Kể từ sau Công Đồng Vaticanô II, việc nên thánh không còn được xem là độc quyền của một số thành phần ưu tuyển trong Giáo Hội, nhưng đó là ơn gọi chung của tất cả những ai đã chịu phép rửa. Để nói lên tính cách phổ quát của ơn gọi và bổn phận nên thánh, trong những thập niên gần đây, Giáo Hội đã tôn phong chân phước hoặc hiển thánh cho rất nhiều người sống bậc vợ chồng. Vì thế, khi nói đến một nền tu đức cho bậc vợ chồng, chúng tôi muốn hiểu đó là một con đường mà các đôi vợ chồng phải đi qua để đạt đến sự trọn lành trong bậc sống của họ. Đó là con đường giúp họ thực hiện ơn gọi đặc thù trong bậc vợ chồng.
1. Với kiểu nói một nền tu đức cho bậc vợ chồng, phải chăng có một nền tu đức dành riêng cho họ? Công Đồng Vaticanô II chẳng nói đến một ơn gọi nên thánh chung dành cho mọi người chịu phép rửa sao?
Quả thực, tất cả mọi người đều được mời gọi và có bổn phận phải nên thánh, nhưng do sự khác biệt của cá tính cũng như địa vị, bậc sống và cảnh huống, nên có muôn nghìn con đường để sống ơn gọi nên thánh. Ngày nay, người tín hữu Kitô không thể mô phỏng cuộc sống của các tín hữu thời tiên khởi và ngay cả chính nếp sống của Chúa Giêsu, tức là nếp sống của một thời đại cách chúng ta hơn 2000 năm.
Mỗi người có những điều kiện sống riêng, nên không thể không có những phương thế thực hiện ơn gọi nên thánh không giống những người khác. Một vị ẩn tu trong sa mạc có lối sống hay có nền tu đức khác với nhà truyền giáo. Một nữ tu trong dòng kín có lối sống và nền tu đức khác với một người mẹ trong gia đình. Có một cốt lõi chung cho mọi người là phép rửa. Nhưng những phương thế thực hiện cốt lõi ấy lại khác nhau đối với từng người. một niềm tin duy nhất hướng dẫn cuộc lữ hành, nhưng có nhiều cách thế khác nhau để sống cùng một niềm tin ấy. Do những điều kiện sống hoặc do những đặc sủng khác nhau, mỗi người có thể có một cách thế nên thánh riêng cho mình.
Chúng ta có thể nhìn vào vô số các dòng tu trong Giáo Hội để hiểu được sự khác biệt ấy. Người ta nói đến nền tu đức của Dòng Tên, Dòng Phanxicô, Dòng Đaminh, Dòng Biển Đức, v.v.. có bao nhiêu dòng tu thì có bấy nhiêu nền tu đức. Chúng ta có thể nói, có bao nhiêu hoàn cảnh sống thì có bấy nhiêu nền tu đức. Sống và thực thi ơn gọi nên thánh trong những điều kiện và hoàn cảnh đặc biệt; thiết tưởng, các đôi vợ chồng cũng có một cách thế nên thánh hoặc một nền tu đức riêng của họ.
2. Trong số 56 của Tông Huấn về Đời sống hôn nhân và gia đình, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã khẳng định: “Ơn gọi nên thánh phổ quát cũng được ngỏ đối với các đôi vợ chồng và các bậc cha mẹ Kitô hữu, ơn gọi này được nêu bật trong bí tích Hôn Phối và được thực hiện một cách cụ thể trong thực tế của cuộc sống hôn nhân”. Từ đó phát sinh ơn thánh và sự đòi hỏi phải có một nền tu đức đích thực và sâu xa cho hôn nhân và gia đình.
Để hiểu thế nào là một nền tu đức dành riêng cho các đôi vợ chồng, thiết tưởng chúng ta không có một nền tảng nào vững chắc hơn giáo huấn của Công Đồng Vaticanô II. trong số 40 của Hiến Chế về Mầu nhiệm Giáo Hội, Công Đồng đã dạy: “Tất cả mọi tín hữu dù thuộc địa vị hay bậc sống nào, đều được kêu gọi tiến đến sự viên mãn của đời sống Kitô và sự trọn lành của Đức Ái”.
Khẳng định trên đây của Công Đồng là sự lặp lại chính mệnh lệnh của Chúa Giêsu: “Các con hãy nên trọn lành như Cha các con ở trên trời là Đấng trọn lành”. Trở nên trọn lành tức là nên thánh. Điều đó cũng có nghĩa là thể hiện ơn gọi làm người. Tất cả mọi người đều được kêu gọi. Không ai có thể nói mình được chọn hoặc bị Thiên Chúa đặt vào trong một điều kiện xấu hơn hay ưu đãi hơn. Không ai sinh ra dưới một ngôi sao xấu hay tốt hơn người khác. Và cũng không có địa vị, bậc sống này cao trọng hơn địa vị hay bậc sống khác.
