Bào ảnh mấy vầng;
Phù vân một kiếp.
Đôi ngả âm dương;
Hai vừng nhật nguyệt.
Thuyền tồn vong cập bãi tha ma;
Xe sinh tử dừng bờ mộ huyệt.
Tang điền nhất đán viễn phương;
Thương hải ba sinh hồ điệp.
Mỗ đây:
Đất Nam Định, phủ Trực Ninh cắt rốn chào đời;
Tiết thu phân, năm Tân Mão chôn rau hòa nhịp.
Nối bước tổ tằng, đâu giầu ba họ, nương sắn ruộng dâu;
Theo chân bác mẹ, nào khó ba đời, giậu tơi vồng diếc.
Chín họ chân lấm tay bùn;
Ba đời tay làm hàm xiết.
Bớ giống trâm anh;
Hỡi dòng thế phiệt.
Họ hàng bao người: Chánh lãnh, phủ tri?
Dòng tộc mấy đấng chức phần: Ông đồ, thầy điệp!
Buổi nhiễu nhương rời Bắc bộ cha cõng tha hương;
Thời tao loạn đến Nam kỳ mẹ bồng lập nghiệp.
Gởi lòng son: Vương nhã khánh nho;
Trao tâm huyết: Đăng khoa chi nghiệt.
Ước nên giống má rạng rỡ tông môn;
Mong đáp cao dầy nở mày nở mặt.
Ngờ đâu:
Hai năm nòng nọc đứt đuôi;
Sáu tháng dưa đen lộn kiếp.
Trâu cầy quá buổi, hồng hộc hoài công;
Chó chạy quá cơm, long nhong mất nhịp.
Sách đèn đánh trống bỏ dùi;
Công danh thử kêu bắn tịt.
Cũng một thời:
Chốn thao trường lấp lánh “an pha”;
Ngoài chiến địa ngời ngời “Mai biếc”.
Nửa bồ binh pháp, buổi nhiễu nhương huynh đệ tương tàn;
Vơi túi kinh luân, thời tao loạn nồi da nấu thịt.
Ba năm da ngựa bọc thây;
Ngàn bữa nằm gai nếm mật.
Rồi đến lúc:
Vào trường cải tạo, cơ trời bí lối bàn cờ...
Ra chốn lao lung, vận nước hạ hồi gánh xiếc.
Góp gom tài sản, vẹt lối sậy hoang;
Thu vén tư trang, cưỡi cồn sóng biếc.
Bàng hoàng dây thừng trói khủy, định mệnh oái oăm;
Bỡ ngỡ họng súng kê đầu, số phần chết tiệt.
Bại sản tan gia;
Cùng đường khánh kiệt.
Phận ngựa trâu lại phận ngựa trâu;
Thân khốn kiếp hoàn thân khốn kiếp.
Đã những khi:
Này nơi thị tứ xích lô xe kéo: quại dạ dầy;
Nọ chốn sơn lâm thồ củi đốt than: quằn sốt rét.
Đào vàng đãi đá rúc tận non xanh;
Ngậm ngải tìm trầm chui luồn rừng biếc.
Vai vác chai sần “cuốc xẻng – xà beng”;
Tay bươi rời rã “xẹc lai – xà gạc”.
Manh áo vợ - nhuộm lẫn mồ hôi;
Bát cơm con – hòa chung nước mắt.
Muốn quăng thân xuống giếng hòng kết liễu đời;
Toan đập sọ vào tường cho rồi tai kiếp.
Nhưng có lúc:
Ngày tỏ nhớ trang cổ sử: Hàn Tín, Tử Nha;
Đêm trăng lầm giở Thánh Kinh: ông Rô, ông Gióp.
Ngửa mặt tâm sự Cao Xanh;
Cúi đầu tỉ tê đất thấp.
Ngọn bút cùn còn vung vẩy bài thơ;
Tàu mực cạn cố mài ra sắc huyết.
Rồi đến ngày:
Then tạo hóa chuyển xã tắc qua hồi;
Máy càn khôn quay sơn hà đến hiệp.
Rời núi rừng xôi hỏng bỏng không;
Về thị tứ xang bang xất bất.
Nhà đèn nhà điện - mỏ lết kềm răng;
Phu gạch phó nề - cái bay cái thước.
Giăng giăng điện đóm, thiên hạ sáng lòa;
Mò mẫm đèn dầu, nhà ta tối mịt.
Thế nên:
Thương con vợ khéo - kiếp nữ nhi chẳng đỗ bến trong;
Chán thằng chồng đần – thân bồ liễu nhè neo vũng đục.
Hoa nhài cắm bãi cứt trâu;
Mâm son bày chiềng đũa mốc.
Giận cá băm thớt, chửi loạn cào cào;
Quăng chó mắng mèo, hung hăng bọ xít.
Ngoài ngõ lời ong tiếng ve;
Trong nhà ra chì vào chiết.
Thôi thôi:
Ngậm miệng giả ngọng giả câm;
Bịt tai hòng ngây hòng điếc.
Gậy tầm vông hèo đứa viển vông;
Dây nghiệt ngã trói thằng oan nghiệt.
Vay làn hương bằng hữu thơm râu;
Mượn danh giá bạn bè ngọt mép.
Nấp vây rồng vỗ ngực xưng tên;
Dựa râu cọp ra oai ra phết.
Sắp đến ngày sinh tử cận kề;
Gần đến lúc âm dương cách biệt.
Thân ta ta hay;
Đời mỗ mỗ biết.
Tợp ngụm hèm xấp giọng, cung văn đây tớ tự điếu mình;
Nốc bát rượu lấy hơi, lời tế mỗ chiềng ra cho hết.
Bông rua!
Tạm biệt.