác, mà chỉ là những câu xướngđáp rút từ các thánh vịnh. “Lạy Chúa, xin cứu độ dân Ngài, trên gia nghiệp này, giáng muôn phúc cả”. Đây là câu trích từ thánh vịnh 28 câu 9.
Tiếp theo là câu 2 của Tv 145 như sau: “Ngày lại ngày, chúng con chúc tụng Chúa, và ca ngợi Thánh Danh muôn thuở muôn đời”. Duy có câu tiếp theo đây là không trích từ thánh vịnh: “Hôm nay, xin Ngài giữ chúng con sạch tội”. Lời nguyện này xem ra được bộc phát vào lúc ban mai (khi bắt đầu một ngày mới) tác giả xin Chúa giữ gìn suốt ngày được sạch tội, hầu sống trong ơn nghĩa Chúa.
Đáp lại lời xướng đó là một câu trích từ thánh vịnh 123, câu 3: “Dủ lòng thương, lạy Chúa, xin dủ lòng thương”. Tiếp theo là hai vế rút từ thánh vịnh 33 câu 22: “Xin đổ tình thương xuống chúng con, lạy Chúa,/ như chúng con hằng trông cậy nơi Ngài”.
Hai vế cuối cùng lấy từ thánh vịnh 31 câu 2: “Con trông cậy nơi Ngài, lạy Chúa,/ xin đừng để con phải tủi nhục bao giờ”.
Có một truyền thống cho rằng thánh thi này do hai thánh Ambrôxiô và Augustinô sáng tác. Sau khi Augustinô được ơn trở lại nhờ sự hướng dẫn của Thánh Ambrôxiô (giám mục Milanô) và lãnh bí tích rửa tội, thì hai cha con cảm hứng cất lên bài ca tạ ơn: người này xướng và người kia hoạ.
Tuy nhiên theo các sử gia, đó chỉ là một huyền thoại ra đời vào thế kỷ XI, chứ những tường thuật đương thời về biến cố trở lại của Augustinô không hề nói tới chuyện đó. Hơn thế nữa, các thủ bản cổ điển của thánh thi quy gán cho những tác giả khác nhau. Đây là cả một vấn đề mà các học giả đang tranh luận: có người cho rằng tác giả là Thánh Xiprianô (thế kỷ III), số đông hơn thì gán cho Nixêta, giám mục Rêmêsi (đầu thế kỷ V).
Có người thì cho rằng bài thánh thi này do nhiều người soạn, theo nghĩa là có lẽ lúc đầu chỉ có lời chúc tụng ở phần thứ nhất, rồi sau đó mới thêm phần thứ hai. Còn phần thứ ba, thì như đã nói, hoàn toàn lạc đề, bởi vì gồm những câu xướng đáp rút từ các thánh vịnh.
Chúng ta không biết chắc chắn ai là tác giả của thánh thi này; bởi đó chúng ta cũng chẳng biết chủ đích của nó, nghĩa là: viết cho ai? để làm gì? Chúng ta chỉ có thể theo dõi tập tục của Giáo Hội đã sử dụng thánh thi này vào những cơ hội nào mà thôi.
Trên đây tôi đã nói là phụng vụ không phải chỉ hát mỗi năm một lần vào dịp tất niên. Đối với những ai không quen thuộc với đời sống phụng vụ, thì họ được nghe hát bài Te Deum vào những dịp tạ ơn long trọng. Có lẽ tục lệ này bắt nguồn từ truyền thuyết cho rằng thánh thi này do hai thánh Ambrôxiô và Augustinô sáng tác để tạ ơn Chúa sau khi Augustinô được ơn trở lại.
Theo các sử gia, tục lệ hát kinh này vào dịp tạ ơn tương đối hơi muộn, nghĩa là khoảng thế kỷ VIII: thánh thi Te Deum được hát vào dịp tấn phong giám mục, viện phụ hay là lễ đăng quang các vua, để chúc tụng ngợi khen Chúa luôn luôn dìu dắt dân của Người.
Tuy nhiên, thánh thi đã được du nhập vào phụng vụ sớm hơn, qua một cửa ngõ khác. Nhiều bộ luật của các đan sĩ, trong đó có cả luật của Thánh Biển-đức (526), đã buộc hát kinh Te Deum vào kinh đêm (Matutinum) các ngày Chúa Nhật. Đăc biệt là các quy luật phụng vụ cổ thời đã gắn liền hai kinh Te Deum với kinh Gloria (tức là kinh “Vinh danh Thiên Chúa”) với nhau, nghĩa là ngày nào trong Thánh Lễ có hát kinh “Gloria” thì trong kinh thần vụ cũng hát kinh “Te Deum”. Không rõ vì lý do gì mà hai thánh thi đó lại được ghép lại với nhau. Duy có điều khá rõ là bố cục của chúng rất giống nhau.
