Chúng ta đã xem xét về bạn bè của Đức Giêsu khi Người đang chịu đóng đinh trên giá gỗ. Họ xuất hiện trước mắt Người và trước mắt các tín hữu tương lai. Bây giờ đến những kẻ thù nghịch. Con số này rất đông. Nhưng lòng căm thù của họ chỉ đạt đến cực điểm trên ngọn đồi Golgotha. Cuộc Khổ Nạn chỉ là giai đoạn cuối cùng của một cuộc khủng hoảng về luân lý dai dẳng. Sự bùng nổ xẩy ra do hai loại chất liệu tác động vào nhau. Lúc này là các kẻ thù, nếu chúng ta được phép gọi như vậy, và mức độ leo thang theo từng cấp bậc: Các binh lính, đám đông, Philatô, Hêrôđê, các lãnh đạo Do thái và Giuđa.
Binh lính trong cuộc khổ nạn của Chúa là các binh sĩ Roma, không phải đoàn kỵ binh (equites) của đội quân vinh hiển La Mã, mà là những kẻ đánh thuê thu thập từ các miền lân cận. Vì thế, có lẽ, không hoàn toàn sạch khỏi thành kiến và ảnh hưỡng Do thái. Quan toàn quyền có đội cận vệ riêng để canh gác cá nhân ông và trợ giúp thi hành mênh lệnh toà án. Đồn Antonia cũng là công đường. Công đường gồm một trại lính, một đội cận vệ và các tay chân khác có nhiệm vụ thi hành án quyết.
Nhưng những người này, tuy tính tình man rợ và bất nhân trong việc hành quyết Đức Giêsu, nhưng không chịu trách nhiệm nhiều. Họ chỉ tuân theo mệnh lệnh. Họ nghĩ mình chẳng làm chi sai trái khi thi hành án lệnh đã được lãnh đạo Do thái và cấp trên Roma ban ra. Hai quyền lực này hoàn toàn lãnh trách nhiệm. Việc hành quyết thể xác chỉ được coi như sự cộng tác vô tội.
Vì thế lời của Chúa Cứu Thế trên thập tự: “Lạy Cha, xin tha thứ cho chúng vì lầm không biết việc mình làm” phải được hiểu trước tiên chỉ về các binh lính, mặc dù xưa nay vẫn hiểu rộng đến các đối tượng khác. Trong tình huống này lời tuyên bố từ cây thập giá mang ý nghĩa chính xác công lý đối với các binh lính. Đức Giêsu xin ơn tha thứ cho họ, vậy thì họ thực sự có lỗi không phải vì việc họ làm, nhưng vì kiểu cách họ thực hiện việc ấy. Đúng thật, họ không biết ý nghĩa của lệnh truyền, mà chỉ biết thi hành bổn phận. Nhưng họ đã làm quá mức ấn định. Do đó gây đau khổ cho nạn nhân quá nhiều.
Lỗi của họ là như vậy, sự hăng hái mà họ đùng để thực hiện kế hoạch của cấp trên Do thái mang tính dã man vì xúc phạm tồi tệ đối với nạn nhân. Họ đã cộng thêm vào tội ác của kẻ khác tính thái qúa của riêng mình. Do đó họ là kẻ đầu tiên cần đến ơn tha thứ cao cả.
Khi Đức Giêsu nhìn xuống các binh sĩ này. Người lại liên tưởng đến đồn Antonia, phỏng 200 mét về phía bên trái thánh giá. Liệu Người có thể quên được nỗi nhục nhã phải chịu dưới bóng nghiêm nghị của nó? Trận đòn nhừ tử vài giờ trước đây? Trận đòn tan da nát thịt? Trận đòn được làm mới lại khi người ta lột áo Người! Da thịt còn dính vào vải áo, lại chẩy máu xối xả. Chúng ta có lý do để tin rằng hình phạt là quá mức cần thiết theo luật định. Tại sao? Nếu không phải do bản chất khát máu của con người? Và những binh lính này thả lỏng thú tính của lòng mình?
Liệu thú tính đó có bao gồm đam mê man rợ là đánh nạn nhân đến độ không còn cảm giác nữa? Những tua roi nhọn hoắt như răng cưa tha hồ xé nát thân Người? Những dây bằng kim loại làm bầm da tím thịt? Những đầu roi bọc chì đâm thấu tận xương? Đó là khổ hình mà luật pháp Roma dành cho các nộ lệ tội phạm, trước khi đem đi đóng đinh. Đúng là một cái chết hãi hùng loài người nghĩ ra để trừ khử nhau. Cái chết dần dần, từ từ từng giai đoạn một.
Như vậy liệu đã đủ chưa? Đây là việc mở rộng cuộc hành hạ cho đến tử đạo rợn rùng. Sự tra tấn có tính toán này phải chăng là tột đỉnh của man rợ? Nhưng binh lính còn tìm ra một trò chơi khác thêm vào cuộc hành xích tội phạm. Người ta có thể nói sự đau đớn đã đến tột cùng của điều cần thiết, nhưng binh lính còn bày ra một kiểu hành hạ khác ác độc hơn: trò chơi nhạo báng, để thoả mãn lòng lang dạ thú không hề no đủ của họ khi nạn nhân chỉ còn thoi thóp.
Câu truyện diễn ra ở sân tiền đường nhà canh gác. Đức Giêsu đã trông thấy sân này trước đây và bây giờ sẽ nếm tất cả sự cay đắng của nó trong cơn hấp hối của sự chết. Cái trò độc ác này hoàn toàn phát xuất từ bầy tôi Philatô.
Có lẽ Đức Giêsu chịu đánh đòn công khai ở trước cửa toà án nơi gọi là Lithostratos hay gian phòng ngoài. Nơi đáng lý Người mặc lại áo choàng. Nhưng đội hành hình túm lấy dẫn đến tiền đường, lúc này là chiếc sân trong, cả một đội cận vệ tụ họp đển xem trò giải trí.
Người gọi mình là vua. Tốt lắm. Họ sẽ trang trí cho Người đúng bậc quân vương. Một đứa cởi áo choàng ra, ném lên vai đang rướm máu của Người. Đó, tấm cẩm bào vương giả! Những đứa khác giật vội mấy cành gai ở bụi dậm gần đấy, quấn thành chiếc vòng làm vương niệm. Tác giả Calmet nhận xét rằng lúc ấy là thời điểm các bụi gai ra hoa, vậy thì vương niệm chẳng khác nào một vòng hoa. Ối chao, trước mặt chúng Đức Giêsu đúng là ông vua vinh hiển và rạng rỡ. Nhưng còn vương trượng? Một cây sậy được rồi. Thế là người ta kiếm một cây sậy khô đâu đó nhét vào những ngón tay tan nát bị kẹp hoặc giả vào bàn tay phải đang run run vì đau!
Rồi binh lính phá lên cười khi ngắm nhìn quân vương trò hề. Họ giật lấy cây sậy quất túi bụi vào nạn nhân. Chiếc vương miện bằng gai đặt hờ trên đầu, bây giờ được ấn mạnh xuống, gai nhọn xuyên thẳng vào xương sọ, máu me ứa ra, coi rất thảm thương, nhưng lại là trò cười cho bọn lính độc ác. Chúng thay nhau vả mặt, đấm đá như các trẻ con hành hạ một con cóc vô phúc tìm được ở lề đường. Dầu sao thì tội phạm này cuối cùng cũng phải chết, nương tay làm chi? Đánh đấm cho hả dạ, xót thương để làm gì? Chúng khạc nhổ vào mặt, thụi sau lưng, xếp hàng thay lượt nhau tìm những lời chế giễu sáng tạo nhất làm cho nạn nhân hết đường chống chế. Sự thực nạn nhân chẳng hề phản kháng: Phúc âm Gioan kể: “Họ đến gần và nói: Kính chào vua dân Do thái, rồi vả vào mặt Người” (19,3). Marcô thuật lại: “Chúng lấy cây sậy đập vào đầu Người, khạc nhổ vào Người, và qùi gối bái lậy” (15,19). Nước giãi và đấm đá là hương vị không thể thiếu của trò chơi nhạo báng này.
Người ta nói rằng lập trò nhạo báng này là chuyện bình thường của việc thi hành án. Các thí dụ chưng ra ở Persia, ngay cả ở Palestine. Một số tác giả khác còn đi xa hơn cho là một nghi lễ trước khi đưa đi hành quyết. Ở điểm khả dĩ nhất thì là một tình huống nhẹ bớt của xử tử. Nhưng đối với chúng ta, đây là cảnh tượng nhục nhã cao độ của cuộc khổ nạn.
Thập giá là chóp đỉnh của việc hành quyết, binh lính không cần nghĩ ra thứ gì ghê gớm hơn. Nhưng sự thù hằn còn có tính tàn bạo riêng của nó. Cho dù nạn nhân đã đến mức hấp hối, thì nhạo báng vẫn còn đất dụng võ Phúc âm Luca kể: “Lính tráng cũng chế giễu Người, chúng lại gần đưa giấm cho Người uống và nói: Nếu ông là vua dân Do thái, thì cứu lấy mình đi” (23,36).
Ý nghĩ về vương quyền giả hiệu xem ra gây thích thú đặc biệt cho đám lính đánh thuê. Họ coi đức Giêsu như hoàng tử giả đò bị lột mặt lạ. Kẻ ngu dại muốn bước ra khỏi hàng ngũ thường dân và họ có nhiệm vụ phải đẩy về chỗ cũ. Đám đông cũng có những ý nghĩ tương tự vì bị ám ảnh bởi tư tưởng ngang bằng trên bình diện hạ đẳng. Họ áp dụng theo ý nghĩa riêng của mình lời Kinh Thánh tuyên bố: “Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống”.
Chẳng có chi trong cuộc Khổ Nạn mà bọn lính không biến thành trò cười, ngay cả việc cho Người chút nước giải khát. Xem ra họ muốn nói: “Mi nữa, là vua người Do thái cũng cần chút dễ chịu ư? Tại sao không dùng quyền năng để khỏi khát? (Lc 23,35).
Tuy vậy, cũng xin lưu ý, dẫu sao cũng còn chút nhân đạo trong việc giúp Đức Kitô đỡ khát, nhưng sự chế giễu của họ vô hiệu hoá lòng nhân đạo ấy. Và chi tiết nhỏ nhặt này khiến lòng kính trọng của tín hữu bị xúc phạm.
Khát nước là một đòn tệ hại mà Chúa chúng ta phải gánh chịu. Các binh lính biết điều ấy. Họ có sẵn thức uống trong tay. Ở Phương Đông nếu người ta phải chờ đợi lâu giờ ở một chỗ thì thể nào cũng có bình nước giải khát. Việc canh chừng trên ngọn Golgotha nhất định là kéo dài hàng giờ hàng ngày, thậm chí hàng tuần. Khí hậu thì ngột ngạt. Thánh Gioan kể rằng: “Ở đấy có một bình đầy giấm”. Đúng ra là một bình nước uống pha loãng giấm, người Roma gọi là “posca” (thức uống), miệng bình được đậy bằng miếng bọt biển. Quân lính sẽ lấy miếng bọt này cho Đức Giêsu uống.
Khi Chúa tỏ dấu khát nước, Người muốn đỡ khát nên đã thốt ra: “Ta khát”. Quân lính không từ chối chia sẽ nước uống của họ, nhưng ý tưởng lại làm họ nực cười: “Chúng ta sắp cho vua Do thái một ly nước!” và họ khúc khích cười, tuy cử chỉ ấy là hợp lý.
Một sự kiện khác làm họ tăng thêm bụng cười. Uống xong Đức Giêsu kêu lớn tiếng: Eli, Eli, Lamma sabachtani? (Lạy Chúa tôi, lạy Chúa tôi, nhân sao Chúa bỏ tôi?) những người Do thái hiện diện hiểu rõ lời đó, không nhầm lẫn được. Vì là câu 1 của Thánh Vịnh 21 mà họ đọc hàng ngày. Nhưng họ giả vờ như nghe thấy Đức Giêsu gọi tên tiên tri Elia. Elia không thể nhầm lẫn với Eli hay Eloi. Họ cố ý chơi trò đổi vần, vì ý nghĩa trái ngược hẳn. Theo như niềm tin của người Do thái, thì Elia là tiền hô của Đấng Thiên Sai (Messia). Những ai có nguồn gốc thấp hèn mà lại giả đò Elia đến nâng mình lên rồi tỏ bày vinh quang thì thật là ngớ ngẩn. Do vậy câu nói của Đức Giêsu mang tính ngu xuẩn. Cho nên họ mỉa mai: “Coi đấy Đấng Thiên Sai dởm đang cầu cứu Elia. Chắc chắn vị ngôn sứ vĩ đại sẽ đến cho mà xem”.
Binh lính nghe vậy, một số hiểu được tiếng Aramia và thông suốt truyền thống Do thái nên ngộ ra ngụ ý của đám đông, họ chạy gần lại và một trận cười chế giễu nữa, một người trong họ lấy miếng bọt biển nhúng vào giấm posca buộc vào đầu cây sậy đưa lên miệng tội nhân. Cả đám nói to: “Hãy đợi xem Elia có đến cứu hắn không? “ (Mt 27,49) một người lính như thể đọc lại điệp khúc của các bạn, trả lời nhưng gởi gắm vào đó ý nghĩa khác: “Kìa, hắn kêu cứu ông Elia” (Mc 25,36). Như thể hắn muốn bảo các bạn: “Chúng ta hãy cho phép ông Elia một thời gian, tức giúp đỡ tội phạm kéo dài sự sống thêm chút nữa”.
Người ta giả định rằng người binh sĩ nói như vậy vì cần thiết của hoàn cảnh hay vì nhân đạo? Nhưng thực tế hắn chạnh lòng trắc ẩn và cố gắng thúc giục ai đó cho nạn nhân uống. Thánh Mt và Mc ghi lại: “Lập tức, một người trong bọn chạy đi lấy miếng bọt biển, thấm đầy giấm, buộc vào đầu cây sậy, và đưa lên cho người uống”. Chỉ lòng nhiệt thành khiến người ta “chạy”, tính mỉa mai muốn kéo dài cực hình. Người ta giải thích rằng sở dĩ Chúa chấp nhận lòng tốt của người binh sĩ cho Người uống là vì hắn là một tên trộm tốt lành nhưng nhát gan, hay ít nhất động lòng thương xót vì trước mắt hắn là một cảnh đau đớn qúa mức. Đức Kitô vốn trân trọng lòng tốt của kẻ khác dù rất bé nhỏ nên nhấp miếng bọt biển cùng niềm vui, vốn là một phần thưởng.
Hoạt động cuối cùng của các binh sĩ trước khi Đức Giêsu tắt thở là chia nhau y phục của Người. Đây không phải là một phát minh mới. Nó là thói tục đã có từ lâu đời. Vài năm sau, sắc lệnh của hoàng đế Hadrianô truyền rằng: Chiến lợi phẩm hợp pháp gồm y phục của tội nhân, các vật dụng riêng, tiền có trong túi lúc bị bắt giữ. Nhưng không phải vàng bạc, đá qúi và thắt lưng đắt tiền.
