Tu viện đặt mua dài hạn tờ nhật trình “Vũ Trụ”. Tờ báo từ lâu đã dẫn đầu việc bênh vực “phép lạ” Lộ Đức. Nhưng thực tế chỉ có mẹ bề trên và dì giáo tập Vauzous được đọc thường xuyên mà thôi. Các dì phước khác ít khi được đọc, hoặc chỉ đọc các số cũ đơn lẻ. Một buổi sáng hàng chữ lớn đập vào mắt họ: “Chiến tranh cuối cùng đã nổ ra, Bất chấp mọi thương lượng ngoại giao”. Nước phổ đang phạm tội ác. Nào thanh niên lên đường đi Bec-Lin. Những tin tức ban đầu đầy chiến thắng, rồi dần dần chỉ còn vài thành tích nhỏ. Tiếp theo là thất bại. Tờ báo đăng tin và danh sách các thành phố rơi vào tay quân thù. Cuối cùng vua Napoleon 3 bị quân Phổ bắt. Đội quân to lớn của Phổ đang bao vây thủ đô Paris.
Các dì phước có khả năng y tế đều được động viên phục vụ các bệnh viện quân sự cũng như dân sự. Vì vậy các nữ tu nhà mẹ thánh Gildard đều rời tu viện, phân tán đi các nhà thương. Tu viện trở nên vắng vẻ. Bernadette học y tế khi còn ở nhà tập. Dì xin mẹ bề trên xung phong cứu thương. Tình thế đòi hỏi mọi khả năng thày thuốc không loại trừ ai. Bernadette được chỉ định phục vụ tại bệnh viện Nevers. Mẹ Vauzous đứng đầu ban y tế tại đó.
Đây là cơ hội Bernadette biểu lộ trọn vẹn tính nết và khả năng. Bản chất tích cực của dì phát huy rõ nét. Hồi còn ở tu viện, khả năng này bị kỷ luật và các bề trên kìm hãm, e ngại Bernadette trở nên kiêu căng. Giống như mọi cô con gái dòng họ Casterot, Bernadette rất khéo săn sóc bệnh nhân. Không ai trong bệnh viện biết dì Marie Bernarde là đứa bé ngày xưa đã được diễm phúc xem thấy Đức Mẹ ở quận Lộ Đức. Nhưng các binh lính liên tục xin bàn tay dì giúp đỡ. Ơn lành xem ra phát xuất từ đôi bàn tay xinh đẹp của dì. Gương mặt của dì cũng mang đến an ủi và khích lệ. Binh lính hạnh phúc nói truyện với dì.
Dì nói với các quân nhân gốc miền Pyrénées bằng ngôn ngữ địa phương (tiếng Provence). Dì dùng nó trôi chảy hơn tiếng Pháp chính qui. Cách thức hành xử của dì Marie Bernarde cũng đặc biệt. Dì chưa bỏ được nhiều cử điệu quê mùa và rất dễ dãi với mọi người. Cho nên đi đâu là kéo theo cả một hội cười vui vẻ hài lòng. Nếu bệnh viện có những trường hợp đặc biệt, dì Bernadette được mời tới. Dì trổ tài khéo léo đối phó với hoàn cảnh. Khi thành công dì bẽn lẽn, đôi má ửng hồng vì thẹn. Mẹ Vauzous cũng chẳng chịu thua. Mẹ cố gắng hết mình yên ủi các bệnh nhân, băng bó vết thương, viết thơ về gia đình, hứa hẹn công ăn việc làm tương lai. Nhưng ít binh lính dám nhờ mẹ, bởi mẹ thuộc giới thượng lưu. Mỗi khi mẹ xuất hiện trong phòng bệnh, mẹ mang theo cảm giác sợ hãi. Cảm giác này truyền từ giường bệnh này sang giường bệnh khác.