Kinh Te Deum gồm có hai phần chính: phần đầu gồm những lời tôn vinh Chúa Cha; phần thứ hai là những lời chúc tụng Đức Kitô.
Kinh Vinh Danh cũng vậy. Sau lời ca tụng của các thiên sứ “Vinh danh Thiên Chúa trên các tầng trời, và bình an dưới thế cho người thiện tâm”, chúng ta thấy có hai phần chính.
Phần đầu là tôn vinh Chúa Cha, dưới nhiều danh hiệu: “Thiên Chúa, Vua trên trời, Cha toàn năng”; thái độ của chúng ta là “ca ngợi, chúc tụng, tôn vinh, cảm tạ”.
Kế đến, phần thứ hai hướng đến Đức Kitô, cũng với nhiều danh hiệu: “Ngài là Con Một Thiên Chúa, Thiên Chúa, Chiên Thiên Chúa, Con Đức Chúa Cha, Đấng Thánh, Đấng Tối cao”. Kèm với những lời chúc tụng là ba lời khẩn nài: “xin thương xót chúng con, xin nhậm lời chúng con cầu khẩn, xin thương xót chúng con”. Mãi đến khi kết thúc, chúng ta mới thấy công thức dành cho Ba Ngôi: “cùng với Chúa Thánh Thần trong vinh quang Đức Chúa Cha. Amen”.
Chính bố cục gồm hai phần và nhấn mạnh đến thiên tính của Đức Kitô trong phần thứ hai, đã đưa một số học giả kết luận rằng hai thánh thi Te Deum và Vinh Danh đã ra đời trong cùng bối cảnh không gian và thời gian, nghĩa là nhằm chống lại lạc giáo Ariô, chối bỏ thiên tính Đức Kitô.
Ngày đầu năm mới, 1 tháng giêng, là ngày thế giới cầu nguyện cho hoà bình. Nó mở đầu cho một chuỗi các ngày thế giới cầu nguyện trải dài suốt năm, nhưng nên biết là nó không phải là niên trưởng xét theo thời gian. Chúng ta sẽ có dịp đối chiếu khi đi vào nguồn gốc của chúng. Tuy nhiên, chúng ta sẽ điểm qua các ngày thế giới cầu nguyện dựa theo thứ tự các tháng trong năm chứ không theo lịch sử thiết lập.
Ngày thế giới cầu nguyện cho hoà bình do Đức Phaolô VI thiết lập ngày 8/12/1967, nghĩa là hai năm sau khi bế mạc Công Đồng Vaticanô II. Đức thánh cha ước muốn rằng ngày đầu năm dương lịch, vào lúc hoạch địch chương trình cho năm mới, một chỗ đứng quan trọng phải được dành cho hoà bình. Hoà bình là một đề tài suy tư, học hỏi, cầu nguyện, và hành động. Ngày thế giới cầu nguyện cho hoà bình được cử hành lần đâu tiên vào ngày 1/1/1968. Mỗi năm một chủ đề được chọn và được khai triển thành một sứ điệp.
Sang đến tháng 2, ta có hai ngày do Đức Gioan Phaolô II thiết lập: ngày 2 tháng 2, lễ Đức Mẹ dâng con vào đền thờ được dành để cầu nguyện cho các phần tử đời sống thánh hiến. Tuy tục lệ này đã lưu hành tại Rôma từ sau Công Đồng Vaticanô II, nhưng được chính thức nhìn nhận và phổ biến khắp thế giới sau khi công bố Tông Huấn Hậu Thượng Hội Đồng Giám Mục bàn về đời sống thánh hiến, vào ngày 25 tháng 3 năm 1996.
Trong sứ điệp gửi toàn thể Hội Thánh, ĐTC nêu ra ba mục tiêu chính của nó: 1/ Tạ ơn Thiên Chúa vì hồng ân thánh hiến ban cho Hội Thánh; 2/ Cổ võ sự hiểu biết và trân trọng hồng ân này giữa lòng Dân Chúa; 3/ Giúp các phần tử tận hiến ý thức hơn về ơn gọi của mình.
Trong tháng 2, chúng ta còn gặp một ngày cầu nguyện nữa, vào ngày 11, (lễ nhớ Đức Mẹ hiện ra tại Lộ đức), được ấn định làm Ngày Cầu Cho Các Bệnh Nhân từ năm 1993. Hằng năm Hội đồng Tòa Thánh đặc trách về mục vụ y tế tổ chức một cuộc hội thảo tại một thánh điện kính Đức Mẹ rải rác trên khắp năm châu (Lourdes, Fatima, Czestochova, Loreto, vv) và phát hành một sứ điệp.