Chúng ta cảm nghiệm rùng mình khi nghĩ rằng quân vô lại được phép vận y phục đã che phủ thân thể Thày Chí Thánh. Tư tưởng giải thiêng làm chúng ta ghê sợ đến muốn nổi loạn. Nhưng những binh lính này đâu chịu trách nhiệm về việc này cũng như các hành động khác. Họ chẳng biết việc mình làm.
Những lời ấy từ cây thập hình có sức vang vọng bất tận trong linh hồn mỗi tín hữu, để diễn tả hoàn hảo Đức Kitô chịu đóng đinh cảm nghĩ về các lý hình của mình. Người không nguyền rủa họ như những phạm nhân khác thường làm. Nhưng dưới mắt Người họ chỉ là những dụng cụ Thiên Chúa Cha dùng trong cuộc khổ nạn của Người. Họ giống hệt chiếc búa, chiếc đinh, sợi dây thừng, cây giá gỗ, ngoại trừ họ có một linh hồn mà Người yêu mến.
Không cần tháo gỡ gánh nặng đi cho họ, vì ơn ích siêu nhiên của cái chết cứu độ đã che chở họ. Người nhìn thấy họ như được bảo hộ trong thánh ý của Cha mình. Người gần như vui vẻ mừng cảm ơn họ vì đã kéo Người lên khỏi mặt đất, ngõ hầu Người cũng “kéo mọi sự lên cùng mình”. Còn đối với cái “sáng kiến” của họ ở phòng canh gác của đồn Antonia, liệu Người có phải cảm ơn họ không? Vì đã cho thế gian một hình ảnh chân thật hơn Vêrônica mà nhân loại không thể quên?
Ecce Homo: Này là người ấy. Chúng ta mắc nợ ai về tấm hình tuyệt vời này? Tấm hình vừa là Thiên Chúa vừa là anh em chúng ta, thể hiện nỗi thống khổ đầy công nghiệp? Thể hiện vương quyền tan biến vì tình yêu? Chắc chắn là bàn tay thiên thần của cuộc Khổ Nạn vẽ lên nó chứ không phải một nhóm binh sĩ đánh thuê. Lòng đạo đức của muôn thế hệ sẽ ghi khắc nó vào trái tim mình. Con mắt nghệ thuật cho dù là phàm tục cũng chưa bao giờ nhàm chán chiêm ngắm và ca tụng hình ảnh ấy. Một ngày nào đó trong tương lai vẻ cao siêu của nó sẽ làm tan biến hết tính ghê sợ còn đọng lại.
* * *
Đám người ô hợp trên đỉnh Calvario không hoàn toàn là thù địch. Nhưng ở đây chúng ta chỉ quan tâm đến nhóm hận thù mà thôi. Lúc này số đó đông áp đảo và luôn luôn như vậy khi người ta chỉ tính đến sự quan trọng của con số và cấp lãnh đạo ban hành mệnh lệnh ngày hôm đó.
Điều đáng ngạc nhiên là cấp lãnh đạo có khả năng điều động lực lượng khổng lồ chống lại đức Giêsu. Rất nhiều cá nhân đáng lý là thân hữu của Người vì các lý do khác nhau. Thí dụ ân huệ chữa lành, lời giảng dậy thức tỉnh lương tâm, lòng thương xót, nhân aí, phép lạ ngoạn mục, tình cảm trìu mến, chống kết án bất công, chống lạm dụng chức vụ, hứa hẹn hạnh phúc. Ngay cả khi họ không tin, thì ít ra Người cũng nuôi dưỡng các mơ ước của dân tộc.
Vậy thì bất mãn là do đâu? Những lãnh đạo Do thái căm thù Đức Giêsu còn có thể hiểu được. Nhưng sự ghét bỏ của đám đông thì quả là một phép màu. Điều này chỉ vào giây phút cuối cùng của cuộc Khổ Nạn mới tỏ lộ, và rồi được thổi phồng do các tư tế.
Xin nhớ lại lúc khởi đầu sứ vụ, Đức Kitô đã áp dụng cho bản thân lời tiên tri Isaia: “Thần Khí Chúa đậu trên tôi, vì Người đã sức dầu cho tôi, sai tôi đem tin mừng cho người nghèo khổ, rao giảng sự giải phóng cho kẻ bị cầm tù, mở mắt cho người mù, trả tự do cho kẻ bị áp bức và công bố năm hồng ân cứu độ” (Lc 4,16-30).
Chương trình này đã khơi dậy lòng hồ hởi cao độ. Đúng là trong khi rao giảng, Đức Giêsu đã đưa ra vài lời khiển trách làm mất lòng một số người. Đúng là Người từng kinh nghiệm sự đổi thay của bản chất con người và trong dân riêng của mình. Nhưng xét về tổng thể thì đám đông đón nhận Người rất tốt.
Nếu như Người phàn nàn về sự tẻ nhạt, cứng lòng tin, ích kỷ, về những đòi hỏi vô lý, thì vẫn chưa gây nên tình cảm tức bực nơi thính giả. Nhiều lần đám đông đã tung hô, muốn tôn Người lên làm vua. Người ta chào đón, tiếp đãi Người với lòng biết ơn. Ít bữa trước đây khi Người cho Lazarô trỗi dậy, tình yêu của đám đông xem ra đã đạt tới tột đỉnh. Họ chào mừng Người bằng những lời: “Một tiên tri vĩ đại xuất hiện giữa chúng ta. Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người. Ông ta làm việc chi cũng tốt đẹp. Chẳng ai nói năng như người này. Ông là Elia, là Gioan Tẩy Giả đã phục sinh, hay một trong các ngôn sứ. Ông là Đấng Thiên Sai. Vạn tuế con vua Đavít. Chúc tụng Đấng nhân danh Thiên Chúa mà đến”.
Ngay cả trong cuộc Khổ Nạn, ở dinh thự Philatô, thoạt kỳ thuỷ đám đông cũng không tỏ vẻ thù hằn và xem ra cấp lãnh đạo đền thờ chẳng thể hiệu triệu được họ. Nếu như không phải là Giuđa và cơ hội hắn gây nên, thì đám đông còn khuya mới tỏ dấu bất mãn. Chính cấp lãnh đạo đã nhận xét: “không nên làm vào chính ngày lễ, kẻo gây náo động trong dân” (Mt 26,5).
Như vậy, đám đông tụ họp là vì lý do riêng rẽ của nó: Họ muốn nhà cầm quyền Roma thả cho họ một tên tù vào ngày lễ như thói tục, và họ đến để đòi quyền lợi ấy. Có lẽ là họ nghĩ đến Baraba, có lẽ Đức Giêsu vừa xuất hiện trước toà án (Mc 15, 11-13).
Chẳng may cho sự lựa chọn của đám đông và cũng không may cho thói quen truyền thống, cấp lãnh đạo nẫng tay trên cảm tính chung. Và họ có thời gian để làm việc này. Bởi lẽ giữa lúc Philatô gián đoạn tiến trình vì bà Clauđia vợ quan xuất hiện tại tòa án và câu truyện giấc mơ giữa hai vợ chồng, thì các quan chức đền thờ đủ thời giờ để vận động quần chúng. Thêm vào đó là khoảng thời gian toàn quyền cho phép để suy nghĩ lựa chọn.
Philatô đưa ra hai phương án: “Ai trong hai phạm nhân các ngươi muốn ta tha cho các ngươi?” Ông vốn hy vọng dân chúng theo chiều hướng của mình nên thêm: “Các ngươi muốn ta tha cho các ngươi vua người Do thái không?” (Mc 15,9). Nếu cứ để mặc cho đám đông thì có lẽ Chúa Giêsu được tha. Nhưng cấp lãnh đạo đã xen vào. Họ đã nắm được quyền điều khiển đám người ô hợp, bất chấp sự phật ý của nó. Hơn nữa Philatô lại vừa chọc tức nó khi nói giỡn hai lần: “Vua dân Do thái”.
Vua cái quái gì một tên phạm thượng. Philatô đã khiến họ phải nổi giận hơn là thương hại: Đấng Thiên Sai dởm bị xiềng trước mặt quan chức Roma! Đây là động lực thật của vấn đề. Ngày hôm qua họ còn hăng hái, mấy phút vừa đây nghi ngờ, và bây giờ bỗng nhiên đổi sang thù hằn và giận dữ! Không bao giờ đám đông chịu để mình bị vỡ mộng. Người làm họ thất vọng luôn bị trừng phạt nặng nề, có khi từ một anh hùng quốc gia xuống hàng vô danh tiểu tốt, kể cả tù tội. Cảm súc của đám đông có thể đưa đến phản loạn. Nhiều gương mặt lịch sử đã bị thất sủng kiểu này.
Vậy xin hãy tưởng tượng hình ảnh Đức Giêsu trước mặt tổng trấn Philatô! Đã gây nên thất vọng cho đám đông Do thái biết bao! Ấy là chưa tính đến lời các thượng tế, luật sĩ, kinh sư tố cáo Người trước quan chức ngoại bang. Họ dễ dàng tin vào các lời bịa đặt đó. Đấng giải phóng tuyển dân lúc này coi như một tên sách động nổi loạn trước toà án Roma, lại chẳng làm sao biện minh các cáo buộc ấy. Đây là “gương mù thập giá” được báo trước. Chúng ta hiểu tại sao đám đông mặc kệ Người gánh chịu số phận.
Từ vỡ mộng đến khinh bỉ chỉ là bước nhỏ, từ khinh bỉ đến giận dữ không xa và dưới áp lực không ngừng của cấp lãnh đạo đền thờ đám dông dễ dàng trở thành bực tức. Một ai đó nhắc đến từ “thập tự” lập tức đám ô hợp bám ngay vào và hô lên vang trời: “Đóng đinh nó, đóng đinh nó vào thập giá”. Hình phạt khổ giá không phải lạ đối với dân thành Giêrusalem, Palestin, Persia và các vùng cận đông. Nó thường được chỉ định cho những tên sách động bạo loạn, vì thế dân thành Giêrusalem lấy làm ngạc nhiên khi thấy tổng trấn lưỡng lự. Khi họ loại trừ, thì chẳng còn là chi, ngoài chỉ là một tên phạm tội nguy hiểm kẻ thù của đế quốc Roma! Philatô hỏi: “Ta sẽ làm gì với hắn?” câu trả lời lập tức: “Đóng đinh nó đi như ông đã từng làm đối với các phạm nhân khác”. Câu truyện chỉ đơn giản thế thôi.
Cấp lãnh đạo đền thờ đã đạt được mục tiêu. Sự thay đổi lập trường đã hoàn tất. Đám đông đang say máu đối tượng. Cảm tính man rợ chạy qua khắp mọi người. Các câu hỏi khác, các phản kháng chỉ như dầu đổ thêm vào lửa. Họ không ngừng hô lớn: “Đóng đinh nó đi, đóng đinh nó vào thập giá”. Nhưng sự việc không ngừng tại đó, nó liên quan đến cả một dân tộc về trách nhiệm riêng của mình, và không chỉ hiện tại nhưng còn vươn tới tương lai: “Hãy để máu nó đổ trên chúng tôi và con cháu chúng tôi”. Ghê gớm thật tội lỗi của loài người!
Lời yêu cầu đó sẽ được trả lời trong tương lai. Nhưng lúc này quả là một thảm kịch đối với Đấng đã muốn tụ họp tuyển dân vô ơn “Như gà mẹ ủ ấp con dưới cánh”. Người đến với họ loan báo sứ điệp hạnh phúc. Nhưng họ phạm thượng và ghét bỏ Người. Nếu sứ điệp đó chỉ là một giấc mơ thì đó là giấc mộng an lành và họ đáp trả bằng cái chết độc ác nhất con người có thể nghĩ ra!
Từ nhiều thế kỷ, dân này đã khao khát mong chờ Người. Họ được thỏa lòng nhưng lại chẳng nhận ra Người là ai! Đấng phải đến đã đến mang theo tất cả mọi ơn lành. Nhưng tuyển dân coi khinh, trừ khử Người, tống cổ Người ra ngoài thành và giết đi. Người đâu được chết ở nội thành như các dân cư khác? Trong khi Người chết chúng còn xỉ vả nhạo báng. Ngay cả những kẻ không ở hiện trường để quan sát Người chết, thì cũng ở trên các sân thượng vẫy tay và la hét như quân điên khùng. Và Đức Giêsu ở vị thế cao hơn tường thành, có thể trông thấy những kẻ thù địch, phản bội tình yêu của Người.
Trong khi binh lính dẫn Người qua cổng Ephraim, những người đã từng đợi ở đó vì nghe tin tức về cuộc hành quyết, lan ra từ đồn Antonia, những kẻ nghe được công thức tuyên án: “Người đâu chuẩn bị thập tự” chắc chắn sẽ gây náo động xôn xao. Bởi vì lúc này là thời điểm họ bày tỏ giận dữ của riêng mình chứ không phải theo yêu cầu hay ước mong của người khác. Sự hồ hởi man rợ sôi sục trong mỗi đầu óc, từ “khổ giá” luôn được nhắc lại trên mỗi môi miệng và từ “máu, xử tử” được nghe lẫn với những từ: “thằng Galilea đó, rabbi, tiên tri dởm, Messia giả hiệu” mỗi khi có trận cười chế giễu nổ ra.
Từng bản năng man rợ của loài thú tàng ẩn trong con tim được đánh thức dậy. Các con tim phình to lên vì tức giận và hò reo vui mừng trước cái chết của Con Thiên Chúa. Đây sẽ là biểu hiện sống động của đoàn người tương lai thuộc muôn thế hệ thù địch và phản kháng đức Giêsu.
Nó là điềm gở, sự mù tối, chẳng bao lâu nữa sẽ xuất hiện cho dân cư Giêrusalem, hiện đang điên khùng vì vui sướng. Chẳng bao lâu nữa cảm giác rợn người vì khiếp sợ sẽ chạy qua mọi con phố. Trái tim sẽ nặng triũ hơn chì. Những ai đòi hỏi cái chết của Đấng Cứu Thế sẽ đấm ngực khóc lóc. Đám đông thất thường này rồi sẽ phải đổi thay cảm súc của mình. Nhưng vấn đề vẫn còn đó. Làm thế nào sự biến đổi mà chúng ta linh cảm sẽ xẩy ra? Lời giải thích chung chung không làm thỏa mãn trí tuệ. Liệu nó có phải là một cuộc biến đổi tận đáy chiều sâu của sự việc?