3. Nhân một buổi tiếp kiến chung năm 1982, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã khẳng định trong một bài huấn đức: “Những lời dạy của Chúa Giêsu không hề có một chút hàm ý nào về sự thấp hèn của hôn nhân. Những lời của Người không đưa ra bất cứ một luận cứ nào về sự thấp hèn của bậc hôn nhân hay về sự trổi vượt của bậc đồng trinh hay độc thân”.
Cũng trong Hiến Chế về Mầu Nhiệm Hội Thánh, Công Đồng Vaticanô II không ngần ngại gọi tất cả tín hữu là những người được thánh hiến. Trong số 41 của cùng một văn kiện, Công Đồng dạy rằng: “Trong và nhờ cảnh huống, bổn phận và hoàn cảnh sống của mình, mọi Kitô hữu ngày càng được thánh thiện hơn nếu biết tin tưởng lãnh nhận mọi sự từ tay Cha trên trời, và biết cộng tác với ý Thiên Chúa bằng cách tỏ lộ cho mọi người biết tình yêu của Ngài đối với thế giới trong chính việc họ phục vụ trần thế”.
Những dòng trên đây của Công Đồng giúp chúng ta hiểu được sự cần thiết phải có một nền tu đức riêng cho đời sống vợ chồng. Các đôi vợ chồng đạt đến sự thánh thiện nhờ và trong chính bậc sống của họ. Tự nó, bậc hôn nhân là một mô thức sống đức ái. Nó có những tiện lợi và bất tiện của nó. Nó có những ơn riêng và những nguy hiểm của nó. Nó có thể tạo thành thiên đàng mà cũng có thể là hoả ngục.
Tu đức là con đường gồm những phương thế để sống ơn gọi Kitô hữu trong một bậc sống và một hoàn cảnh cụ thể. Nói cách khác, tu đức là con đường để nên thánh. Tất cả mọi người đã chịu phép rửa đều được mời gọi và có bổn phận nên thánh. Nhưng dĩ nhiên, vì mỗi người có một bậc sống riêng, cho nên mỗi người có một con đường riêng để nên thánh. Linh mục có con đường tu đức riêng của linh mục, tu sĩ có con đường tu đức riêng của tu sĩ, giáo dân có con đường tu đức riêng của giáo dân. Trong bậc giáo dân, những đôi vợ chồng Kitô hữu cũng có con đường tu đức riêng của mình. Con đường tu đức của vợ chồng như thế nào, đó là điều chúng tôi cố gắng trình bày sau đây.
1. trong số 48 của Hiến Chế Vui Mừng và Hy Vọng, Công Đồng đã dạy: “Các đôi vợ chồng Kitô hữu được củng cố và như thể được thánh hiến bằng một bí tích riêng để lãnh nhận các bổn phận và phẩm giá của bậc sống họ. Nhờ sức mạnh của bí tích này họ được thấm nhuần tinh thần Chúa Kitô, để chu toàn bổn phận hôn nhân và gia đình của họ. Do đó, tất cả đời sống của họ được thấm nhuần đức Tin, Cậy, Mến và càng ngày họ càng tiến gần hơn tới sự trọn lành riêng biệt của họ cũng như thánh hoá lẫn nhau và nhờ đó tôn vinh Thiên Chúa”.
Để hiểu được tinh thần của giáo huấn trên đây, thiết tưởng chúng ta phải vượt qua hai khuynh hướng đối nghịch nhau.
Trước hết, ngay cả vẫn còn nhiều người ngày nay cho rằng, nên thánh là chuyện dành riêng cho các tu sĩ và linh mục. Sống thánh giữa đời là chuyện không tưởng. Muốn nên thánh không có con đường nào khác hơn là xa lánh thế gian tội lỗi.
Đối lại với khuynh hướng trên đây, ngày nay có nhiều người chủ trương, để nên thánh, cần phải dấn thân; và để dấn thân người ta cần phải vượt qua những ranh giới của gia đình và tích cực tham gia vào các tổ chức và hoạt động của giáo xứ, giáo phận. Quả thực trong xu thế mới này hiện có không biết bao giáo dân tham gia tích cực vào các hoạt động của giáo xứ như: ca đoàn, dạy giáo lý, công giáo tiến hành.