Hoàng đế Napoleon III bị lưu đày sang Anh quốc. Tin tức nhanh chóng lan ra khắp nước Pháp. Chiến tranh sắp kết thúc, nhưng phải mất nhiều thời gian để hàn gắn các vết thương. Hơn một năm sau các dì phước mới được trở về tu viện. Dì Marie Vauzous và Bernarde cũng hết hạn phục vụ. Hai dì khăn gói về nhà dòng. Khi còn trên đường đi, dì Marie Thérèse Vauzous để ý thấy dì Bernadette lê chân trái khó khăn, nhưng không nói gì, trong bụng lại nghi ngờ cô học trò cũ. Nỗi dày vò của dì trở đi trở lại, mang tính chất cố hữu. Âu đó cũng là nỗi thường tình của bản chất kiêu căng của giới thượng lưu đối với giai cấp hạ lưu cùng khổ. “À, con bé này lại muốn giả bộ để cho ta thấy thời gian phục vụ quá lâu làm nó mệt mỏi”. Do vậy, đêm này qua đêm khác dì Vauzous cầu xin cho mình hết nghi ngờ Bernadette giả dối.
Đến một buổi chiều vì không chịu nổi cơn nghi ngờ dằn vặt, dì Marie Thérèse Vauzous đến gõ phòng dì Bernadette, mặt tái mét, nài xin.
- Dì Marie Bernarde giúp đỡ tôi một chút được không? Bởi vì tôi không thể tin vào dì.
- Thưa mẹ, mẹ không tin con điều gì?
- Tôi tin dì đã trông thấy các thị kiến. Nhưng không thể tin các thị kiến đó nói với dì bằng ngôn ngữ địa phương. Tôi biết dì có trí tưởng tượng phong phú qua tài khéo thêu thùa của dì. Có lẽ trí tưởng tượng đó thêm bớt ma thuật vào các thị kiến? Và khi kể đi, thuật lại, những chi tiết tưởng tượng đó trở thành thực tế. Đúng vậy không?
Bernadette bình thản trả lời:
- Thưa mẹ, không phải như thế đâu.
- Nếu dì thuyết phục được tôi, dì sẽ giải phóng cho tôi khỏi nỗi đau khổ ghê gớm này hằng dằn vặt tôi bấy lâu nay. Hãy tỏ cho tôi bằng chứng nào đó được không?
Sau một lúc lâu ngồi yên lặng, Bernadette hỏi:
- Những ca khỏi bệnh ở mạch nước không phải là bằng chứng sao?
- Chúng là những bằng chứng to lớn cho người khác. Nhưng tôi cần bằng chứng liên quan trực tiếp đến dì. Tôi cho dì hay, hồi còn ở tập viện, có dì phước Raymonde già cả sống với chúng tôi. Khi còn khỏe mạnh dì Raymonde chăm sóc các cụ ông, cụ bà bệnh nhân. Công việc thật khó khăn, vất vả, dì biết rõ đấy. Nhưng dì đó rất bình thản và vui vẻ. Cho đến khi dì Raymonde chết, chẳng ai trong chúng tôi biết được Chúa đã ban cho dì ấy ơn trọng trên hết các ơn. Dì ấy đã được in dấu thánh Chúa Kitô trên hai bàn tay.
Bernadette lắc đầu:
- Thưa mẹ, thế thì con chẳng thể giúp đỡ mẹ chi cả.
Rồi dì Bernadette ngồi xuống giường, bất động nhìn dì Thérèse. Dì Marie Thérèse chừng chừng nhìn lại. Hai bên ái ngại nhìn nhau. Lúc sau Bernadette mỉm cười yếu ớt như thể vừa nẩy một ý tưởng mới.
- Thưa mẹ có đấy.
Rồi dì Bernarde vén áo dòng lên để lộ đầu gối chân trái sưng to bằng cỡ cái sọ trẻ con. Dì Maria Thérèse Vauzous loạng choạng trước cảnh tượng khủng khiếp, quì phập xuống chân Bernadette. Dì Vauzous đã được nhìn thấy Bernadette mang dấu chỉ. Dấu chỉ của căn bệnh giết người. Sau tất cả ngần ấy phép lạ khỏi bệnh mà dì Bernarde là khí cụ. Thì giờ đây Chúa lại ban cho dì ơn lạ thứ hai, ơn thuộc về cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu. Dì được noi gương ngài bằng thân xác mình.