Các nhà thần bí chủ trương rằng: Mỗi cuộc đổ vỡ về luân lý đều có những nguyên nhân ẩn tàng đi trước. Con người sa ngã vì họ bất toàn, cơ hội chỉ góp phần vào tảng đá cản trở. Trong hoàn cảnh này sự bất toàn của con người gồm sự kiện đám đông Do thái lúc ấy thiếu thốn một tinh thần quốc gia nghiêm túc, ăn rễ sâu vào ý nghĩa luân lý và tình cảm tôn giáo chân thật. Họ chỉ có khuynh hướng nghiêng về nghi lễ dị đoan và lòng tò mò thần bí!
Sự thành công của Đức Kitô trong dân chúng là nhờ vào sự thích thú và lòng hăng hái gây nên do các phép lạ, tính quyến rũ của các bài diễn từ, các lời chỉ trích giới cầm quyền làm họ thỏa mãn, vì nhìn thấy cầp lãnh đạo bực tức, vào tính mạnh mẽ tự phát của trí tưởng tượng xưa nay bị giam hãm do các giấc mơ phù phiếm, hơn là vào sự gắn bó vững bền của xác tín đầy đủ.
Đám dân này chỉ bị choáng ngợp chứ không bị thuyết phục, tức chưa tâm phục khẩu phục hoàn toàn và họ đã bị thất vọng về những ước mơ vật chất mà không hề thích ứng với lý tưởng thay thế. Nếu Đức Giêsu là một thiên sai chính trị, ủng hộ hào nhoáng bề ngoài, một người ban phát ân huệ vật chất sờ mó được, như lật đổ ách nô lệ Roma, bãi bỏ thuế khóa, trả lại trật tự cũ cho dân tộc, lúc ấy Người mới được những dân “cứng cổ” này chấp nhận.
Nhưng mục tiêu và học thuyết của Đấng Cứu Thế không thuộc loại ấy. Đây là lý do tại sao ngay khi tuyển dân trông thấy mong ước ích kỷ của mình bị gạt sang bên, thì họ trở mặt chống lại Người. Lòng hâm mộ trở thành thù địch. Điều Đức Kitô thất bại không làm theo ước mong của họ trở nên mối nguy hại cho Người. Đấng Thiên Sai trong giấc mơ của tuyển dân biến thành nạn nhân của Đấng Thiên Sai nực cười trước mắt quan trấn thủ. Đức Giêsu một lần đã từ chối không cho họ tôn lên làm vua, thì bây giờ bỗng thấy mình đội mạo gai, cầm cây Sậy. Đời là như thế đó.
Tuy nhiên, hôm nay chúng ta không nên khắc khe với đám đông nhẹ dạ và tàn ác này. Bởi lẽ nhờ họ mà chúng ta có những ngày cuối cùng đầy ơn phúc của Đức Kitô. Có ý kiến cho rằng tuy đòi giết Chúa Cứu Thế, nhưng lúc ấy có thể Philatô không nhượng bộ Sanhedrim. Ý kiến này không vững chắc lắm. Đàng khác, trừ phi do lòng nhiệt thành của đám đông trong cuộc rước kiệu vào thành thánh và sự kiện nổi tiếng của Người, lập thành tường luỹ che chở Người, bằng không Người đã rơi vào hoàn cảnh là nạn nhân của chính sứ vụ mình. Điều này là chắc chắn.
Bởi vì rất nhiều lần, sứ vụ của Người bị đe dọa cắt ngắn. Sở dĩ các cạm bẫy giăng ra cho Người đều thất bại, là vì những cảm tình viên và thính giả ủng hộ Người. Danh tiếng của Người chính là đồn luỹ bảo vệ. Còn nếu đám dân chúng giữ im lặng, thì liệu các lần trả lời khôn khéo và đầy thuyết phục có thể được thế thượng phong lúc đó không? Còn nữa khi Người đuổi các con buôn ra khỏi khuôn viên đền thờ, thì liệu các thế lực liên hệ chỉ đơn giản bằng lòng với câu chất vấn: “Ông lấy quyền hành nào mà làm điều này?” nếu không có đám đông ủng hộ, thì liệu quí vị đụng đến Đền thờ mà thoát khỏi trừng phạt? Kể cả để tẩy uế nó? Chưa hết liệu qúi vị dám can thiệp vào thanh danh và đặc quyền đặc lợi của giai cấp lãnh đạo mà không có nguy cơ bị sát hại ngay tức thời? Lịch sử đã minh chứng nguy cơ là có thật.
Tuy nhiên trong việc này, cũng như các biến cố khác của cuộc Khổ Nạn, loài người chẳng hoàn toàn được tự do hành động theo ý mình, dù là thân thiện hay thù địch. Quần chúng, giống như binh lính, không chủ yếu chịu trách nhiệm về cái chết của đức Kitô. Hành động của con người có trách nhiệm riêng của nó và họ phải trả lời. Nhưng nhờ loài người và các hoạt động của nó mà Đức Chúa Trời điều khiển vũ trụ. Tất cả mọi sự xẩy ra trên ngọn Calvario là theo thánh ý Thiên Chúa. Sự nổi loạn của con người nằm trong kế hoạch của Người. Lòng căm giận của đám đông biểu lộ tình yêu thương vô bờ bến của Đức Chúa Trời. Trong dòng chảy của các thế kỷ mà hiệu quả của cuộc Khổ Nạn được áp dụng, sự vật lộn của các trí khôn và sự đấu tranh của các lòng muốn chẳng qua là phản ánh của một trật tự bất di bất dịch? Các chương trình của vĩnh hằng được hoàn thành mỹ mãn. Sự ồn ào ở cổng thành Ephraim, và ở mọi thời đại, là của Thiên Chúa, tuy con người gây nên. Đây là chất liệu thứ hai của cuộc Khổ Nạn. Thật tuyệt vời!
* * *
Từ cây thập tự Đức Giêsu không thể nhìn thấy Philatô và Hêrôđê, chỉ trông thấy các dinh thự của họ. Đồn Antonia với những tháp canh uy nghi và lâu đài Hasmonea của Hêrôđê bạo chúa, ở phía tây nam cây khổ giá.
Đức Giêsu luôn khinh bỉ tên bạo chúa loạn luân, kẻ đã hạ sát người anh em họ của Người, thánh Gioan Tẩy Giả. Chúa gọi hắn là “con cáo” và thách thức ông ta chấm dứt công việc của Người trước thời hạn Người quyết định (Lc 13,32)?.
Khi Philatô gởi Người sang cho hắn để gỡ mình khỏi tình huống khó xử. Tên bạo chúa xem ra không tỏ thái độ cục cằn hoặc lên kế hoạch xử trí với Đấng Cứu Thế. Thực chất hắn là một tay phù phiếm, hài lòng khi gặp Chúa, ngay cả rất vui mừng như Phúc âm thuật lại. Bởi lẽ, từ lâu đã khao khát trông thấy Chúa. Hắn đã nghe đồn nhiều điều về “Ông Giêsu thành Nazareth” (Lc 23,8).
Dầu sao hắn vẫn tập họp lính gác, có lẽ vì có chút sợ hãi về sức mạnh bí hiểm nào đó. Hay hắn muốn chia sẻ quang cảnh thú vị với các binh sĩ? Ở bất cứ hoàn cảnh nào, điều chính yếu của bạo chúa là muốn xem vài “dấu lạ”. Hắn muốn có một tù nhân khá hấp dẫn, giống như đám đông, một Messia vinh quang, ở ý nghĩa này, hắn giống như một thành viên của đám đông ô hợp. Thực tế, hắn là tay liến thoắng. Hắn khởi sự hỏi Chúa rất nhiều điều. Nhưng Đức Giêsu giữ im lặng.
Ôi sự im lặng! Nghiêm nghị như một quan tòa! Quan tòa áp đảo và đe dọa bạo chúa hỗn xược miền Galilea. Ông dạy bảo chúng ta biết tôn trọng sự thật. Vì lẽ Hêrôđê không phải là thẩm quyền tôn giáo, nên Đức Giêsu không có bổn phận giải trình sứ vụ của mình cho hắn. Sự thật chẳng hữu ích chi cho ông vua loạn luân này, vì ông ta không bao giờ thành thật. Phép lạ trước mặt hắn chỉ như một hối lộ và là sự thử thách Thiên Chúa. Do đó Đức Giêsu không thèm nói với hắn nửa lời. Người cư xử khiêm tốn và chịu đựng, không tỏ dấu tích cực tham gia vào câu truyện.
Lúc này Hêrôđê khinh dể Người lần thứ hai, và Đức Giêsu cũng có thái độ tương tự. Hêrôđê căm ghét Đức Giêsu một cách ngấm ngầm - con hổ xám cậy cựa mình sau bộ lông phù phiếm, nhưng hắn cố gắng che dấu, chỉ bày tỏ lòng khinh bỉ mà thôi, và nghĩ rằng như thế là đủ để chấm dứt cuộc thẩm vấn. Ông ta truyền lấy áo rực rỡ mặc cho đức Giêsu và trả về cho Philatô, ngụ ý người ngu dại thì mặc áo ấy. Áo choàng rực rỡ là y phục của hoàng tử mặc trong dịp lễ hội để biểu dương quyền lực.
Phúc âm nói rằng lúc ấy Philatô và Hêrôđê đang có mối hiềm khích. Như một người Galilea, Đức Giêsu là thần dân của bạo chúa. Nhưng Người bị bắt ở Giuđêa, nên thuộc quyền tài phán của Philatô. Do đó việc quan tổng trấn gởi Đức Giêsu sang Hêrôđê, không chỉ để tránh một tên tù khó xử nhưng còn là lời giao hòa. Bạo chúa cảm thấy hài lòng và trả lời nhún nhường cho viên thái thú Roma bằng một cử chỉ từ chối hàm chứa vinh dự. Ông ta đã xem xét vấn đề cách nào đó, rồi đáp lễ bằng một cử chỉ khen ngợi. Đây là lý do Phúc âm viết: Từ hôm ấy hai người trở nên bạn hữu.
Dĩ nhiên bạn thân thì hay đùa cợt. Nhưng Hêrôđê không dễ chấp nhận đùa cợt như vậy. Ông ta biết phải cân nhắc thế nào về “vinh dự” mà một kẻ ấm đầu ban tặng. Chẳng qua chỉ là trò tiêu khiển để hai bên đùa bỡn với nhau. Trong khi Philatô, một chính trị gia kinh nghiệm, quyết định phải làm chi với tên tù này. Ông ta có quyền làm chi mặc ý.
Và như thế Đấng cứu vớt nhân loại lại trở nên một môn thể thao cho hai ông hoàng phù phiếm. Trong khi đám đông giận dữ cuồn cuộn như đoàn đồng ca cùng họ (Lc 23,8).
Vai trò của Philatô trong vụ việc, quan trọng hơn phần của Hêrôđê, và như vậy ông giữ vị trí nổi bật hơn trong tư tưởng của tín hữu, cũng như của đức Giêsu lúc ấy. Tuy nhiên, Đức Giêsu đối đáp với ông ta rất khoan nhượng. Thực ra người lính Roma này có một phần vụ tiền định trong kế hoạch của Thiên Chúa: Đức Giêsu nói với ông: “Quan chẳng có quyền chi trên tôi, nếu từ trời không ban cho” (Ga 19,11). Liên quan đến vấn đề này, tư tưởng gia Pascal viết: “Đức Giêsu không thể bị giết nếu không có hình thức công lý nào đó. Bởi vì chết trong tay công lý thì xấu hổ hơn chết vì đám đông ô hợp” (Le mystere de Jesus).
Người ta đã thông qua hai bản án. Nhưng chẳng bản nào có giá trị tử hình. Và mọi sự phải theo sát luật pháp để có thể tuyên bố Đức Giêsu phạm lỗi, và bị trừng phạt như một tội phạm. Bởi mục tiêu là Người phải thay thế cho nhân loại. Sự thay thế đầy thương xót này sẽ cứu vớt linh hồn người ta.
Tuy nhiên, trong trật tự thời gian của kế hoạch thần linh thì mỗi người vẫn phải chịu trách nhiệm riêng về hành động của mình. Cho nên Đấng Cứu Thế không xóa hẳn lỗi lầm cho Philatô. Người chỉ nói rằng: tội của quan không nặng nề bằng tội khác, tội đứng riêng ra một loại, đó là tội trao nộp Người, Giuđa đã làm điều đó cùng thế lực đền thờ (Ga 19,11).
Chúng ta trả lại công lý cho quan trấn thủ Philatô khi công nhận ông ta đã nhìn thấy rõ trò chơi của hội đồng Sanhedrim. Những lời đầu tiên họ thốt ra giãi bày âm mưu đen tối của họ. Philatô hỏi: “Các ông tố cáo người này về chuyện gì?” Họ cao ngạo trả lời: “Nếu hắn không làm điều xấu, chúng tôi hẳn đã không nộp cho quan”. Thái độ kiêu căng hỗn xược của Hội đồng Sanhedrim đã tỏ rõ có điều bất ổn trong hoàn cảnh. Thực ra mọi sự đã được quyết định xong xuôi, họ chỉ chờ đợi xác nhận chính thức của toàn quyền .
Philatô thấu hiểu hoàn cảnh, lúc này ông vận dụng tài kheó để tha bổng người tù. Nhưng cảm tính về công lý của ông ta không ăn rễ sâu. Sự ương ngạnh và bạo động sẽ thắng ông. Tuy muốn làm điều chính trực, nhưng lại không dám liều thân vì công lý, nên nhà chính trị già đời này cũng như những người khác cùng loại, thà nhượng bộ thì hơn. Ông chỉ bênh vực lẽ phải khi không phải trả giá chi cả. Ông sẵn sàng thỏa hiệp để đổi lấy an toàn cho bản thân, hay tin cậy của Hoàng đế Roma. Nhưng đó lại là tội ác khác.
So sánh các sự kiện trong Phúc âm chúng ta có bằng chứng cụ thể. Các thành viên hội đồng Sanhedrim khi được quan trấn thủ yêu cầu nói rõ tội phạm của tù nhân, thì họ đưa ra ba lời cáo buộc: phá hoại an ninh công cộng, tuyên truyền chống nộp thuế và tự xưng là vua. Philatô, vốn là một luật gia sành sỏi và nhà kinh doanh, liền tập trung vào nòng cốt của vấn đề, tức lời tố cáo thứ ba, vì hai cáo buộc trước đều lệ thuộc vào đó cả.
Philatô chấn vấn Đức Giêsu. Và ông nhận được câu trả lời rằng vương quyền của tù nhân là một thứ bí nhiệm, tưởng tượng. Cho nên nhà nước không cần quan tâm. Do đó chính trị không buộc can thiệp. Ông ta tuyên bố trong quyền hạn của mình, không thấy bị cáo có tội. Và để củng cố quan điểm đó, ông bắt Đức Giêsu phải lên tiếng trước các thành viên của hội đồng, ngõ hầu làm cho họ bẽn lẽn và lột mặt nạ âm mưu gian dối họ đang vận dụng.
