Đức Giám Mục Tarbès, Bertrand Sevère Laurence, muốn nói truyện với linh mục chánh xứ Lộ-Đức sau bữa ăn tối. Việc này là một ngoại lệ lớn, bởi Giám mục rất kỵ phải xếp ngang hàng với người khác ngoài Giám mục đồng nghiệp. Họ ngồi gần lò sưởi. Giám mục nói:
- Tôi có vấn đề muốn hỏi cha, Bernadette Soubirous là ai?
Linh mục Peyramale nhìn xuống sàn nhà tư lự rồi ngẩng lên nhìn bề trên của mình, nhăn nhó nói.
- Thưa Đức Giám Mục, thành thực, lúc đầu con coi cô bé đó là một người lừa dối thiên hạ. Lúc khác lại nghĩ nó là một đứa trẻ điên khùng. Cuối cùng con phải thừa nhận con nhà Soubirous là máng chuyển ơn lành và là kẻ thực hiện phép lạ thực sự.
Đức Giám Mục nghe xong chỉ lên bàn viết.
- Tôi nhận được lá thơ của đại tướng về hưu Vauzous. Ông ta yêu cầu tôi phải thận trọng bảo vệ thanh danh của Hội Thánh. Ông ta đề cập đến cùng vấn đề mà chính quyền đã nói nhiều lần. Tôi cũng được nghe Hoàng đế đã biết tới sự kiện Massabielle, đại tướng có người con gái đang tu ở dòng Nevers, dì ấy dậy học ở Lộ-Đức, có lẽ cha biết rõ dì nữ tu ấy.
Đôi mắt linh mục Peyramale xem ra có chút không hài lòng.
- Dạ, thưa Đức Cha, con biết dì ấy và có ấn tượng dì đối xử với Bernadette tồi tệ.
Đức Giám Mục tiếp:
- Tôi được người ta mách dì ấy rất đáng tin cậy trong dòng về đủ mọi mặt, còn nổi tiếng khôn ngoan là đàng khác. Vậy thì tại sao khi không có lý do dì lại đối xử tệ với cô gái?
Linh mục chánh xứ trả lời:
- Thưa Đức Cha, tiếp súc với dì Vauzous không có chi đặc biệt. Nhưng tiếp súc với Bernadette khác hẳn: Con không hiểu điều chi ở đứa bé làm nó tinh khôn hơn những đứa trẻ đồng trang lứa, nó là đứa trẻ thường khi chẳng có chi khác biệt với các trẻ khác. Nhưng với trí khôn đơn sơ bỗng nhiên em nói những câu làm con thức suy nghĩ suốt đêm. Thưa Đức Cha, nhìn đôi mắt em khi nói, con có cảm giác em hoàn toàn thuộc về lẽ phải và sự thật đến nỗi bắt buộc con chào thua xấu hổ.
- Thế ra cha đang hết lời ca tụng đứa con gái nhà ông Soubirous. Đức Giám Mục trả lời.
- Thưa Đức Cha. Linh mục Peyramale lấy lại phong độ bình tĩnh. Con đến đây với Đức Giám Mục là để xin Đức Cha giúp đỡ. Hiện thời giáo xứ Lộ Đức của con sống trong nghi ngờ lộn xộn. Những chiếc đầu tỉnh táo và sáng sủa chẳng còn biết suy nghĩ ra sao nữa? Lộ Đức đã trở nên bãi chiến trường. Hôm qua cảnh binh nhà nước đã rút gươm chống lại thường dân, những người đàn ông, đàn bà, con trẻ vô tội. Xin Đức Giám Mục làm sáng tỏ vấn đề bằng cách triệu tập một ủy ban tra xét.
Đức Giám Mục ném mạnh tập giấy xanh xuống bàn nói:
- Đấy, dự án thành lập ủy ban điều tra đấy.
- Bao giờ khởi sự làm việc, thưa Đức Cha, linh mục Peyramale lạc quan hơn.
- Chẳng bao giờ cả, Lạy Chúa. Đức Giám Mục giận dữ trả lời. Thiên hạ khao khát phép lạ. Nhưng nhiều người chẳng muốn tin. Họ muốn bằng chứng chắc chắn như khoa học và được phép lạ bảo vệ. Nhưng Thiên Chúa toàn năng rất hiếm khi ban phép lạ. Cho nên vào giây phút năm tháng tiện nhân này làm Giám mục Tarbes, ủy ban điều tra, chỉ chính thức chấp nhận một khả dĩ xác thực, của biến cố siêu nhiên, chứ không phải khả dĩ mơ hồ. Tôi chỉ dám tuyên bố như vậy khi mọi lý giải tự nhiên bất lực. Rồi giám mục kết thúc: Nếu như bà khách lạ ở hang Massabielle đích thật là Đức Trinh Nữ Maria đầy diễm phúc, thì tôi sẽ làm việc đền tội và xin Đức Mẹ tha thứ. Điều này chỉ thẩm quyền Roma chuẩn nhận. Còn hiện thời bổn phận của tôi là Giám mục Tarbès phải hết sức cứng rắn và làm mọi sự trở nên cực kỳ khó khăn cho bà.