Cục bướu ở đầu gối Bernadette là bệnh lao xương. Một thứ bệnh quái ác rất đau đớn và phát triển chậm chạp. Khổ nạn của cô gái Lộ Đức kéo dài không phải bảy ngày mà là bảy năm. Nhưng Bernadette không hề mất kiên nhẫn và can đảm. Dì có lòng kiên cường của một nghệ nhân tuyệt vời. Làm việc toàn thời gian. Đứng lên, ngồi xuống, nhất cử nhất điệu đều đòi hỏi kỹ thuật khéo léo. Các nữ tu khác ngạc nhiên dì Bernarde làm thế nào sống nổi. Căn bệnh là một cuộc tử đạo liên lỷ, hết tháng này qua năm khác. Sự phá hủy xương chân và xương bả vai đòi hỏi nhiều cuộc giải phẫu khó khăn và đau đớn. Mỗi khi Bernadette từ nhà bệnh nhân trở lại tu viện mẹ, cô gái được một ngày vui mừng và an ủi.
Tuy nhiên khả năng biến đổi tâm hồn tha nhân của Bernadette tăng cường mạnh mẽ trong suốt thời gian mang bệnh hơn trước kia. Căn phòng của dì biến thành trung tâm tư vấn thiêng liêng của nhà dòng. Dì nói ít và rất cụ thể, chẳng có chi cao siêu thần học trong các câu truyện của dì, thản hoặc có những điều bí nhiệm mà mãi về sau người ta mới hiểu ra. Đứng đầu trong những người được ơn biến đổi là dì giáo nhà tập: Marie Thérèse Vauzous. Dì nguyên là con gái một tướng lãnh cao cấp, do nguồn gốc, tính tình dì có phần kiêu căng và bướng bỉnh, luôn có thành kiến với mọi ngưới. Nay dì thắng được những nết xấu đó, bằng lòng tin tưởng vào đứa bé gái của con nhà hạ lưu.
Đến năm thứ hai, thì Bernadette không còn khả năng di chuyển. Người ta phải khiêng dì lên nhà nguyện hay xuống phòng ăn. Một hôm dì Vauzous buột miệng nói với Bernadette: “Dì Marie Bernarde ạ, hãy biết lợi dụng phương tiện mà cả thế giới đang sử dụng để xin cho mình được lành. Hãy đi đến Lộ Đức, tắm và uống nước suối của hang Massabielle mà dì có công khám phá. Chỉ cần một lần thôi”. Bernadette trả lời làm mọi người ngạc nhiên: “Thưa mẹ không được ạ, con biết mình chẳng được ân huệ của con suối”. Mẹ Vauzous ngẫm nghĩ một lúc tiếp: “Tại sao dì biết như vậy?” Bernadette nói vững chãi: “Con chỉ đơn giản linh cảm vậy thôi”.
Vào hai năm cuối đời, thân xác Bernadette chỉ còn da bọc xương. Cô bé chỉ còn sống như cái bóng trong nhà dòng. Bệnh lao xương phát triển khắp thân thể làm Bernadette đau đớn tưởng như quá sức chịu đựng của thân phận con người. Điều này khiến cho linh hồn cô gái càng thêm thổn thức. Cô ăn năn thống hối liên tục. Một lần dì Nathalie tới gần giường thấy Bernadette đầm đìa nước mắt.
- Chị ạ, vì tình yêu Đức Kitô xin cho em biết chuyện chi vậy?
- Dì Nathalie ơi, em đã đối xử ghê sợ với mẹ em. Bà nấu cháo hành và múc cho em một tô đầy. Em đã giận dữ nói với mẹ: “Con không thèm ăn đâu. Con chẳng chịu được mùi cháo ghê tởm ấy”. Thực sự em đã nói với bà như thế. Thực sự mà.
Nathalie lắc đầu thương hại:
- Ối dào, chuyện đó đã lâu lắm rồi. Mười sáu năm rồi còn gì.
Bernadette vẫn còn khóc nức nở.
- Thưa không, chẳng có chi lâu cả, mọi sự đều là hiện tại. Ôi, mẹ ơi, mẹ vất vả cả đời. Con lại xử tệ với mẹ.
Những thiếu sót nho nhỏ như vậy, trồi lên trong lương tâm Bernadette như những giọt máu trong tim cô gái. Những người bàng quan có thể cho những ý nghĩ như vậy là dấu hiệu nhõng nhẽo, tự dằn vặt mình. Tuy nhiên ở trường hợp Bernadette chúng là những tình cảm chân thành, sâu đậm và sắc nhọn của lòng thống hối, đến nỗi dì Nathalie và các nữ tu nhân chứng khác ái ngại rơi lệ khóc thương.