Đức Giêsu chẳng nói một lời, Philatô ngạc nhiên. Ông ta đã cho tù nhân một cơ hội cứu vớt chiếc đầu mình. Nhưng Đức Giêsu đã sẵn lòng chấp nhận cái chết. Người không hề có ý định bảo vệ mình. Công việc của Người đã hoàn thành, chỉ còn đợi dấu ấn của Đức Chúa Cha. Ýù tưởng tranh cãi về tôn giáo Do thái trước ông quan vô đạo không thích hợp lúc này. Người đã nói đủ để soi sáng lương tâm ngay lành và giúp nó tránh thông qua một bản án bất công. Đối với Người như thế là đủ, và do đó Người giữ im lặng.
Philatô khởi sự khâm phục Đức Kitô. Chẳng mấy bị cáo lại coi rẻ đời mình đến thế. Chẳng ai giữ thái độ cao thượng như vậy. Philatô muốn cứu mạng sống cho “người công chính”, như viên sĩ quan của ông gọi ít giờ sau. Và chính miệng ông cũng thốt lên tương tự. Dầu sao thì ông vẫn muốn tha bị cáo này mà không gây căm phẫn hoặc tố cáo ông trước toà án vua thượng vị Caesar.
Philatô thân hành ra nói trước đám đông. Ông ngộ ra chìa khóa của cuộc tranh cãi nằm ở chỗ hội đồng Sanhedrim “ghen tương” sự nổi tiếng của Đức Giêsu và sự khuếch tán các tư tưởng của Người, đe dọa ảnh hưởng của họ. Đó là động thái khá lý thú, vì thực ra khó cho những kẻ tố caó thú nhận ý đồ thật và chống lại lòng muốn của quần chúng.
Nhưng nếu như Philatô muốn thành công, thì điều tiên quyết là ông ta đừng thay đổi cảm tình hiện có của đám đông đối với bị cáo. Và Philatô cố gắng làm đúng như vậy. Trong giọng điệu khinh bỉ ra mặt đối với đám ô hợp Do thái ông cất tiếng: “Các ngươi có muốn ta tha cho các ngươi vua dân Do thái không?” nghĩa là: Ta sẽ làm chi với vua các ngươi? Ta có nên đóng đinh “Vua” các ngươi không? Tất cả những điều này được nói ra với giọng điệu khinh khi, và ông ta sẽ lầm, nếu đám đông không trông thấy như thế! Một lời hiệu triệu nhắm vào tình cảm chung có thể cứu vãn được tình thế. Tính mỉa mai may ra làm cho khủng hoảng được tháo gỡ mau lẹ hơn.
Nhưng các thượng tế không để mất thời giờ. Họ chụp ngay cơ hội gián đoạn giữa lời hiệu triệu và cuộc tra hỏi bị cáo, cùng khi Philatô trò chuyện với vợ về giấc mơ, thì họ tích cực vận động lòng say mê của quần chúng. Họ đã khơi dậy tính phù phiếm của nó. Họ tố cáo Đức Giêsu về hàng ngàn việc xấu. Khi Philatô trở lại hiện trường hỏi đi hỏi lại: “Người này đã làm việc chi xấu?” chẳng còn ai ở trong thái độ lưỡng lự. Ngàn người như một đều căm ghét Đức Giêsu như thác vỡ bờ.
Việc gởi tù nhân sang cho Hêrôđê không cải thiện tình thế, ngược lại làm cho ngọn lửa thù hận thêm thời gian để bùng lên thành đám cháy lớn. Việc áp đặt hình phạt nhẹ hơn cũng không giúp ích được chi. Sự nhượng bộ này chỉ làm tan vỡ các cơ hội cuối cùng. Đám đông đã tỏ thái độ liều lĩnh và chiếm lĩnh tình thế ngày hôm ấy.
Thủ tục đánh đòn được thi hành. Nó có nghĩa là Đức Kitô đã bị bỏ rơi vì theo luật lệ, việc này là bước khởi đầu của hình phạt đóng đinh. Philatô thử bước cuối cùng để cố gắng cứu vãn tù nhân, tránh được một tội ác. Ông biết rõ binh lính của mình đã làm chi ở tiền đình toà án và tình trạng nửa sống nửa chết của tù nhân. Ông không khiển trách binh lính vì đó là việc thường xuyên, nhưng hy vọng nó sẽ giúp ông đạt mục tiêu. Ông lại ra nói với đám đông mang theo bị cáo; ông nói: “Hãy nhìn xem người này, vua của các ngươi đó”. Nhưng muộn mất rồi. Thật là một sai lầm khi người ta chỉ cho sư tử thấy máu. Đám đông lúc này vượt tầm kiểm soát. Họ gào lên, họ nại đến Caesar!.
Như thế là chấm dứt. Tiếng Caesar có uy quyền vô song. Nó mạnh mẽ hơn tiếng nói của lương tâm, nhất là lương tâm của quan thái thú Philatô. Bây giờ mọi sự đều chống lại Đức Giêsu ngoại trừ công lý. Nhưng công lý chẳng ăn nhằm gì đối với một tên quan lãng tử đầy tham vọng và yếu ớt ý chí, để hắn có thể khinh thị liên minh ma quỉ, lúc này đã trở thành mối đe dọa cho địa vị của hắn.
Luca kể: “Ông Philatô quyết định chấp thuận điều họ yêu cầu”(23,24). Thay vì là quan tòa ông trở thành người thi hành án. Như vậy tuy chịu trách nhiệm về vụ án, ông đã từ bỏ quyền tài phán và trở nên kẻ đồng phạm vào tội ác. Nhưng ông tưởng mình có thể phủ nhận trách nhiệm bằng cử chỉ truyền lấy nước rửa tay và nói: “Ta vô tội trong việc đổ máu người công chính này. Mặc các ngươi liệu lấy” (Mt 27,24).
Tuy nhiên, việc lèo lái của ông ta thành công một phần. Đám đông nhân danh toàn dân, đã nhận trách nhiệm về tội ác trên chính mình và con cháu về sau. Nhưng họ làm như vậy trách nhiệm vẫn không hoàn toàn thuộc về họ, mà chỉ chia sẻ thôi. Và nó không cất gánh nặng trách nhiệm khỏi vai thẩm phán. Vì không có ông đám đông chẳng thể làm chi nên trò trống.
Còn đối với việc rửa tay thì đó chỉ là phép màu của các bộ lạc bán khai. Người Roma và người Do thái, với một vài thay đổi trong ý nghĩa, đã dùng nó như cử chỉ rũ bỏ tội ác. Philatô tin vào bùa phép rẻ tiền này. Mê tín và hèn nhát thường song hành với nhau. Dầu sao vợ quan cũng có một chút an ủi. Ông ta không làm theo lời bà, nhưng cũng cho bà ấy chút hài lòng: “Em coi đấy, ta vô tội trong vấn đề này. Đám đông đã lãnh nhận mọi trách nhiệm”.
Chúng ta không mở rộng tính đê tiện của hành vi như vậy, cũng không nhấn mạnh về tính chất nặng nề của bản án mà Đấng phát xét từ cây thập tự sẽ thông qua nhân danh công lý. Thực tế án quyết của Người sẽ đầy lòng thương xót và thương xót giả định tội lỗi. Thứ tội này ghê gớm đến độ Chúa chúng ta so sánh với tội khác để giảm nhẹ tính ghê sợ: “Kẻ đã trao nộp tôi cho quan phạm tội nặng hơn” (Ga 19,11).
* * *
Trước khi xem xét về trách nhiệm nặng nề vượt bậc ấy, và trước khi nhắc tới Giuđa, chúng ta phải kẻ đến trường hợp của hội đồng Sanhedrim và hai phe đồng phạm Phariseo và Saduceo.
Từ trên khổ giá Đức Giêsu trông thấy những người này. Họ có mặt để ngắm nhìn sự đau đớn của Người và thỏa mãn về thành công của bộ máy quyền lực đền thờ. Lòng tự trọng không ngăn cản họ trà trộn vào đám ô hợp, gồm bọn vô lại và binh lính thô lỗ, để mạt sát nạn nhân đang giẫy chết.
Liệu say mê của con người dẫn họ xa đến đâu? Liệu đây phải là chỗ để những vị vọng coi mình quá huy hoàng để có mặt? Họ không sợ mất ảnh hưởng vì tỏ bày tính nết đê tiện của mình? Liệu cái chết không phải là nghiêm trọng đối với họ?
Tuy nhiên, cũng có điều chi đặc thù trong thái độ của các thành viên Sanhedrim khiến họ tách biệt khỏi đám đông. Sự mạ lị của họ không nhắm trực tiếp vào đức Giêsu, nhưng được trao đổi giữa họ với nhau.
Họ chẳng cần bận tâm bêu giếu thẳng Đức Giêsu. Người khác sẽ làm việc đó. Người khác mà họ sẽ mớm cho lời chửi rủa “Những kẻ qua đường, những khách tò mò, các binh sĩ tục tằn, hai người trộm cùng chịu đóng đinh.” Đó chỉ là số ít tiêu biểu. Lúc này khi khác, vài kẻ trong họ trà trộn vào đám đông sách động bản hợp ca mà họ tổ chức (Lc 23,35): “Dân chúng đứng nhìn, còn các thủ lãnh thì buông lời cười nhạo: Hắn đã cứu người khác, thì cứu lấy mình đi?” và chính trong nhóm tuyển chọn của họ mà lòng ghét bỏ được truyền đi từ kẻ này sang người khác.
Thánh Marcô ghi nhận: “Các thượng tế và kinh sư cũng chế giễu Người như vậy, họ nói với nhau: hắn cứu được thiên hạ mà chẳng cứu nổi mình. Ông Kitô vua Israel, cứ xuống khỏi thập giá ngay bây giờ đi, để chúng ta thấy và tin” (Mc 15, 31, 37). Chúng ta có thể nói rằng họ chuyền can đảm cho nhau. Mỗi người đều cố gắng chứng minh mình tích cực trong nhóm và chứng tỏ cho kẻ khác thấy rõ điều ấy. Tóm lại họ họp thành một hệ thống khuyến khích lẫn nhau.
Có thể rằng vài thành viên tỏ ra nghi ngờ và hối hận chút ít vì bước đi quá đáng. Chúng ta biết sự kiện này qua việc hội đồng Sanhedrim không hoàn toàn nhất trí. Thí dụ Giuse Arimathia đã “không tán thành quyết định và hành động của thượng Hội đồng” (Lc 23,51). Cho nên một sự phê chuẩn chung cuộc là cần thiết để cho bản án có hiệu lực.
Tuy nhiên, vẫn còn thời gian để duyệt lại bản án. Họ chẳng có thành kiến đâu. Hãy cho ông Giêsu một cơ hội. Với ông mọi sự đều có thể. Vậy thì bây giờ hãy xuống khỏi thập giá đi! Họ sẽ tin vào tài năng và vương quyền của ông. Hoặc cho họ xem thấy như thế và họ sẽ tin. Nhưng họ quên rằng chính Người đã ước mong thập giá và cho phép mình ghim vào đó.
Người ta có quyền cho rằng trong những câu nói trên của các tư tế có phần thú nhận quyền phép của Đức Giêsu. Thí dụ họ nói “Hắn đã cứu được người khác ” dĩ nhiên họ có ý mỉa mai, nhưng trong mạch văn và các sự kiện trước đó có gợi ý lương tâm họ bất an vì những “dấu lạ” của Người. Những dấu lạ này suốt quãng đời rao giảng công khai, Đức Giêsu đã thực hiện khá nhiều. Họ đã chứng kiến các phép lạ, nhưng nhắm mắt lại không muốn nhìn. Họ đã trông thấy bệnh tật được chữa lành, kẻ chết sống lại. Chính họ cũng đã đòi hỏi: “Hãy cho chúng tôi xem một dấu lạ từ trời” (Mt 16,1). Khi các phép lạ tăng dần, họ tiếp tục đòi hỏi: “Ông làm được dấu lạ nào?” (Ga 6,30).
Lòng tin lệch lạc luôn hành động kiểu này. Chẳng phép màu nào đầy đủ cả. Càng thỏa mãn người ta càng đòi hỏi thêm. Từ chối thẳng thừng sự tùng phục bằng sự trì hoãn bất tận. Linh mục bội giáo Renan bắt buộc rằng phép lạ phải được thực hiện trước mắt ông ta và trước mặt các khoa học gia họp thành hội đồng thẩm định và lặp lại nhiều lần theo lệnh của ông ta để xét định? Như vậy, ông có ý khóa chặt mình khỏi xác tín vào khả năng thiêng liêng. Phép lạ không được phép làm áy náy lương tâm ông ta.
Sanhedrim Do thái đã chia sẻ trước quan điểm của Renan. Hãy nhìn vào Đấng Thiên Sai, bốn chiếc đinh khá chắc chắn và quí vị muốn chúng tôi chấp nhận các dấu lạ của ông ta ư? Nếu ông ta là thiên sai thật, thì ông dễ dàng khẳng định mình bằng chứng cớ hiển nhiên và chung cuộc này! Chà, kẻ phá huỷ đền thờ Thiên Chúa và trong ba ngày xây dựng lại, hãy cứu mình đi! Nếu ông ta thực sự là Con Thiên Chúa, hãy xuống khỏi giá gỗ để chúng ta tin. Hắn tin cậy Đức Chúa, hãy để Người cứu thoát nếu Người yêu thương hắn. Bởi lẽ hắn nói: Ta là Con Thiên Chúa, thì cứ cứu mình đi, nếu thật là Kitô, kẻ Thiên Chúa tuyển chọn? Nếu ông là Đấng Kitô hãy cứu lấy mình và chúng ta nữa”.
Câu cuối cùng này phát ra từ một trong các thập giá bên cạnh Đức Giêsu hòa điệu với những kẻ đang thét gào ở mặt đất, hoặc với lời thì thầm của các tư tế với nhau. Nhưng nguồn gốc vẫn là một. Mệnh lệnh mạ lị ném vào Đức Giêsu đang chịu khổ hình kèm theo lắc đầu, một cử chỉ Do thái bày tỏ mỉa mai cay độc và thích thú tàn nhẫn. Đây là hai trạng thái tình cảm nổi bật ở ngọn đồi Calvario. Tức chế giễu cách kiêu căng và muốn nghiến ngấu vì căm thù.
Đức Giêsu trên khổ giá không trả lời lúc này, trong khi còn hy vọng cứu sống. Những thách thức đối với Người không mới. Người đã nghe thấy như vậy ngay ở khởi đầu sứ vụ rao giảng, từ Satan mà người Do thái chỉ là thủ hạ. Hắn cám dỗ Người: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, hãy gieo mình xuống đi” (Mt 4,6). Nhưng phép lạ ấy phục vụ mục tiêu nào? Lúc này nữa nếu Người giải thoát mình thì vì mục đích chi? Chỉ để tỏ ra rằng Người chẳng thể cứu rỗi nhân loại ư?