Nói chung, những hoạt động bên ngoài gia đình như một thức tỉnh của người giáo dân quả là một điểm son trong Giáo Hội. Tuy nhiên, đàng sau những hoạt động ấy là cơn cám dỗ muốn quên đi những nghĩa vụ và sự thánh hoá trong gia đình khi nghĩ rằng, những hoạt động bên ngoài ấy là con đường duy nhất để người giáo dân được nên thánh.
2. Khuynh hướng này có lẽ bắt nguồn từ một quan niệm cho rằng, giá trị của con người dược đo lường bằng mức độ dấn thân trong xã hội. Phong trào đấu tranh cho nữ quyền cũng được xây dựng trên quan niệm ấy. Người ta cho rằng, giải phóng người phụ nữ cũng có nghĩa là giải phóng họ khỏi những công việc nội trợ âm thầm trong gia đình. Nhiều người giáo dân đã bị giao động vì một quan niệm như thế, nhất là những người không có khả năng hay không có cơ hội tham gia vào những sinh hoạt đoàn thể của giáo xứ.
Quan niệm muốn nên thánh, cần xa lánh thế gian; hay ngược lại, chủ trương, muốn nên thánh, cần phải dấn thân hoạt động xã hội đều là những thái cực đi ngược lại tinh thần của Công Đồng. Công Đồng đề cao đời sống chiêm niệm cũng như hoạt động, nhưng đồng thời cũng nêu bật giá trị của chính nếp sống gia đình. Người Kitô hữu nên thánh bằng những xả thân hoạt động bên ngoài gia đình, nhưng cũng đạt được sự hoàn thiện bằng mối quan hệ và trong chính mối quan hệ vợ chồng.
Thực ra, hôn nhân được Chúa nâng lên hàng bí tích bởi lẽ tình yêu vợ chồng là dấu chứng của tình yêu Thiên Chúa đối với con người. Với lời thề hứa trong bí tích Hôn Phối, hai người phối ngẫu cam kết sẽ sống yêu thương nhau, chung thuỷ với nhau đến độ trở thành một dấu chứng, một bằng chứng của tình yêu Thiên Chúa đối với loài người. Yêu nhau, thuỷ chung với nhau, xây dựng tình yêu lứa đôi chính là bổn phận tiên quyết của đôi vợ chồng. Tình yêu ấy dẫn đến tình yêu và sự dưỡng dục con cái. Tình yêu ấy cũng thúc đẩy hai người hăng say hoạt động bên ngoài gia đình. Không có tình yêu ấy thì tất cả những hoạt động bên ngoài gia đình chỉ là những lẩn tránh thiếu trách nhiệm. Không thiếu những người giáo dân siêng năng việc nhà thờ nhưng lại lơ là việc gia đình; không thiếu những người giáo dân cho sự có mặt ở nhà thờ quan trọng hơn những bổn phận trong gia đình. Nhiệt thành trong công việc của Giáo Hội nhưng xao lãng bổn phận vợ chồng không thể được coi là một thái độ thánh thiện. Sự thánh thiện của đôi vợ chồng Kitô hữu trước tiên hệ tại việc xây dựng, củng cố tình yêu lứa đôi.
Người tín hữu Kitô cần có đôi mắt sâu sắc của niềm tin để nhìn tất cả mọi sự như là những biểu lộ của tình yêu bằng một cái nhìn trong sạch và thánh thiện. Trong đời sống vợ chồng, tất cả mọi biểu lộ của tình yêu đều là thánh thiện bởi đó là dấu chỉ của tình yêu Thiên Chúa đối với con người. Một ánh mắt, một âu yếm, một nụ hôn và tuyệt đỉnh của tất cả âu yếm là sự giao hợp vợ chồng đều là những hành động thánh thiện.
3. Trong một phúc âm ngụy thư, tức là sách không được Giáo Hội nhìn nhận là do linh ứng, kể lại rằng, một hôm có người hỏi Chúa Giêsu khi nào Nước Chúa đến. Người trả lời: khi nào hai người nên một.
Quả thực, sự nên một của hai người nam nữ tức tình yêu vợ chồng là dấu chỉ của Nước Chúa. Khi hai vợ chồng yêu thương nhau bằng một tình yêu quảng đại, hy sinh, chung thuỷ, khi họ cố gắng xây dựng và vun trồng tình yêu lứa đôi, thì chính là lúc họ làm chứng cho tình yêu của Chúa và tham dự vào sự thánh thiện của Ngài. Còn giá trị nào cao cả hơn tình yêu. Còn câu chuyện tình nào lãng mạn cho bằng Diễm Tình Ca, thế mà câu chuyện đó lại được Thiên Chúa mượn để nói lên tình yêu thánh thiện của Ngài đối với con người.