***
Sau lễ Ba Vua năm đó, bác sĩ Saint Cyr nói cho mẹ bề trên rõ, chẳng còn bao lâu nữa Bernadette sẽ ra đi. Mẹ bề trên cho người đi Tarbès báo cáo với Đức cha Laurence. Lập tức Đức Cha truyền triệu tập lần cuối ủy ban điều tra gồm các nhà thần học uyên bác, các nhà luân lý, thần bí, giáo dân để xét hỏi cô gái Lộ Đức, khi còn tỉnh táo. Thời giờ họp phiên chót hết là vào tháng hai giá buốt. Trước khi diễn ra, mẹ bề trên nhà tới phòng bệnh nhân nói với dì Marie Bernarde (tức Bernadette):
- Con ạ, Các Đức Giám Mục địa phận Tarbès và Nevers quyết định con xác nhận trọng thể lần nữa liên quan đến các thị kiến ở Lộ Đức. Vì lợi ích chung của Giáo Hội và của các người hành hương. Để thêm phần danh dự cho con, mẹ bề trên cả cũng sẽ tham dự phiên họp.
Bernadette nhắm mắt suy nghĩ và cố gắng lấy hơi trả lời. Mẹ bề trên nhà thấy vậy giúp dì bình tĩnh và khích lệ tiếp:
- Con hãy coi đó như bổn phận trong tu viện, tức vâng lời làm việc con không muốn. Hãy yên tâm làm theo sở nguyện của các ngài.
Ít ngày sau, nghi thức được tổ chức trọng thể trong một căn phòng rộng thênh thang, lạnh lẽo tại tu viện. Mẹ bề trên tổng quyền già cả, yếu đuối ngồi như gập đôi người lại. Muời hai dì phước của hội đồng cố vấn dòng. Chưởng ấn địa phận Nevers, bốn đại diện Giám Mục Tarbès, một vài giáo sĩ, giáo dân có ảnh hưởng. Tất cả hội nghị đứng lên khi người ta khiêng dì Marie Bernade (Bernadette) vào phòng trên cái cáng nhỏ. Mẹ bề trên nhà, mẹ Vauzous dẫn đầu. Vị thần học gia lớn tuổi nhất, đầu đã bạc, cúi xuống Bernadette nói: “Chúng tôi sẽ cố gắng tránh cho dì những mệt mỏi không cần thiết. Ủy ban sẽ đọc lại biên bản năm 1858 về biến cố Massabielle, Lộ Đức. Dì chỉ cần xác nhận và làm chứng là đủ”.
Với đôi mắt to, đầy sợ hãi Bernadette nhìn chung quanh và lắng nghe đọc lại câu truyện một bé gái 14 tuổi đi lượm củi khô và gặp một phụ nữ lạ. Khi người đọc chấm dứt, vị thần học lớn tuổi dịu dàng hỏi: ”Dì Marie Bernarde chuyện đó kể về dì, vậy một lần nữa dì xác nhận tất cả các sự thật nói trong biên bản dì vừa nghe”. Bằng tiếng nói ngọt ngào của tuổi thơ và giọng thổ âm miền Nam nước Pháp Bernadette thều thào, thổn thức:
- Thưa vâng, con đã trông thấy bà lạ. Vâng con xem thấy bà, con không dám nói dối quí vị.
Rồi Bernadette chảy nước mắt khóc. Một giờ sau người ta khiêng dì trở về phòng cũ. Một cơn co giật vì đau đớn lan khắp toàn thân dì Marie Bernarde, dì nói hổn hển: “Lạy Chúa các ngài cứ đến mãi và hỏi đi hỏi lại tới tận bây giờ. Họ chẳng tin con, chẳng thể tin. Vâng con hiểu vì ơn quá vĩ đại đối với con và nhân loại”. Dì rơi vào cơn mê mệt, thiếp ngủ đi. Nữ tu Nathalie ngồi bên cạnh canh chừng. Đột nhiên Bernadette mở mắt, ngẩng đầu thì thào. Xin chị Nathalie làm ơn viết cho linh mục chánh xứ Lộ Đức như sau: “Thưa cha xứ, Bernadette đang nghĩ tới ngài”. Chiều hôm ấy người ta khiêng dì Marie Bernarde xuống nhà bệnh nhân, dì không rời nhà ấy nữa cho đến tắt thở.