Người sẽ làm một phép lạ lớn lao hơn nhiều, khó khăn hơn là chỉ tụt xuống khỏi giá gỗ hoặc bước ra khỏi nấm mồ? Từ lâu rồi Người đã cạnh khóe dấu chỉ Giona cho kẻ thù mình nghe. Giona là một ngôn sứ người Do thái quen thuộc và phép lạ choáng ngợp con mắt tương lai đến nỗi các tông đồ coi mình như đón nhận một sứ mệnh đã đầy đủ là trở nên chứng nhân cho nó mà thôi.
Thật hữu ích nếu chúng ta tìm hiểu, như Philatô vừa làm, vào lý do của cuộc đối đầu giữa Chúa Giêsu và các lãnh đạo đền thờ, mà kết thúc là cây thập tự. Chúng ta vừa bàn đến những nguyên nhân cấp lãnh đạo tôn giáo chia sẻ với đám đông, mặc dầu kiến thức của lãnh đạo sâu sắc hơn, lực học của họ cũng tốt hơn, nhờ đó họ tránh được các sai lầm thô kệch mà đám đông mắc phải. Tuy nhiên họ còn có những ẩn ý khác mạnh mẽ hơn nhiều.
Để lượng giá cho đúng, chúng ta phải xem xét họ là ai? Cấp lãnh đạo, gọi cho đúng, thì gồm thượng hội đồng Sanhedrim đồng thời là tòa án, ban cố vấn và nghị viện. Họ chia thành phẩm trật, thứ nhất gồm thượng tế năm đó, các cựu thượng tế và họ hàng gần của họ, các gia trưởng của những gia đình tư tế lớn. Loại thứ hai: Tiến sỹ luật, những người có học. Loại thứ ba các kỳ mục, là những tư tế hoặc giáo dân thường, không thuộc về hai loại trên.
Sanhedrim tuyển chọn thành viên của mình ở hai đảng phái lớn trong dân lúc ấy. Nhưng không theo tỷ lệ ngang nhau. Hai đảng này hiện đang chia rẽ đất nước Do thái: Đảng Saducêo và đảng Pharisêo.
Đảng Pharisêo còn gọi là biệt phái hay biệt lập. Gọi như vậy vì họ nhiệt thành, muốn giữ lề luật tinh ròng, biện giải tinh tế và cơ hội chủ nghĩa (chờ lật đổ ách thống trị Roma). Họ cứng rắn trong chính trị đối nội và khinh miệt ngoại bang. Họ là kẻ thù lớn của đế quốc Roma. Họ trông mong Đấng Thiên Sai, nghiêng về tinh thần, tin vào thiên thần, hồn thiêng và bất tử.
Ngược lại, đảng Saducêo vật chất, giầu có và thiểu số. Họ không yếm thế, ưa tìm khoái lạc. Họ đại diện cho giới thượng lưu kiêu căng. Họ chỉ nhận 5 sách lề luật, gạt bỏ bình giải và tất cả mọi truyền thống của Pharisêo, chẳng quan tâm chi về Đấng Thiên Sai. Họ thích ứng với luật Roma. Chính sách của họ là sống hoà bình với ngoại bang. Như vậy bạn hữu của họ là Philatô, Hêrôđê, vua chúa La mã. Quần chúng khinh miệt phái Saducêo này. Trong khi có cảm tình với Pharisêo, bởi nhiều ấn tượng về lòng đạo đức bên ngoài và học thuyết cao siêu của đảng đó.
Người phú hộ trong các dụ ngôn xem ra là đại diện cho phe Saducêo, sau một cuộc sống hưởng thụ ích kỷ, ông bừng tỉnh dậy thấy mình ở một thế giới khác mà ông ta không tin có và vì thế không chuẩn bị chi cả.
Tuy thường phân rẽ nghiêm trọng, nhưng trong vụ án Đức Giêsu họ liên minh chặt chẽ vì một lợi ích chung hay vì một âm mưu lớn. Người Saducêo chống đối Đức Giêsu vì lý do chính trị. Họ cho rằng Người phá hoại ảnh hưởng của họ và đặt quốc gia vào nguy hiểm. Đây là thái độ của Caipha: “Các ông không hiểu gì cả. Các ông cũng chẳng nghĩ đến điều lợi cho các ông là: thà một người chết thay cho dân còn hơn là toàn dân bị tiêu diệt” (Ga 11,49). Người Saducêo không ưa thích những tranh luận về học thuyết, trừ phi nó liên quan đến nếp sống của họ.
Ngược lại về điểm thứ hai này người Pharisêo chống đối Chúa Giêsu. Họ tấn công Người chủ yếu về lề luật Môsê mà trước mắt họ đang bị giáo lý của Chúa đe dọa. Họ là tín hữu tinh ròng và đức Giêsu đang làm hư hỏng quần chúng. Họ có một truyền thống bất di dịch mà họ tuân theo hơn cả lề luật. Đức Giêsu lại chẳng màng chi đến truyền thống ấy. Hơn nữa Người chất vấn tính luân lý của các tập tục.
Thí dụ Người không tuân thủ sự thanh tẩy theo nghi thức, trà trộn với kẻ tội lỗi và các Publicanô chủ nhân các nết xấu công khai. Người và các môn đệ cũng không ăn chay, giữ ngày Sabbat theo luật định. Nhóm Mười hai còn bứt lúa trong ngày Sabbat. Đúng Người thuộc về Satan, là thủ hạ của Beelzebub, vị thần của dân Accaron.
Suốt cuộc sống công khai Đức Giêsu bị đảng Pharisêo chống đối mãnh liệt. Kẻ ôn hòa nhất cũng không thể thỏa hiệp với thái độ loan báo sứ điệp trẻ trung vĩnh hằng của Người vào thế giới tôn giáo bảo thủ hiện hành. Phần đông họ tấn công vũ bão về mọi mặt. Còn phe Saducêo đứng ngoài quan sát mà thôi, dù đôi khi cũng tham gia tích cực.
Và rõ ràng Đức Kitô cũng không nhẹ tay đối với họ. Giáo lý của Người không hề dung hòa với các tư tưởng của họ. Hành vi của Người không đếm xỉa đến các tập tục cổ truyền. Sự đối kháng mà Người vạch ra giữa luật mới và luật cũ chỉ gây thêm thù hận, và họ cũng không rút ra bài học từ những lời sau đây: “Ta đến không phải để phá huỷ nhưng để kiện toàn”.
Người tuyên bố có quyền tha tội, coi mình như người chủ của ngày sabbat, cho phép người ta gọi mình là Mêssia, con vua Đavít, con Đức Chúa Trời và những tước hiệu phạm thượng tương tự. Nhưng nhất là nhiều lần Người xúc phạm nặng nề đến cấp lãnh đạo của dân riêng. Người đã sỉ nhục họ bằng những tố cáo đầy khinh khi đến nỗi người ta chỉ còn chờ đợi trả thù bằng thập tự.
Thí dụ Người tuyên bố: “Anh em phải cẩn thận, phải coi chừng men Pharisêo và Saducêo” (Mt 16,6) là những kẻ giả hình (Lc 12,1). Người mô tả họ như quân đạo đức giả. Dân ngoại và đĩ điếm sẽ vào nước trời trước họ. Người còn so sánh lời cầu nguyện khoe khoang của họ với lời ăn năn thống hối của người tội lỗi công khai. Một người ra về được tha thứ, người khác bị lên án. Người chế giễu cách ăn chay, mặc áo choàng, nối dài tua áo, đeo thẻ kinh mà lòng dạ xấu xa. Họ viết mười điều răn thành khẩu hiệu nhảy múa trước mắt, nhưng chẳng ảnh hưởng chi đến nếp sống hàng ngày. Tôn giáo là nguồn thu thập lợi tức, là quyền được ngồi chỗ nhất. Họ kinh doanh Nước Trời. Lòng yêu lề luật thực chất chỉ là hình thức điên cuồng, vụ chữ nghĩa, bẻ cong tinh thần. Họ tự coi là người canh cổng thiên đàng và bán vé, nhưng không vào và những ai muốn vào họ ngăn cản. Họ là “lãnh đạo mù của các kẻ đui”, tất cả đương nhiên sẽ rơi xuống hố sâu.
Như vậy sau nhiều giai đoạn trong ba năm rao giảng. Đỉnh cao của hận thù, đã đến hồi kết thúc bằng ba ngày khổ nạn. Trong những ngày cuối cùng này, chúng ta được nghe Đức Giêsu gay gắt kết án cấp lãnh đạo đền thờ. Người nhắm thẳng vào những kẻ canh giữ nó: “Khốn cho các ngươi, hỡi các kinh sư và người Pharisêo giả hình! Các ngươi rửa sạch bên ngoài chén dĩa, nhưng bên trong thì đày những chuyện cướp bóc và ăn chơi vô độ các ngươi giống như mồ mả tô vôi, bên ngoài có vẻ đẹp, nhưng bên trong thì đầy xương cốt người chết, và đủ mọi thứ ô uế đồ mãng xà, nòi rắn độc, các ngươi trốn đâu cho khỏi án phạt hỏa ngục?” (Mt 23,25,27,33).
Sau lời nguyền rủa là một cuộc thách thức mà không ai có thể lẫn lộn ý nghĩa: “Người nhắm thẳng vào cá nhân các thủ lãnh tôn giáo đưa ra bằng chứng cha ông họ đã sát hại các tiên tri và bây giờ họ cộng tác vào tội ác ấy bằng cách xây dựng mồ mả cho các vị: “Các ngươi tự làm chứng rằng các ngươi đúng là con cháu của những kẻ giết các ngôn sứ, thì các ngươi đổ thêm đầy đấu tội ác của tổ tiên các ngươi đi Như vậy, máu của tất cả những người công chính đã đổ xuống đất, thì cũng đổ xuống đầu các ngươi, từ máu của ông Abel, người công chính, đến máu của ông Dacaria, con ông Berecgia mà các ngươi đã giết giữa đền thánh và bàn thờ. Tôi bảo thật các ngươi: tất cả những tội ấy sẽ đổ xuống đầu thế hệ này” (Mt 23,31-32; 35-36).
Chúng ta có thể tưởng tượng rằng ngôn ngữ như vậy sẽ là bản án tử hình cho tác giả: Có lẽ từ đó chống đối của cấp lãnh đạo Do thái đã hình thành chính thức. Tiến trình luật pháp chỉ còn đợi thời gian. Đó là lý do từ nay về sau Phúc âm luôn nhắc đến Pharisêo, Saducêo như đại diện của thượng hội đồng Sanhedrim, tức các thày thượng tế cho Saducêo, và các kinh sư cho phe Pharisêo. Kỳ mục, thuộc cả hai phe.
Ý kiến của phe thứ nhất ảnh hưởng nặng ký trên người Roma cầm quyền, bởi vì phe này ủng hộ ngoại bang, thêm vào đó họ giữ quyền lực tôn giáo. Mặc dù họ thường gặp rắc rối với phe Pharisêo khi thi hành quyền lợi này. Pharisêo nắm được lòng tôn trọng của quần chúng hơn. Do đó chúng ta dễ hiểu trước toà án Philatô, các thượng tế giữ vai trò then chốt. Sự bực tức của họ xấu xa nhất vì là sự tức giận phạm thượng và ích kỷ nhất.
Sự nổi giận của họ mãnh liệt đến độ xem ra không có hình phạt nào đủ dã man để thỏa mãn những tâm hồn nhơ bẩn và cay đắng này, nòi rắn độc hôi thối này đều là những tên khát máu. Bộ mặt tô vẽ của chúng hằm hằm sát khí. Ba năm qua họ luôn tìm kiếm trừng phạt ông Giêsu: Chiến thắng của họ phải được ghi dấu bằng một khổ nạn không gọi được tên.
Cộng thêm vào phần thưởng Barabbas cho ngày lễ, họ còn đòi hỏi cái chi? Còn vận động quần chúng cho mục tiêu nào?
Có lý do mà sợ rằng hình ảnh” đóng đinh” trong tưởng tượng của chúng ta chưa tương xứng, hãy còn mờ nhạt. Hình ảnh quen thuộc của Chúa Cứu Thế chịu đóng đinh được khắc đẹp đẽ trên vàng bạc, ngọc trai, ngà voi, đồng chì. Những tác phẩm nghệ thuật cao, những ảnh vẩy đeo cổ làm cho người coi sợ hãi, chưa đủ để mô tả cơn giận dữ la hét: Đóng đinh nó đi. Đóng đinh nó vào thập giá!
Đối với quyền bính Roma, hình phạt thập giá là xấu hổ và tàn bạo nhất mà luật pháp áp dụng. Nó được dành riêng cho các nô lệ bên dưới phẩm giá con người. Đối với người Do thái, lề luật chẳng biết chi về hình phạt này. Họ ghê tởm nó như sáng kiến của dân ngoại và giận ghét những người nào mắc phải nó. Sự giận ghét lan đến cả gia đình, đến nỗi họ khinh bỉ gọi là thằng chịu đóng đinh. Nạn nhân phải lột hết quần áo cho thêm phần hổ thẹn. Chúng ta không thể nghĩ Chúa lại phải chịu hình phạt đó. Đấng mặc cẩm bào bằng ánh sáng nay chịu trần truồng vì tội lỗi chúng ta. Nhưng sau vài giờ ngỡ ngàng và bối rối sẽ có bàn tay nào đó lấy vải bọc thân xác ấy với lòng kính cẩn. Luật pháp Do thái không cấm cản việc này. Thực tế tập tục vẫn cho phép như vậy. Chúng ta biết dưới chân thập tự có Đức Maria và mấy phụ nữ thánh thiện.
Nhưng cần chi phải hạ nhục thêm Đức Giêsu bằng hai thập tự nữa bên cạnh giá gỗ? Đáng lý giá gỗ phải là ngai tòa vinh hiển của Người. Baraba đã được ưu ái hơn vua cả trời đất. Và như thế Người bị liệt vào hàng các tội nhân. Một tên tội phạm không đủ để sỉ nhục Người nên phải cần đến hai. Hoặc giả đội hành quyết sắp xếp như vậy để đỡ tốn thời gian. Đức Giêsu bị coi rẻ đến mức ấy, chẳng còn chút phẩm giá nào trước mặt thế gian. Vì ai? Dầu sao tuy động cơ và người thực hiện thế nào đi chăng nữa thì sự phỉ báng Người vẫn là một.
Thập ác, xét như một thứ hình phạt, là phát minh của Satan chống lại Đức Giêsu. Có lẽ thiêu sống còn đỡ ghê gớm hơn. Đàng này nạn nhân bị ghim chặt vào cây gỗ nhờ bốn cây đinh sắt vuông. Mỗi cây dài phỏng hơn mười phân, đâm thâu các bàn chân, tay, nơi dày đặc dây thần kinh nhạy cảm và các mạch máu tươi. Những thần kinh chủ bị đau đớn nhiều nhất. Đớn đau truyền đi khắp thân thể.