Sách Giảng Viên đã có một cái nhìn rất lành mạnh về tình yêu vợ chồng. Ở đoạn 9, 9, Côhelét đã khuyên người chồng như sau: “Hãy hưởng cuộc đời với người vợ ngươi yêu dấu suốt cả những ngày kiếp phù sinh của ngươi, những ngày Thiên Chúa ban cho ngươi ở dưới ánh dương”.
Yêu nhau, sống trọn cho nhau, hy sinh cho nhau, thuỷ chung với nhau. Đó là ơn gọi và đòi hỏi thiết yếu của những người sống bậc vợ chồng. Người ta không lấy nhau vì một mục đích nào khác hơn là tình yêu và đó là con đường nên thánh đích thực của các đôi vợ chồng. Xin được mượn lời của Đức Giáo Hoàng Piô V để kết thúc câu chuyện: “Tôi sẽ phong thánh tức khắc cho người đàn bà nào mà người chồng không bao giờ phàn nàn trách móc”.
N>ên thánh là ơn gọi và là nghĩa vụ của tất cả những ai đã chịu phép rửa. Nhưng với tư cách là vợ chồng, những người tín hữu Kitô có một cách thức riêng để sống và thực hiện ơn gọi nên thánh. Do một thành kiến từ lâu đời, nhiều người đề cao đời sống tận hiến trong dòng tu hoặc chức vụ linh mục, nhưng lại xem thường đời sống gia đình. Mỗi bậc sống đều là ơn gọi của Chúa, và ơn gọi nào cũng đều cao đẹp và có giá trị riêng của nó. Thế nào là ơn gọi làm vợ làm chồng? Đâu là sứ mệnh của các bậc làm cha mẹ? Tại sao gia đình là một Giáo Hội thu hẹp? Trả lời cho những câu hỏi đó tức là chân nhận rằng, có một con đường nên thánh dành riêng cho những người sống bậc vợ chồng.
1. Trong số 49 của Hiến Chế Vui Mừng và Hy Vọng, Công Đồng Vaticanô II đã đề cao ơn gọi sống đời gia đình như sau: “Để có thể kiên trì chu toàn nghĩa vụ ơn gọi làm người Kitô hữu như thế, tức là sống đời vợ chồng, cần phải có một nhân đức phi thường. Chính vì thế mà vợ chồng được ơn Chúa củng cố để sống thánh thiện sẽ ân cần nuôi dưỡng và cầu xin cho được một tình yêu kiên vững, một tâm hồn đại lượng và tinh thần hy sinh”. Những dòng trên đây của Công Đồng xác quyết rằng: Giáo Hội luôn đề cao và coi trọng đời sống hôn nhân. Thánh thiện không còn là độc quyền của những người tận hiến, hôn nhân không phải là một bậc sống thấp hèn hay chỉ là hạng hai trong Giáo Hội. Công Đồng lại khẳng định: Cần phải có một nhân đức phi thường, cần phải có những đức tính anh hùng mới có thể chu toàn bổn phận đời sống vợ chồng.
Đâu là những bổn phận của đời sống vợ chồng? Đâu là những trợ giúp của niềm tin Kitô trong việc chu toàn những bổn phận ấy?
Số 17 trong Tông Hiến Đời Sống Gia Đình do Đức Gioan Phaolô II ban hành khoảng đầu thập niên 80 đã xác định như sau: “Gia đình nhận lãnh trách nhiệm bảo toàn, nâng cao và thông truyền tình yêu là một phản ảnh sống động và thông dự thực sự vào tình yêu của Thiên Chúa đối với nhân loại”. Một cách cụ thể, gia đình đảm nhận bốn trách vụ sau:
Cơ bản và quan trọng nhất trong 4 trách vụ trên đây chính là xây dựng cộng đồng tình yêu. Tông Hiến giải thích: gia đình được thiết lập và sinh động bởi tình yêu là một cộng đồng gồm những con người: vợ chồng, cha mẹ, con cái, bà con thân thuộc.
Đức Gioan Phaolô II muốn vượt qua một mẫu gia đình khép kín, ích kỷ, hưởng thụ mà xã hội văn minh ngày nay đề cao. Đó là mẫu gia đình chỉ gồm có vợ chồng hoặc có một hay hai đứa con. Trong một gia đình mà sự hiện diện của một mầm sống hay của một đứa con bị xem như một gánh nặng, hoặc như một cản trở cho sự hưởng thụ; trong một gia đình mà sự hiện diện của người già cả bị xem như thừa thãi, trong một gia đình như thế hẳn không có tình yêu đích thực.