***
Ngày tháng trôi qua nhanh chóng. Sự phản đối chung quanh các phép lạ cứ tiếp tục. Các hàng rào ván gỗ đóng kín cửa hang Massabielle. Ngày đêm lính vệ binh canh gác nghiêm ngặt. Dân chúng khắp miền Pyrénées cay đắng tin rằng bà khách lạ chữa lành và ban ơn đang bị cảnh sát cầm tù một cách hỗn xược và vô lương tâm. Giải phóng bà là bổn phận và danh dự của dân làng. Ban đêm vài trai tráng nhiệt tâm lẻn vào hang, lùa cho lính gác chia trí lùi ra xa, rồi đốt sạch các hàng rào bằng bùi nhùi tẩm nhựa thông. Sau bốn lần phá họai như thế, các thợ mộc khắp vùng từ chối dựng lại hàng rào. Dù người ta tìm thuê các thợ ở nơi khác tới. Họ đến, nghe truyện và bỏ đi. Các lính canh phải tự mình làm lấy.
Thị trưởng Lacadé nhăn răng cười khi các ủy viên đại diện chính quyền lúng túng và chia rẽ về vấn đề Massabielle. Mẫu nước mạch mới đã đến tay nhà phân tích Filhol, giáo sư đại học Toulouse, một uy tín lớn về thủy trị. Nếu giáo sư, khoa học gia này chuẩn nhận mẫu phân tích trước và mở rộng bản tường trình về phẩm chất chữa trị của nguồn nước, thì ông thị trưởng chiếm được một chiến thắng bất ngờ, không tưởng tượng nổi. Trong đầu óc thị trưởng đã có một mường tượng hàng triệu du khách đổ xô tới Lộ-Đức. Những chuyến xe lửa mới được xây dựng, liên tục nhả khói kéo còi suốt các thung lũng của dãy Pyrenees. Cả dân mê ngủ nhất cũng phải thức dậy từ sáng sớm. Thị xã sẽ tấp nập những nhà buôn, khách tham quan, quán rượu, nhà trọ. Phần cô gái nghèo khó Bernadette vẫn kiên nhẫn đợi chờ. Cô nhớ lại lần chia tay cuối cùng bà lạ hứa sẽ trở lại. Cô cũng quá rõ tính nết bà chẳng phải vì mấy tấm ván mà nản lòng. Phần dân chúng vẫn điên khùng quanh Bernadette vì những phép lạ lành bệnh. Đối với những nhà trí thức câu truyện rất đơn giản. Bà lạ truyền cô ta uống nước mạch và tắm rửa nước mạch đâu có chi lạ? Bà ta biết sẵn có mạch nước dưới đất và truyền cô gái đào bới lên và cô đã làm theo. Đơn giản chỉ có vậy.
Tuy nhiên cuộc sống lại chẳng đơn giản chút nào. Khách thập phương ùn ùn kéo tới Cachot ngày một đông. Ngôi nhà bé nhỏ, ẩm thấp không thể chứa hết người hành hương. Cô gái cố gắng ẩn mình, nhưng cũng thường khi phải tiếp xúc với khách lạ thuộc đủ mọi giai tầng xã hội, giàu nghèo, sang hèn. Cô kể lại truyện một cách máy móc, thuộc lòng, giọng kể đều đều làm người nghe thất vọng. Cô áp dụng phương pháp ấy để che dấu bớt thẹn thùng. Nhưng thực ra cô gái đáng thương phải thuật truyện nhiều lần quá cho khách thập phương, dễ thường đến hàng ngàn hàng vạn lần cùng một câu truyện, khách đến thăm người nào cũng bí mật cho tiền bạc. Nếu nhận thì gia đình Soubirous nhanh chóng trở thành giàu có. Nhưng Bernadette cương quyết từ chối, không nhận của ai dù một xu nhỏ. Cô gái cũng ngăn cấm cả gia đình, nhất là mấy em nhỏ không được tham lam mà nhận. Việc này là điều Bernadette không hề thay đổi ý kiến. Vì thế gia đình vẫn nghèo và lam lũ như trước khi cô xem thấy bà khách lạ. Vì thế hố sâu giữa cô và gia đình ngày càng rộng lớn. Ông Francois sau các giờ làm việc thường lén đến quán rượu Babou, ngồi trầm ngâm trong một góc khuất. Bà Louise trở nên khó tính và hay cãi cọ. Đôi khi Bernadette dịu dàng, e thẹn nói chuyện với mẹ. Nhưng lạ lùng, những lúc ấy bà xem ra cứng cỏi với con. Về sau bà trở nên hoàn toàn đáng thương và hay khóc.