Trái với tưởng tượng phổ thông cho rằng có cục gỗ đỡ mông, thực tế hai bàn chân Chúa bị đóng thẳng vào thân cây gỗ, đầu gối cong lên chút ít để gan bàn chân tiếp xúc bằng phẳng với thân cây. Như vậy gây nên chuột co rút khắp thân thể. Hơn nữa khi dựng thập tự lên, toàn sức nặng của thân xác dồn vào bốn vết thương ấy. Nếu như có cục gỗ đỡ nâng thì cũng chẳng thoải mái hơn vì đau đớn dồn hết vào các vết đinh đóng.
Ở vị trí bắt buộc của thân xác, người ta tự động ưỡn người ra khiến các cơ bắp căng thẳng thêm, mục tiêu là cố gắng thay đổi tư thế cũ của thân thể. Các bắp thịt co rút mạnh gây đau đớn toàn thân. Hậu quả là thêm những cơn đau đớn mới thay vì được dễ chịu hơn.
Nạn nhân cảm thấy kiệt sức rất nhanh sau những cố gắng như vậy, nhưng không làm sao hồi phục được. Càng bị treo lên càng kiệt quệ, nhưng không thể ngất đi, hoặc rơi vào hôn mê, thứ thuốc an thần tự nhiên. Ở trường hợp bị đóng đinh, hôn mê không xẩy ra vì các dây thần kinh liên tục bị kích thích, đau đớn liên tục gây cho trí óc căng thẳng. Thật là hình phạt quái ác mà loài người nghĩ ra để hành hạ nhau.
Lồng ngực bị co thắt đặc biệt ở tư thế luôn giang thẳng cánh tay. Các cơ bắp bả vai luôn ở vị trí căng hết cỡ làm cho nạn nhân muốn ưỡn người lên hơn để lấy thêm hơi thở, coi thật tội nghiệp. Chẳng có cái ác nào ghê gớm hơn. Nạn nhân chết dần dần vì thiếu dưỡng khí. Trái tim đập nhanh nhưng yếu ớt vì hoạt động quá sức. Máu không đủ tưới toàn thân. Buồng phổi dư thán khí, thiếu Ốc xy và cơ thể tích luỹ chất thải. Bài tiết tự động là phổ biến nơi những nạn nhân bị đóng đinh lâu giờ. Nếu nạn nhân cố nín nhịn thì các cơ bắp bị kích thích ghê gớm. Đầu óc co bóp mạnh truyền lệnh bài tiết, và gây nên cảm giác “triều thiên” ảo so sánh với mạo gai thật ngoài da đầu.
Thớ thịt và gân cổ chịu đựng tối đa sức nặng của cái sọ, buộc nạn nhân phải gục đầu về phía trước. Thân xác luôn ở vị thế treo tòng teng. Những cái lắc đầu phản xạ gây nên cho vòng gai nhọn xé nát da thịt. Tất cả những hiện tượng đó hợp lại thành những cơn co thắt thân thể không chịu đựng được. Tuy nhiên chẳng làm thế nào tự giải thoát.
Cũng không nên quên cái khát kinh hồn, cháy da cháy họng vì chảy máu nhiều và thiếu nước. Đây là mặt khác của cuộc hành hạ khổ giá. Đức Giêsu chẳng được uống chút giải khát nào từ bữa tiệc ly. Nói đúng từ lúc bị bắt vào nửa đêm cho đến lúc này, ba giờ chiều thứ sáu. Người chẳng được nhấp môi một giọt nước mát, lại mất máu nhiều. Các cơn sốt nóng sốt rét nối tiếp nhau triền miên, gồng mình chịu đòn vọt, mồ hôi máu vã ra như tắm mà không khát nước thì là phép lạ. Ngoài ra chân tay bị xiềng xích, bị bêu giếu từ nhà Caipha, Anna, Philatô, vai vác khổ hình đi quãng đường dài cả nửa cây số, leo dốc núi sọ. Hỏi ai có thể chịu đựng những nỗi khổ nhục ấy mà không khát nước? Người từ chối dùng thuốc an thần các phụ nữ Giêrusalem đưa cho theo thói quen. Thêm vào đó là khí hậu oi bức lúc ban trưa ở đất thánh.
Những cơn khát trên thập tự khiến miệng Người há hốc, thở hổn hển gây nên khô các màng nhầy cổ họng. Nội tạng bị kích thích nặng nề. Mạch máu toàn thân cạn dần, thiếu máu, thiếu chất dinh dưỡng, khô cạn sức lực là điều hiển nhiên.
Chúng ta có thể phỏng đoán thân thể Người không còn chảy máu được bao nhiêu. Các vết thuơng chân tay mình mẩy vón dần lại và khô đi. Nhưng cảm giác vẫn không dễ chịu hơn. Bởi lẽ số máu còn lại không đủ lượng để làm tươi mát toàn thân. Có một loại chảy máu khác mà các thày thuốc cổ điển gọi là chảy máu vì đau đớn. Tức sự cạn kiệt của thần kinh so sánh với cạn kiệt thể lý làm cho nạn nhân từ từ yếu đi như thể bị hành hạ cùng cực, rồi chết.
Đến đây chúng ta mường tượng được tại sao người xưa coi thập giá như “chiếc giường kinh hoàng” và tại sao khi chiêm ngắm Đức Giêsu trên thánh giá thì nhiều nhà thần bí la toáng lên vì thương cảm. Trong hoàn cảnh này tình yêu rất nhiều “sáng kiến” để biểu lộ mình, ngõ hầu người được yêu cảm nghiệm những nỗi quặn đau của kẻ yêu mình, để họ kiên trung tuyệt đối với tình yêu.
Đây là trường hợp của tác giả bài “cờ vua cả” (Vexilla Regis) ông đã thấu triệt nỗi đau ấy và chêm vào bài mấy câu thơ thảm thiết cầu khẩn cùng thánh giá: “Rũ cành xuống hỡi cây cao bóng cả, giãn thớ ra cho thân cứng hóa mềm, như chiếc giường vừa trải nệm ấm êm, chờ vua cả đến đặt mình nằm xuống” (PVGK). Những lời trên phản ánh sự phản kháng của một trái tim yêu mến. Nó là câu đáp cho lời than vãn của Đấng chịu đóng đinh mà thánh vịnh 21 nói lên:
(15) Tưởng mình như đã tan ra nước.
Toàn thân con xương cốt rã rời,
Con tim đau đớn bồi hồi,
Mềm như sáp chảy tơi bời ruột gan.
(10) Nghe cổ họng khô ran như ngói
Lưỡi với hàm dính lại cùng nhau,
Chốn tử vong Chúa đặt vào,
(17) Quanh con bầy chó đã bao chặt rồi
Bọn ác đó trong ngoài vây bủa,
Chúng đâm con thủng cả chân tay,
(18) Xương con đếm được vắn dài,
Chúng đưa cặp mắt cứ hoài ngó xem
(19) Áo ngoài mặc chúng đem chia chác,
Còn áo trong cũng bắt thăm luôn.
Những tư tế thượng phẩm ở đền thờ Giêrusalem có trái tim chó sói. Chúng chẳng bao giờ thương xót ai nên có hành động như vậy, mất hết tính người, như những bạo chúa ở Đông Phương, chặt đầu quân thù xong thì liếm lưỡi kiếm. Thánh vịnh 56 viết: “Nanh vuốt chúng là đầu tên mũi giáo, lưỡi thì sắc bén tựa gươm đao” (c.9) Thánh Augustinô thêm: “Tuy chân tay không cầm võ khí, nhưng miệng lưỡi họ phóng ra những chiếc đao giết chết Đức Giêsu”.
Thực tế đây là một cuộc trả thù đẫm máu. Đức Giêsu đã mạt sát họ không tiếc lời, đánh đòn họ bằng “tình yêu mạnh mẽ hơn sự chết”, nhưng linh hồn họ chẳng phải chịu đựng chi cả. Người không thuộc về họ, cho nên họ trừ khử Người. Họ nghĩ rằng làm như vậy là cứu vãn quyền lợi đặc biệt của mình. Thực chất lời cuối cùng của Chúa chưa được nói ra, thì các quyền lợi thế gian đã chấm dứt, rơi vào cạn kiệt để rồi khi Người tắt thở là lúc nó tiêu vong vĩnh viễn.
Nhưng liệu chúng ta dám nghĩ rằng họ không được cứu rỗi vì tính cứng đầu cứng cổ? Liệu họ có bị loại trừ khởi ơn ích thứ tha của Người? Không hẳn vậy: “Thưa Cha, cả những người này nữa, xin tha cho họ”. Đức Kitô không bỏ rơi ai, vì ngay cả những lý hình đáng kính này, theo nghĩa nào đó, cũng chẳng biết việc mình làm. Họ không biết hết chiều dài, chiều rộng, chiều cao, chiều thấp của tội ác mình phạm. Mặc dù theo thâm tâm độc địa của họ, tội ác xem ra to lớn, nhưng họ chẳng hiểu thấu nó nặng nề đến đâu. Nó bao trùm toàn vũ trụ.
Liệu họ có nhìn thấy rõ cuộc sống và sự kết án của Đức Giêsu đối với họ như chúng ta ngày nay, sau hơn hai ngàn năm? Chúng ta được học hỏi về đời sống, cái chết, tình yêu, vinh quang của Người vậy mà vẫn đóng đinh Người. Thật khó cho họ, nếu không có ơn soi sáng để nhận ra sự thật, để tin vào Đức Giêsu, khi Người rao giảng ở đất Palestine, hơn là ngày nay Người tỏ hiện ra như vua vinh hiển và uy quyền.
Bằng chứng là tuy các thế lực đền thờ xem thấy các phép lạ Chúa Giêsu làm nhưng vẫn không nhận ra quyền năng của Người, chỉ vì đối với họ Thiên Chúa không thể ẩn dấu dưới hình dạng một người thợ mộc thấp hèn. Họ sống trong đức tin lệch lạc của truyền thống. Họ cần đức tin đứng đắn hơn để có thể dấn thân tin kính. Như chúng ta, họ nghiêng về xác thịt cụ thể, nhưng lại không được mạc khải trợ giúp. Hơn nữa, định kiến nặng nề của họ ảnh hưởng lẫn nhau không có lối mở ra. Cho nên, chẳng ai dám xác định lương tâm họ sai lầm đến mức độ nào? Tội ác của họ ngay tình đến đâu?
Đức Giêsu là một nhà cách mạng, điều này rõ. Nhưng cuộc cách mạng của Người buộc người ta phải chấp nhận đơn giản, không bàn cãi, nghi ngờ và chấp nhận với một cái giá đắt đến độ gây nên phản kháng, chống đối, hận thù. Việc này cho người ta khả năng chạy tội. Nếu Đức Kitô, Đấng thấu suốt mọi tâm hồn, Đấng lượng định chính xác, sẽ không thất vọng khi nhận ra trong họ có lý do để xin Cha Người tha thứ, lý do mà chính Người cũng vì đó mà thứ tha cho họ.
* * *
Sau khi bàn bạc xong phần nổi về đám đông độc ác, thay đổi, hèn nhát, hỗn xược. Lúc này chúng ta đi vào phần chìm của tội ác, tức bí mật của tấn thảm kịch: “Giuđa”. Hắn là hiện thân của màu nhiệm sự dữ. Tin Mừng luôn khẳng định Giuđa thuộc nhóm Mười hai. Thánh Gioan Kim Khẩu cho biết hắn người miền Kerioth, bằng không, chẳng ai biết chi về tung tích của hắn.
Kerioth thuộc xứ Giuđea. Như vậy gốc gác của Giuđa khác với các tông đồ còn lại, là người Galilea. Nhưng ông cũng được Đức Giêsu kêu mời trong trường hợp tương tự và đã nhập bọn ở chân núi sau khi Chúa cầu nguyện.
Dầu biết hết mọi sự, nhưng Chúa không khước từ Giuđa. Người chẳng nói: “Thôi đi, anh không bền vững đâu, cho nên chấp nhận anh là vô ích, có khi mang họa vào thân”. Sự quan phòng thần linh luôn liên hệ trực tiếp với tự do của con người, không huỷ hoại nó, ngược lại tôn trọng để chúng ta tự do lựa chọn. Hình như tự do có khả năng trói buộc cánh tay của Đức Chúa Trời. Dù dưới sự quản trị của Thiên Chúa, linh hồn vẫn tự do hành động như thể độc lập, tựa như con cá tự do bơi lội trong ao, dù nó bị nước ao hạn chế. Con người vẫn lệ thuộc vào kế hoạch của Đức Chúa Trời như các thụ tạo khác.
Giuđa giữ vai trò khá quan trọng trong nhóm Mười hai. Hắn là thủ qũy giữ tiền bạc người ta dâng cúng để mua lương thực cho nhóm và phân chia cho những kẻ nghèo khó. Như vậy hắn được Thày và anh em đặc biệt tín nhiệm. Nhưng thánh sử Gioan phê phán một câu: Giuđa là tên ăn cắp.
Tuy nhiên tên ăn cắp gắn bó với Thày không phải là chuyện bình thường, phải có chi đặc biệt. Thói thường nết xấu này nẩy sinh từ nết xấu khác. Lòng tham của hắn đâu phải chỉ là tiền bạc, nó phát sinh từ đối tượng khác mà chúng ta sẽ khảo sát sau. Tham lam tiền bạc chỉ là biểu hiệu nhỏ. Đọc kỹ Phúc âm, chúng ta nhận ra Đức Giêsu luôn nghi ngờ ách thống trị của tiền bạc. Sau này thánh Phaolô gọi là thờ ngẫu tượng. Chắc chắn Đức Giêsu chẳng để ai tham lam. Nhóm 12 vì thế chẳng có nhiều tiền của để nuôi dưỡng lòng tham của Giuđa. Phải có nội dung nào đó nơi Đấng sáng lập nước trời để Giuđa kỳ vọng vào. Dĩ nhiên tiền bạc vẫn là đáng kể. Bởi lẽ quyền bính đi liền với lợi lộc. Hắn theo Chúa lúc này, để chờ cơ hội thuận tiện đạt mục tiêu khác, khi Người tỏ hiện vinh quang.
Tuy Giuđa là con người tham vọng trần tục, giống như các tông đồ khác. Nhưng không bộc trực như Gioan, Giacôbê, những kẻ đã qua miệng mẹ để xin Đức Giêsu: “Tôi muốn Thày ban cho các con tôi một đứa ngồi bên tả, một đứa ngồi bên hữu Thày trong nước của Thày”. Hình như Giacôbê và Gioan còn trẻ tuổi. Giuđa đã trưởng thành nên khôn khéo hơn. Ông ta muốn đoạt vị trí cách tinh xảo hơn trong hàng ngũ các tông đồ. Trước hết ông cần sự tín nhiệm của Thày. Ông nhiệt thành với Thày bao nhiêu tùy vào tình thế đòi hỏi, không cần nổi bật. Khi quyền lực của Thày đủ lớn, triển khai ý đồ vẫn chưa muộn. Hắn sẽ chọn lựa đường lối riêng để làm việc ấy và đạt mục tiêu.