Có chứ. Vào Chúa Nhật chót trong tháng Giêng, ta có thể kể ra ngày cầu cho các bệnh nhân phong cùi do ông Raoul Follereau (17/8/1903-6/12/1977) đề xuất năm 1954.
Tại Italia, trong tháng 2, một ngày được dành cho sự sống do Hội Đồng Giám Mục địa phương thiết lập cách đây 24 năm sau khi Quốc Hội nước này biểu quyết luật cho phép phá thai.
Sang đến tháng 3, ngày mồng 8, như chị đã biết, nhiều nơi trên thế giới cử hành Ngày Quốc Tế Phụ Nữ, nhưng đó là ngày biểu tình học hỏi chứ không phải là ngày cầu nguyện. Tuy nhiên biết đâu trong tương lai, nó sẽ được thánh hóa cũng tựa như ngày 1 tháng 5, Lễ Quốc Tế Lao Động. Trong tháng 3, tại Italia, ngày 19 lễ Thánh Giuse được dành để mừng Các Người Cha, tương tự như Chúa Nhật thứ hai trong tháng 5 dành cho Các Bà Mẹ. Tục lệ này mang tính cách địa phương, nhưng chưa trở thành quốc tế, và chỉ là cơ hội để ăn nhậu và tặng quà chứ không phải để cầu nguyện.
Có một ngày dành cho con nít, đó là ngày 6 tháng giêng, lễ Hiển Linh, kỷ niệm ba nhà đạo sĩ mang lễ vật đến cho Chúa Hài Đồng. Vì thế vào dịp này, người ta cũng tặng quà cho các nhi đồng. Nên biết là các nhi đồng Âu Châu nhận quà vào các cơ hội khác nhau: ở Balan, vào ngày 6 tháng 12 (lễ Thánh Nicola), ở Pháp và Anh vào đêm Giáng sinh. Đó là nói theo truyền thống cổ xưa. Ngày nay thì người ta tặng quà cho cả người lớn nữa, cũng tựa như ở Việt Nam người ta mang bánh Trung Thu của nhi đồng biếu các ông lớn vậy.
Thôi chúng ta hãy tạm biệt các nhi đồng để lên một lứa tuổi cao hơn. Tôi muốn nói tới Ngày Quốc Tế Bạn Trẻ, được mừng vào Chúa Nhật Lễ Lá. Cũng tương tự như ngày dành cho các đời Tận Hiến và cho các Bệnh Nhân, nguồn gốc của nó mang tính cách địa phương. Đức Gioan Phaolô II đã muốn mở rộng ra cho toàn thế giới từ năm 1985, nhân dịp Năm Quốc Tế Giới Trẻ do Liên Hợp Quốc khởi xướng. Kể từ năm 1986 đến nay, đức thánh cha gửi một sứ điệp cho họ. Các bạn trẻ được mời gọi bắt chước các thanh thiếu niên tại Giêrusalem hãy ra đón Đức Kitô đến viếng thăm họ.
Trong mùa Phục Sinh, Chúa Nhật thứ IV được dành để Cầu Cho Ơn Thiên Triệu. Thực ra, vào năm 1961, Đức Gioan XXIII đã thiết lập một ngày cầu nguyện cho ơn thiên triệu giáo sĩ nhưng chỉ giới hạn trong nước Italia. Trong thời gian họp Công Đồng Vaticanô II, một kỷ niệm quan trọng diễn ra, đó là 400 năm sắc lệnh Công Đồng Trentô thiết lập các chủng viện.
Nhân cơ hội này, ngày 23/1/1964, Đức Phaolô VI quyết định dành một ngày cầu nguyện cho ơn thiên triệu giáo sĩ, được chỉ định vào Chúa Nhật Chúa Chiên lành, (nay là Chúa Nhật IV Phục Sinh). Nên biết là vào lúc đầu, chủ đích của ngày này là cầu nguyện cho ơn thiên triệu linh mục; nhưng gần đây, nó được mở rộng ra đến ơn gọi vào đời sống tận hiến và kể cả ơn gọi các giáo dân dấn thân vào công cuộc truyền giáo. Một sứ điệp của Đức Thánh Cha được công bố nhân dịp này.
Vào khoảng cuối mùa Phục Sinh, chúng ta có ngày Thế Giới Truyền Thông Xã Hội. Đây là một sáng kiến của Công Đồng Vaticanô II trong sắc lệnh về Truyền Thông Xã Hội được ban hành ngày 4/12/1963. Văn kiện này ước mong thiết lập một cơ quan Tòa Thánh đặc trách về ngành này, cũng như dành một ngày trong năm để gây ý thức trong Giáo Hội về tầm quan trọng của các phương tiện truyền thông đại chúng.