Sự cao cả của gia đình chính là xây dựng một cồng đồng yêu thương trước tiên trong ranh giới của chính nó. Và từ đó trải dài tình yêu ấy đến với mọi người chung quanh. Phải tu thân, tích đức, tề gia rồi mới có thể trị quốc và bình thiên hạ. Gia đình là tế bào nguyên thuỷ của xã hội. Nếu tế bào ấy không được lành mạnh; nếu gia đình chưa là một cộng đồng yêu thương, làm sao có thể nói đến xây dựng xã hội.
Người ta không cần phải ra khỏi nhà để làm công tác xã hội từ thiện. Không ai cần được yêu thương giúp đỡ cho bằng chính những người thân trong gia đình. Khi gia đình trở thành một mái ấm thực sự, khi gia đình trở thành một cộng đồng tình yêu thực sự, hơi ấm của tình người sẽ toả lan đến những người bên ngoài gia đình.
2. Tông Huấn của Đức Gioan Phaolô II về đời sống hôn nhân và gia đình trong số 21 đã nói đến việc xây dựng cộng đồng tình yêu trong gia đình như sau: “Tất cả mọi phần tử của gia đình, mọi người tuỳ theo năng khiếu riêng của mình đều nhận lãnh ân sủng và trách nhiệm để ngày qua ngày xây dựng sự thông hiệp giữa nhau. Nhờ thế, họ biến gia đình thành một trường dạy về nhân bản đầy đủ và phong phú nhất. Điều đó được thể hiện bằng sự săn sóc hay tình thương yêu đối với những người bé mọn, những người bệnh tật và người già cả, bằng việc phục vụ nhau mỗi ngày, bằng sự chia sẻ cho nhau của cải, niềm vui cũng như nỗi buồn. Một sự thông hiệp như thế chỉ có thể duy trì và thêm hoàn hảo nhờ tinh thần hy sinh mà thôi”.
Thực thế, để có sự thông hiệp giữa các phần tử trong gia đình, cần phải có sự sẵn sàng và quảng đại cao độ của tất cả và của từng người để cảm thông với nhau, khoan dung với nhau, tha thứ cho nhau, hoà giải với nhau.
Các tu sĩ thường nói với nhau: việc đền tội nặng nề nhất đối với tôi là đời sống chung. Thiết tưởng châm ngôn ấy càng phải áp dụng hơn cho đời sống gia đình. Việc đền tội nặng nề nhất của tôi là cuộc sống chung trong gia đình. Không cần một đặc sủng phi thường, không cần một cuộc sống khắc khổ như các vị ẩn tu trong sa mạc, cũng không cần phải là một tu sĩ mới có thể sống những nhân đức anh hùng. Đời sống hôn nhân và gia đình cũng có đủ những yếu tố để con người tập luyện những nhân đức anh hùng ấy.
3. Ngay từ những trang đầu của Kinh Thánh, chân lý về cuộc sống hôn nhân đã được hé mở với tất cả vẻ đẹp và những đòi hỏi của nó. Thật thế, Kinh Thánh nói: người đàn ông luyến ái với vợ mình và cả hai nên một thân xác. Nên một mà vẫn là hai, còn gì cao đẹp bằng; nhưng cũng không gì đòi hỏi bằng. Do đó, cuộc sống lứa đôi là một cố gắng không ngừng để trưởng thành trong nhân cách, nghĩa là trở thành chính mình hơn mà vẫn nên một với người khác. Hay đúng hơn, chính khi vượt qua những dị biệt, vượt qua khỏi chính mình để nên một với người khác mà con người đạt được sự trưởng thành.
Một tiến trình trưởng thành như thế đòi hỏi một sự hy sinh cao độ. Nhưng người tín hữu Kitô nhờ hồng ân của phép rửa và nhất là của bí tích Hôn Phối, sẽ đi vào tiến trình ấy với tất cả hân hoan và yêu thương. Họ biết rằng, khi sống yêu thương là họ ở trong Thiên Chúa.
Các tu sĩ được phong thánh không phải vì những hành động phi thường của họ, mà chính vì đức ái họ thực thi trong đời sống chung, hoặc cho những người khác. Cách tương tự, các đôi vợ chồng cũng đạt được sự trọn lành trong đời sống vợ chồng của mình nhờ những cố gắng thực thi đức ái cho nhau và cho mọi người trong gia đình.
I. TÂM LÝ VỢ CHỒNG TRẺ
II. LINH ĐẠO ĐỜI HÔN NHÂN