Giuđa tin vào Đức Giêsu, trông thấy nơi Thày khả năng dẫn mình tới danh vọng và lợi lộc. Ông ta phục vụ Chúa với tham vọng riêng. Hắn đặt ván bài số phận chung với Đấng Thiên Sai. Mỗi cá nhân trong tuyển dân Do thái đều mong ước như vậy. Trường hợp của Giuđa không đi ra ngoài não trạng ấy.Ông góp sức với Thày vì mục tiêu riêng.
Các tông đồ còn lại không khác Giuđa bao nhiêu. Họ ấp ủ ảo tưởng tương tự. Nhưng khác ở chỗ họ thật tình yêu mến Thày. Từ đầu lòng gắn bó của họ là quảng đại và nếu cần, vô vị lợi. Đối với Giuđa không thể như vậy. Ông cần một địa vị chứ không phải chỉ đơn giản yêu mến Thày. Điều này tỏ rõ khi chứng kiến Magdala hoang phí dầu thơm trong nhà ông biệt phái Simon. Ông ta không nhận ra ý nghĩa và mục tiêu của việc ấy vì thiếu lòng yêu mến Thày, ông đưa ra lời bình phẩm: “Tại sao lại phí phạm như vậy?”.
Lời ấy biểu lộ chân tướng thật của Giuđa, quá tầm thường ti tiện, quá tham lam, thiếu tình bạn hữu, bên dưới lòng kính trọng Thày, bên dưới cả tình huống chung của tục lệ Do thái. Người cao thượng không suy nghĩ như ông. Như vậy chúng ta đoán được sau này ông sẽ hành xử ra sao giữa nhóm Mười hai? Mục tiêu của nhóm này như Thày chỉ bảo là cuộc sống thanh tao, lý tưởng cao siêu, luân lý tuyệt vời. Làm sao Giuđa chia sẻ? Khi mộng đã vỡ, phản bội là phần chắc chắn.
Các Phúc âm đều nhấn mạnh, Giuđa thuộc nhóm Mười hai. Nhưng lòng trí ông ta khác hẳn, không cùng tinh thần, không cùng mục tiêu. Nghĩa là không thuộc về nhóm, chỉ theo Thày bề ngoài mà thôi, còn tình cảm, lý tưởng, ý chí là của riêng ông. Ông không cùng chí hướng với Thày. Ông có mặt trong nhóm với ý đồ riêng, chỉ cá nhân ông biết, đó là ăn cướp nước trời. Nghề nghiệp của ông mà, cho nên thánh sử Gioan gọi ông là tên ăn cắp. Tưởng không ngoa. Ông muốn biến lời rao giảng của Đức Kitô thành nguồn lợi riêng. Lúc này ông hãy tạm bớt xén công quỹ và chờ đợi cơ hội cách kiên nhẫn.
Nhưng lòng kiên trì của những con người như vậy thường chấm dứt đột ngột. Bởi ông đang trông thấy sự nghiệp của Thày và nhóm 12 tiến tới khúc quặt đổ vỡ. Thày trò đã tiến gần đến Giêrusalem, tình hình càng lúc càng trở nên bi thảm và đường lối của Thày không còn là lý tưởng của ông nữa. Bài giảng trên núi đã phần nào làm ông thất vọng. Lúc này lại liên tục nói đến tai họa gần kề. Chúng như những nhát gươm nhỏ đâm vào tham vọng của ông. Chúng ta có thể tưởng tượng nghe ông nói trong lòng: “Ta ngu xuẩn biết bao, tham gia vào một chương trình tiêu cực. Thày hứa hẹn tương lai huy hoàng, nhưng tương lai chẳng thấy đâu, chỉ thấy đe dọa và phiền hà. Người ta bảo nên niêm phong số phận lại. Thôi xin từ giã ông Thày ấm đầu, luôn đề cập đến đau khổ và chết chóc. Xin từ biệt vương quốc bánh vẽ của ông ta!”
Ở trên, chúng ta bàn đến dân Do thái thất vọng về Chúa Giêsu và thái độ thay đổi của họ. Sự phản bội của Giuđa sẽ góp phần đẩy nhanh tiến trình. Nghĩa là ông ta làm tệ hại hơn tình hình. Giuđa đi từ thất vọng đến cay đắng, từ không yêu mến đến bực bội, từ bực tức đến làm phản. Tâm lý của hắn luôn bị dồn ép kích thích tư tưởng phản bội, nhưng làm sao đây? Thú nhận công khai thì xấu hổ và bị chê cười, kết cục là hắn căm thù cộng đoàn nhỏ bé của Đức Giêsu.
Như vậy chúng ta hiểu ra câu trả lời cho nghi vấn nổi lên trong trí óc khi tìm biết lý do con quái vật trong người Giuđa, tại sao hắn phản bội Thày và các bạn về mặt tư tưởng? Linh mục M.Loisy nói: Giuđa khó mà chấp nhận con đường thú lỗi. Kẻ hèn nhát này làm thế nào đủ can đảm đối mặt với tình huống? Ông ta thà phản ứng bằng một hành vi bỉ ổi, hơn lý luận ngay thẳng.
Đúng vậy, Giuđa không thể rời bỏ Thày và các bạn mà không gây lộn xộn, khủng hoảng. Hắn đã dấn thân quá sâu đậm vào vòng trong của nhóm và đã thỏa hiệp với hoàn cảnh quá lâu dài. Điều chi xảy ra nếu tự dưng tách rời khỏi nhóm không lời giải thích, khi ông đã mang danh là tông đồ của Đấng Mêssia? Ông không còn lý tưởng nữa, mà đã trở nên kẻ thù của cả hai Israel cũ và mới. Của Israel cũ khi mang danh tông đồ của Đức Giêsu, mới khi phản bội Người và các bạn. Cũ khi đối kháng với thượng tế, luật sĩ, Pharisêo. Mới khi vỡ mộng toan tính chống lại Thày mình và các bạn đồng liêu.
Lối thoát duy nhất cho hắn mà hắn có thể tìm ra là lật lọng. Nếu nhìn theo hướng đó, người ta nghĩ đây đúng là một cám dỗ ghê gớm. Nó hằng tấn công hắn ngày đêm. Lấy một ví dụ cho dễ hiểu: cả hai đạo binh thù địch đối diện nhau lập thành mặt trận. Một binh sỹ muốn đào ngũ thì làm thế nào? Hắn không thể đơn giản buông súng chạy sang bên kia giới tuyến. Phải tìm một lối thoát phức tạp hơn. Giuđa cũng vậy lối thoát của hắn là bán đứng Thày và các bạn, để tỏ ra nhiệt thành với giới tuyến mới. Sau khi đã phản bội Thày và sát nhập vào hàng ngũ địch, hắn phải chứng tỏ mình đầu hàng thực sự để xóa đi mọi nghi ngờ của phe địch, tức lấy lại uy tín bằng chứng cớ cụ thể.
Giuđa hành xử đúng tâm lý ấy. Các thế lực đền thờ dứt khoát quyết định tiêu diệt Đức Giêsu. Giuđa biết rõ như vậy. Đức Giêsu cũng biết. Vấn đề đã minh bạch đủ, không còn lưỡng lự hoặc nghi ngờ. Chỉ đợi cơ hội là hành động. Thám tử đã sang cầu, ráo riết tìm nội công. Tại sao không nắm lấy cơ hội để dễ dàng đổi hàng ngũ? Nhờ đó hắn sẽ dễ dàng gỡ mình ra khỏi hoàn cảnh bất đắc dĩ và lấy lại tương lai bằng cách liên minh với phe địch, đạp đổ tan nát cái vương quốc tưởng tượng của ông Giêsu?
Xưa nay người ta vịn cớ 30 đồng tiền bạc để giải thích động cơ của Giuđa. Nhưng thiết nghĩ không đủ. Ba mươi đồng tiền bạc chẳng là chi, chỉ đáng giá một tên nô lệ, hay bình dầu thơm của Magđala mà Giuđa chỉ cho là tiền hoang phí. Vậy thì có đủ nặng ký để Giuđa đưa đến hậu quả vô lường?
Khó mà tin như vậy. Hơn nữa nếu bỏ tình cảm ra ngoài, thì Giuđa còn gặp một khó khăn khác. Tính mạng của hắn bị đe dọa nếu không có con đường an toàn hơn. Đúng vậy, liệu kiên trì lâu la đến thế để phơi mình ra nguy hiểm vì 30 đồng? Không thể có chuyện như vậy. Ba mươi đồng chỉ là lý do phụ. Động cơ chính phải là tính nết nhỏ nhen trong bản lãnh con người Giuđa, vốn xưa nay tối tăm.
Trong một số người, ngay cả ở trường hợp bội phản vẫn còn dấu vết của kiêu căng. Người ta phải để ý lắm mới nhận ra. Nó tỏ lộ tất cả sự hèn hạ, nhưng dưới hình thức thông thường, đúng hơn tầm thường. Bản chất mưu mẹo của Giuđa xuất hiện lúc này giống như thời còn ngấm ngầm: Ty tiện, tham lam, thô lỗ. Khi nhận 30 đồng bạc, hắn suy tính tiêu dùng như thế nào cho hợp lý nhất.
Trong bữa tiệc ly ở phòng trên lầu, Đức Giêsu chấm miếng bánh trao cho Giuđa như ám hiệu nói lên bản lĩnh của hắn. Sử gia Gioan viết: “Nhận xong miếng bánh, Satan liền nhập vào Giuđa” (Ga 13,27). Thánh Gioan Kim Khẩu nhận xét: “Satan đi vào chỗ dành sẵn cho hắn”. Đấng đáng kính Bêđa thêm: “Đây là lần thứ hai, lần đầu là khi Giuđa làm quyết định phản bội. Ngày hôm hắn đồng ý trao nộp Đức Giêsu thì Satan nhập vào linh hồn hắn như vào ngôi nhà tạm, lần này như nhà riêng của mình”.
Liệu người ta được phép nói Satan đã ở trong linh hồn Giuđa từ lâu rồi? Bởi hơn một năm trước lúc nhân bánh lên nhiều, Đức Kitô ám chỉ Người là bánh trường sinh của nhân loại và những ai ăn bánh Người ban mới có sự sống muôn đời. Giuđa đã hé lộ ý nghĩ đen tối của mình. Ông đồng tình với đám đông, phản đối ngầm trong bụng: “Lời này chói tai quá, ai mà nghe được?”. Bây giờ ngày 13 tháng Nisan hắn đứng dậy rời khỏi bàn tiệc Thánh Thể là lẽ đương nhiên. Thánh Gioan bình luận thêm: “Quả thật ngay từ đầu Đức Giêsu đã biết những kẻ nào không tin và kẻ nào sẽ nộp Người. Cho nên Người nói tiếp: Chẳng phải Thày đã chọn anh em là nhóm Mười hai sao? Thế mà một trong anh em lại là quỉ” (Ga 6,65-71).
Như vậy chí ít là một năm, Đức Giêsu đã giữ trong nhóm Mười hai một môn đệ mà Người đã từng vạch mặt. Tuy nhiên vẫn đối xử bình thường như mọi người, không chút phân biệt, vẫn gọi hắn là “bạn hữu”, vẫn soi rọi vào linh hồn hắn ánh sáng siêu nhiên, ban cho đầy đủ ân huệ và đặc quyền. Nhưng hắn không hề ăn năn.
Vào những ngày còn hăng hái Người đã sai từng hai môn đệ đi trước vào những làng mạc sửa soạn đường lối cho Người, ký thác cho họ bí mật nước trời tuỳ vào lượng định của Người để họ công bố cho thiên hạ. Ngay chiều hôm qua Người còn rửa chân cho Giuđa. Người hy vọng được lợi người môn đệ lầm lạc bằng cử chỉ khiêm tốn cực kỳ. Nhưng Giuđa lại tự tách mình ra khỏi nhóm và tình yêu của Người, bất chấp lời mời gọi và đối xử dịu dàng. Cử chỉ làm chúng ta nhớ lại: “Cây lau bị giập, Người không hề bẻ gãy, tim đèn leo lét, chẳng nỡ giập tắt đi” (Is 42,3).
Thái độ của Đức Kitô đối với Giuđa hoàn toàn là của Thiên Chúa đối với từng linh hồn, từng nhóm người, từng cộng đoàn và hết thảy loài người không loại trừ một ai, lòng kiên trì lạ lùng cho tới giai đoạn tận cùng. Con người tự niêm phong số phận mình, quay lưng lại với lời mời gọi của Thiên Chúa. Địa ngục là như vậy.
Tuy kiên nhẫn với Giuđa, nhưng Đức Kitô không thụ động đợi chờ. Người đã nghiêm nghị cảnh cáo nhiều lần. Ngôn từ “quỉ” Người dùng một năm trước đó không nhẹ ký chút nào, dù nó chẳng xác định rõ một ai, nhưng là lời mời gọi Giuđa nghĩ lại và ăn năn. Hôm qua ngôn ngữ đau buồn không kém: “Anh em đã sạch, nhưng không phải hết thảy”. Một lời mời gọi khác: “Một người trong anh em sẽ phản bội Thày”. Chưa hết, còn lời ám chỉ nữa trong câu: “Đã hẳn, Con Người phải ra đi như đã ghi chép, nhưng khốn cho kẻ trao nộp Người” (Mt 26,24). Lòng Giuđa chai đá quá, còn chúng ta?
Đến giây phút cuối cùng Đức Giêsu vẫn lịch thiệp. Khi mười hai môn đệ ngỡ ngàng trước lời tiết lộ của đức Giêsu, họ hỏi nhau: “Ai trong nhóm lại toan làm điều ấy” (Lc 22,23) và từng người đều sợ cho bản thân và không dám nghi ngờ kẻ khác, thì giữa đức Giêsu và Giuđa không còn bí mật nữa. Tuy nhiên Người vẫn bình thản gọi Giuđa là “bạn” và cảnh cáo hắn rằng ý đồ đã bị bại lộ. Phải chăng Thày có ý ngăn cản không để hắn hành động và đưa về con đường hối cải, thú nhận và chê ghét tội ác ghê gớm của mình? Dầu sao vẫn còn thời gian và cơ hội.
Cuối cùng Người phán bảo hắn: “Việc chi bạn dự tính làm thì hãy làm mau đi”. Nhưng thay vì ăn năn, quì xuống dưới chân Thày xin lỗi, Giuđa đi vào đêm tối. Và dấu hiệu: “Hễ tôi hôn ai thì đó là người, các anh hãy bắt trói ngay” xem ra được dàn xếp trước vào lúc Giuđa rời phòng tiệc ly. Một sự phản bội trơ trẽn và cương quyết. Lòng người ghê gớm và tồi tệ thật, chọn dấu hiệu yêu mến mà trao nộp Thày. Chúng ta lấy bài học này mà răn bảo mình.