Nhằm thực thi quyết nghị của công đồng, Đức Phaolô VI thành lập Ủy Ban Tòa Thánh (nay đổi lại là Hội Đồng Tòa Thánh) về truyền thông xã hội, và cơ quan này đề nghị dành Chúa Nhật sau lễ Chúa Lên Trời làm Ngày Truyền Thông Xã Hội, kể từ năm 1967. Tuy nhiên, vì tại nhiều nơi, lễ Chúa Lên Trời được dời vào Chúa Nhật, cho nên nhiều Hội Đồng Giám Mục đã xin chuyển Ngày Truyền Thông Xã Hội sang một dịp khác. Mỗi năm vào ngày lễ Thánh François de Sales, bổn mạng các ký giả, sứ điệp của Đức Thánh Cha nhân ngày truyền thông được giới thiệu cho báo chí.
Tự bản chất, lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống nhắc nhở Hội thánh về sứ mạng truyền giáo. Nhưng ngày cầu nguyện cho việc truyền giáo được cử hành vào tháng 10 như sẽ nói sau. Tại vài nơi, người ta cũng dành tuần trước lễ Hiện Xuống để cầu cho sự hiệp nhất giữa các Kitô Hữu, mặc dù phần lớn các Giáo Hội cầu nguyện cho sự hiệp nhất trong tuần lễ từ 18 đến 25 tháng giêng.
Dù sao, không đầy ba tuần sau lễ Hiện Xuống thì phụng vụ cử hành lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu, được chỉ định làm ngày cầu nguyện cho cuộc Thánh Hóa Các Giáo Sĩ. Đức Thánh Cha không gửi một sứ điệp nào cho ngày này, nhưng vào ngày thứ năm tuần thánh, các linh mục đã nhận được một lá thư để suy gẫm, và chính trong lá thư năm 1995 Đức Gioan Phaolô II đã ngỏ ý thiết lập ngày này.
Như vừa nói, Ngày Thế Giới Cầu Nguyện Cho Công Cuộc Truyền Giáo diễn ra vào Chúa Nhật áp chót trong tháng 10. Xét về niên tuế, thì phải xếp vào hạng lão thành trong số các ngày thế giới cầu nguyện, bởi vì được Đức Piô XI thiết lập ngày 14/4/1926, theo lời đề nghị của Hội Giáo Hoàng Truyền Bá Đức Tin. Tuy ngày thế giới truyền giáo đầu tiên được cử hành năm 1927, nhưng mãi đến năm 1930 thì vị Tổng Thư Ký Bộ Truyền Giáo mới có tục lệ gửi một lời hiệu triệu mỗi năm.
Từ năm 1963, lời hiệu triệu này được thay thế bằng một sứ điệp của chính đức thánh cha. Với ngày thế giới truyền giáo, ta có thể coi như chấm dứt các ngày thế giới cầu nguyện trong năm.
Tùy chị hiểu lễ Tạ Ơn theo nghĩa nào. Đối với người Hoa Kỳ, lễ Tạ Ơn là một lễ quốc gia, diễn ra vào ngày thứ Năm chót của tháng 11 và mang tính cách dân sự: chủ yếu của lễ Thanksgiving là bữa tiệc. Tại Italia, cũng có lễ Tạ Ơn vào Chúa Nhật II trong tháng 11 do Hiệp Hội Nông Dân khởi xướng, sau khi kết thúc các vụ gặt hái. Và dĩ nhiên, nhiều nơi dành ngày 31/12, cuối năm dương lịch để hát kinh Tạ Ơn Chúa vì một năm sắp kết thúc. Tất cả đều là phong tục địa phương.
Dù sao, thiết tưởng cũng nên nhắc qua vài sáng kiến cầu nguyện khác trong tháng 11. Vào ngày 1 tháng 11, Lễ Các Thánh, tại Italia, có nhiều nơi đề xướng làm ngày “thế giới cầu nguyện cho việc nên thánh”, một ơn gọi của tất cả mọi Kitô Hữu như Công Đồng Vaticanô II đã khẳng định ở chương năm Hiến Chế về Hội Thánh.
Rồi Chúa Nhật III trong tháng 11 dành cho những người di cư tị nạn. Đây là một ngày cầu nguyện bắt nguồn từ Italia, nơi đã có nhiều người di cư lập nghiệp. Nhưng gần đây, nó mang tầm mức quốc tế, tuy được cử hành vào những ngày tháng khác nhau tùy địa phương.