Phản bội vốn là nỗi đau đớn tinh thần của các bậc quân vương. Thời gian dài Đức Giêsu đã từng nếm trải nó. Đêm nay Người lại được nếm mùi vị đắng cay của nó. Chúng ta có thể mường tượng hình thức cuối cùng của nó là Giuđa ôm hôn mặt Thày. Thật quá cay độc và giả dối, đến nỗi ở các lần khác Đức Giêsu chỉ giữ im lặng, nhưng lần này Người phải bật lên lời bình phẩm: “Này bạn, bạn đến đây làm gì thì cứ làm đi” (Mt 26,50). Chúng ta có thể thêm “Việc chi phải giả dối”. Đúng vậy Đức Giêsu nhìn thẳng vào mặt tên phản bội nói: “Giuđa ơi, bạn dùng cái hôn mà trao nộp Con Người sao?” (Lc 22,48).
Ôi hãy để con người phản trắc suy nghĩ về hành vi của mình trước lời nài nỉ của Thày. Hãy coi xem ai nài nẵng anh ta? Hãy để tấm lòng chai đá của con người ấy tan chảy thành dòng suối nước mắt ăn năn như Magđala dưới chân Chúa. Hãy để trái tim lầm lạc ấy trở lại vị trí môn đệ Chúa như trước, dù là dưới chân thập tự mà ông đã dựng nên. Thánh giá cứu chuộc mà Đức Giêsu bằng lòng chịu ghim vào, treo lên, bị sỉ nhục, nhạo báng và chết vì linh hồn ông ta, ngõ hầu nhờ máu huyết của Người, máu chính ông làm đổ ra, ông được cứu vớt. Hãy thúc giục Giuđa hồi lại quyết định của mình vì còn thời gian. Người con hoang đàng ấy sẽ được nhận trở lại vào gia đình thánh thiện đang hình thành. Người cha của gia đình, sau ba ngày khổ nạn, sẽ phục sinh liên kết mọi thành viên vào thân thể màu nhiệm của mình. Giuđa sẽ được ăn thịt bê béo, mặc áo tốt nhất, sỏ nhẫn vào tay, đi giầy mới, và mạnh dạn nói lên: “Lạy Thày chí thánh, thưa Cha yêu dấu. Con đã lỗi phạm đến Cha và với Trời, xin đối xử với con như tôi tớ vậy.”
Nhưng đó chỉ là ước mơ. Thực tế, hắn đóng chặt cửa lòng và thi hành kế hoạch. Lúc nhận ra hậu quả bằng con mắt thật thì đã quá muộn. Hắn bị choáng ngợp bởi tính ghê gớm của tộc ác mình phạm.
Tội của hắn là lạm dụng lòng tín nhiệm của Thày và đồng liêu suốt ba năm trường. Lúc này đáp trả bằng âm mưu bỉ ổi, còn đẩy nhanh tiến độ, kết thúc cuộc đời Thày, bạn thân của mình, bằng tạo cơ hội thuận tiện cho kẻ thù. Đúng lý họ còn đang lưỡng lự vì sợ dân chúng. Ông ta đã mở toang con đê chặn lòng căm ghét của quân địch, để nó được tự do hoành hành như dòng thác vỡ bờ. Lúc hắn rời căn phòng trên lầu, thì cái chết của Thày khởi sự. Hắn đưa nốt nhạc lạc điệu vào bài diễn từ cuối cùng của Thày. Thày nói thương yêu, hắn nói hận thù. Hắn đứng dậy ra đi để trao nộp vị tôn sư đáng kính vào chốn tử vong. Sau khi đã nếm vị tinh tế, ngọt ngào, cao siêu, quảng đại, bao dung nhất của tình yêu thần linh, hắn chọn cái hôn giả dối để chỉ điểm làm dấu hiệu cho mưu mẹo phản bội. Cái hôn vốn là biểu hiện của tình yêu. Ôi xưa nay lòng dạ con người vẫn thế.
Nhiều học giả Thánh Kinh so sánh Giuđa với Gio-ab, một tay cầm râu Amasa hôn, tay khác rút dao đâm vào sườn Amasa (2v 20,9) (người Do thái cổ và ngày nay người Ai-cập, Ba Tư có thói tục khi hôn thì cầm râu). Giuđa, không trực tiếp đâm Đức Giêsu, ông sợ làm việc đó, nhưng gián tiếp khi dẫn các vệ binh đền thờ đến bắt Thày. Ông nói: “Các anh bắt lấy và dẫn đi cho cẩn thận” (Mc 14,44).
Mặt khác, làm như vậy ông cống hiến cho nhân loại một ích lợi lớn lao không xiết kể. Ông đã tăng tốc công trình cứu rỗi nhanh chóng và hiệu quả hơn. Sự phản bội của Giuđa khuyến khích tín hữu đền bù tội lỗi và lãnh nhận kho tàng tình yêu. Một giáo phụ suy gẫm: “Đây là một cuộc trao đổi có lợi cho chúng ta: Giuđa bán Chúa, người Do thái mua và nhân loại được lợi Đấng Cứu Độ”. Giáo phụ khác viết: “Bởi lẽ Giuđa rao bán Chúa, chúng ta hãy mua bằng giá trái tim mình”.
Tuy nhiên, những tư tưởng đạo đức trên không thay đổi chi trong ý nghĩ và trách nhiệm của Giuđa. Công việc của hắn vẫn vậy. Đức Giêsu trước mặt Philatô cho biết đó là tội ác nghiêm trọng hơn tội của quan. bởi vì phạm thánh hơn và dứt khoát nhất. Lúc này Giuđa trông thấy thực tế đó và ghê tởm, nhưng quá muộn.
Khi Đức Giêsu bị kêu án tử hình, xem ra Giuđa Kerioth muốn rút lui khỏi công việc mình làm, nhưng vẫn không ăn năn theo ý nghĩa của từ đó. Ông chỉ muốn chối bỏ hậu quả của hành động. Số tiền trong túi đang thiêu đốt tâm hồn hắn. Lương tâm bị bóp nghẹt vì tham vọng của hắn là lời tố cáo ngấm ngầm chống lại hắn, vì đã trao nộp Thày cho các thế lực đền thờ lúc này trở nên nỗi ám ảnh không nguôi. Hắn trở lại với thượng tế nói: “Tôi đã phạm tội ác trao nộp người ngay lành, khiến người phải chết”. Rồi mang trả ba mươi đồng tiền bạc với hy vọng họ buông tha cho Thày”. Nhưng vô ích, đời nào họ buông tha con mồi hằng mong ước loại trừ? Họ khinh bỉ nói với hắn: “Can gì đến chúng tôi? Mặc kệ anh” (Mt 27,3).
Thế là hắn thất vọng, ném số bạc vào đền thờ và đi thắt cổ tự tử, thâm tâm không hề ăn năn. Tuyệt vọng là không tránh khỏi. Tâm lý chung của các đệ tử Giuđa là như vậy, sợ hãi và chạy trốn, ngay cả không gian vô hạn cũng không đủ chỗ cho họ trốn. Cho nên tự tử là giải pháp hay nhất. Hắn xa lánh đền thờ, thành thánh, thiên hạ và bản thân. Hắn chẳng còn chút hy vọng nào cho nên không thích sống nữa. Người ta lượm số tiền lên và mua một thửa ruộng gọi là ruộng giá máu (Haceldama) cho đến ngày nay. Nó vĩnh viễn làm biểu tượng cho tội ác của Giuđa.
Thật bất hạnh cho linh hồn khốn nạn ấy. Còn hy vọng chi khi cậy nhờ cùng các thượng tế thay vì Chúa Giêsu. Liệu họ có phương dược cứu chữa hắn? Đúng là ngu xuẩn khi tìm địa ngục chữa lành cho linh hồn mình? Địa ngục làm chi có bác ái? Chẳng có người cha nào ở đó mà đón mừng hắn trở về! Liệu giữa bày sói khát máu mà tìm được ơn cứu vớt? Căm thù và tàn nhẫn là dược liệu băng bó trái tim bị tổn thương nặng nề ư? Bây giờ thiên hạ vẫn vậy.
Phúc âm kể rằng Giuđa ân hận nhưng không hối lỗi. Nghĩa là thay vì chạy đến người cha duy nhất đón nhận hắn và làm cho hắn an lành, thì hắn tự mình giải quyết bằng cách cậy nhờ đối phương. Hắn muốn rũ bỏ con quái vật nơi bản thân mà không gắn bó với Đức Kitô? Hắn bất mãn với chính mình mà lại không tín nhiệm vào Thiên Chúa của niềm vui? Muốn uống nước trong lành để tẩy rửa linh hồn nhơ bẩn mà lại khước từ nguồn mạch nước trường sinh. Cho nên không ai lấy làm ngạc nhiên khi chứng kiến hắn treo cổ tòng teng bên vệ đường, vì hắn quá cô đơn và sợ hãi. Nhưng đây lại là tội ác khác, tội cuối cùng của hắn. Thánh Matthêo kể: “Giuđa ra đi thắt cổ” (27,9).
Trong con mắt của Đức Giêsu Kitô mọi tội đều được tha thứ. Điều này tỏ rõ nơi người trộm lành. Khi nhận ra sự sống đang ở gần kề. Hắn hối cải ăn năn và chạy đến sự sống đó bằng lòng đơn sơ chân thành. Hắn mắng anh bạn phạm thượng: “Mày đang chịu chung một hình phạt, vậy mà cả Thiên Chúa mày cũng không sợ. Chúng ta phải chịu như thế này là đích đáng, vì xứng với việc đã làm, còn ông này, ông có làm gì xấu đâu? Rồi quay sang Đức Giêsu anh ta thưa: “Ông Giêsu ôi khi ông vào nước của ông, xin nhớ đến tôi” (Lc 23,40-42).
Giọng nói của anh trộm lành thân thiện như nói với bạn hữu trong đau khổ, bất hạnh, và Đức Giêsu cũng đang chịu đóng đinh như hắn. Cho nên chúng ta được phép tưởng tượng: “Này ông bạn cùng cảnh ngộ, xin chấp nhận lòng thống hối của tôi và khiến tôi trở nên người anh em trong vinh quang nước Người”.
Liệu trái tim dịu hiền của Đức Giêsu có thể từ chối một lời yêu cầu như vậy? Lời yêu cầu chứng tỏ lòng tín thác và đổi đời? Người Do thái đáng thương hại này chỉ nghĩ trong đầu về thứ vinh quang Nước Trời mà truyền thống vẫn tin Đấng Thiên Sai cung cấp. Nhưng sự tha thứ của Chúa Giêsu quá lộng lẫy, quá dạt dào quảng đại nên Người nói với hắn “hôm nay ngươi sẽ ở thiên đàng với Ta”.
Đó là đường lối của Đấng Cứu Thế. Người chờ đợi chỉ có vậy và đáp ứng tức thời khi có dấu hiệu ăn năn. Người không cần đắn đo suy nghĩ. Ôi lòng thương hải hà của Thiên Chúa. Đức Giêsu thêm ngay một danh tánh mới vào di chúc hấp hối và trao sự giầu có Nước Trời cho ông đạo chích khét tiếng nhưng biết hối cải.
Dưới đây là bài học về Giuđa: Trong con mắt nhân lành của Vua Cứu Thế, chẳng có chi mà không được cứu rỗi, trừ thái độ dứt khoát chối từ. Bởi vì nó là phạm thượng tuyệt đỉnh. Nó chối bỏ Thiên Chúa nhân lành vô biên, nghĩa là bất tín nhiệm sâu thẳm vào lòng nhân lành của Đức Chúa Trời, một sự phản bội tàn nhẫn đối với tình yêu Chúa, một vắng bóng hoàn toàn tình yêu. Nó đồng hóa với hư vô.
Kết luận là: Giuđa không hề yêu mến Chúa Giêsu, cũng chẳng thương yêu ai. Hoàn toàn ích kỷ, do đó hoàn toàn cô đơn. Hắn không yêu thương Thày nên dễ dàng bán Thày, phản bội Thày. Hắn không hề có tình yêu nên khi đã ném trả tiền, thì đi thắt cổ tự tử. Hắn muốn chối từ tội ác vì nó cắn rứt lương tâm quá khủng khiếp. Chính miệng hắn thú ra: “Tôi đã trao nộp người vô tội”. Hắn tự gớm ghét mình mà không ăn năn. Tự ghét mình có thể là phương thuốc hữu ích nếu biết liên kết với tình yêu Thiên Chúa. Nhưng cũng có thể là sát nhân khi đứng cô đơn. Nó có khả năng chữa lành và ngược lại, huỷ hoại ghê gớm không quyền lực nào ngăn cản nổi.
Giuđa sau khi thất bại, không hiểu biết trái tim Chúa Giêsu vì chẳng hề yêu mến Người, chỉ tính toán tư lợi, nên tự thân không tìm đâu ra trợ giúp. Hắn kêu cầu hỏa ngục và hỏa ngục khước từ. Hắn kết luận mình chẳng còn chỗ đứng giữa nhân loại, lạc lõng và cô đơn, tất yếu là treo cổ tự tử. Hắn tự huỷ hoại bản thân vì chẳng còn chút hy vọng. Sáng thứ sáu hôm ấy, thân xác hắn lơ lửng giữa trời và đất giống như Đức Kitô trên thập tự mấy giờ sau. Nhưng ý nghĩa khác nhau: Giuđa lạ lẫm với trời cao và trái đất khước từ hắn. Hắn tách trời và đất. Còn Đức Giêsu kết hợp trời đất thành một. Người thuộc về trời nhưng gắn bó với trái đất. Đây là đề tài chúng ta cần suy nghĩ nhiều hơn và áp dụng cho bản thân mình.
Bởi lẽ ơn cứu độ và tha thứ phát xuất từ thánh giá nhuộm đẫm khổ đau. Cho nên Đức Giêsu không hề nguyền rủa Giuđa, cũng chẳng ác cảm và hận thù. Người bỏ mặc Giuđa “đi vào chỗ của nó” như lời sách Công vụ. Câu văn nhẹ nhàng nhưng ý nghĩa dễ sợ. Bởi Giuđa đã dứt khoát chọn lựa chốn ấy thay vì đồi Calvario.
Hữu hình hay bằng tâm trí, mười một tông đồ khác đều hiện diện dưới chân thánh giá. Tất cả đều cùng một tấm lòng. Nhưng Giuđa chẳng liên kết với họ giây phút nào, vì hắn có bao giờ liên kết đâu? Đức Giêsu không nhìn thấy hắn. Người buồn rầu quên bẵng người môn đệ phản trắc. Gương mặt quặn đau nhưng thánh thiện của Người thôi không tìm kiếm nữa. Hắn đã cao chạy xa bay vào chỗ của hắn đời đời kiếp kiếp. Đức Giêsu không nhớ đến “đứa con của sự hư mất” nữa.
(1863-1948)