Ở trường học, vấn đề còn tồi tệ hơn. Jeanne Abadie và những bạn bè khác thay đổi cách đối xử với Bernadette như chong chóng. Khi thì cung kính, lúc khác lại chế nhạo, những giờ ra chơi cô thường phải đứng một mình, lẻ loi. Các cô giáo đơn giản làm ngơ, chẳng để ý đến sự có mặt của đứa học trò trông thấy bà khách lạ. Giáo quyền chưa lên tiếng. Cho nên những bộ óc trí thức chưa dám chấp nhận vị trí của Bernadette. Nhà trường bế giảng vào ngày 15 tháng 7 (1858). Ngày hôm sau khi chuông nhà thờ thánh Phêrô điểm 15 phút quá bảy giờ, Bernadette có linh cảm một câu hỏi vĩnh cửu: Khi nào? Và câu trả lời là ngay lúc này! Một động lực mạnh ghê gớm thúc đẩy trong tâm can cô gái. Hôm ấy cô không muốn có ai đi theo. Nhưng việc cô chạy vội làm người ta lưu ý và tin tức nhanh chóng loan truyền từ nhà này sang nhà khác: Bernadette đang ra hang.
Thung lũng sông Gave tràn đầy ánh sáng rực rỡ của buổi chiều vàng. Đám đông cứ mỗi lúc một nhiều lên, trong đó có gia đình Soubirous, các dì Casterots, gia đình Nicolaus. Vây quanh Bernadette quì đúng nơi lần đầu tiên cô đã quì. Lúc này lần đó xem ra đã quá lâu rồi. Tất cả cô gái xem được là phần trên của cái hang. Phần dưới đã bị hàng rào ván gỗ che khuất. Bernadette đưa mắt nhìn quanh quẩn để có thể xem thấy bà khách lạ mà lòng cô yêu mến và khát khao. Cô nhìn xuống bờ sông Gave. Và cũng đưa tay dụi mắt như lần đầu tiên. Mặt cô trở nên xanh xao như đã chết. Da mặt coi dễ sợ. Hai con mắt căng ra nhiều hơn, to hơn. Cô hô lớn: “Bà lạ kia rồi”. Bà lạ đứng ở phía cửa hang gần bờ sông.
Lần đầu tiên, đôi chân trần giống như thạch cao của bà khách đụng mặt đất. Trông dáng bà trẻ khỏe hơn những lần gặp gỡ trước. Giống hệt như hôm 11 tháng hai, mảnh mai và huyền ảo. Trong suốt nửa tháng gặp gỡ, bà khách lạ luôn luôn có các chương trình và nhiệm vụ cho Bernadette. Hôm nay bà không có ý định nhiệm màu nào làm phân tán sự kết hợp yêu thương giữa hai người nữa. Bernadette được hưởng trọn vẹn tình yêu mến của bà lạ. Cô giang rộng hai tay cách chậm chạp và chúng rũ xuống, cô gái lục lọi tìm kiếm cỗ tràng hạt màu đen. Bà khách lạ lắc đầu, lấy ngón tay để ngang lên miệng. Bernadette chẳng còn nghị lực để ngăn cản câu hỏi định mệnh:
- Thưa bà, đây có phải là lần cuối cùng. Thật sự là lần cuối cùng không?
Bà lạ mỉm cười yên ủi như muốn nói:
- Nơi chúng ta không có lần cuối cùng. Dầu vậy hôm nay chúng ta nói lời tạm biệt lâu dài. Con ở trong thế gian và ta cũng ở trong thế gian.
Bernadette không hỏi nữa và đi vào một giấc chiêm niệm sâu thẳm hơn mọi khi. Cô gái ngắm nhìn như muốn đổ đầy linh hồn bằng hình ảnh của bà khách lạ, như muốn thu hút lấy toàn bộ thị kiến, chống lại những ngày tháng u sầu, kéo dài từ hôm nay cho đến giờ phút sau hết của cuộc đời.
Ánh sáng hoàng hôn phai tàn. Bóng đêm đang dần đến. Bà khách lạ dịu dàng, tế nhị đã chọn giây phút này để cho sự ra đi của mình trùng hợp với sự tàn phai của ánh sáng. Khi bóng hình của bà mờ dần, bà bắt đầu rút lui. Bernadette quì lâu hơn một chút nữa, đôi mắt cắm chặt lên cửa hang chỗ bóng tối và ánh sáng cuối cùng vừa tan đi.
Cô gái cố nán lại trên hai đầu gối ít lâu, rồi lảo đảo trỗi dậy, đi loạng choạng về phía những cây nến đang cháy sáng. Cô bé nhận ra gương mặt mẹ, bà âu yếm choàng chiếc áo ngắn chung quanh vai con. Gương mặt của Antoine đang đứng nhìn như dò xét. Bỗng dưng cô gái ngã lăn xuống đất. Ngay lúc ấy người ta nghĩ cô bé té xỉu vì vừa qua một cơn ngất trí sâu xa. Nhưng khi cô phải bắt buộc nằm trên hai đầu gối mẹ, mở mắt to mệt nhọc nhìn mẹ, bà Soubirous mới bắt đầu kêu khóc vì thương con. Mặt Bernadette vặn vọ bởi cơn hen suyễn mạnh tấn công. Sau 15 phút cô bé mới có thể cựa quậy. Cơn bệnh bỗng dưng chấm dứt.
Lần thứ hai, cũng là lần cuối cùng, Antoine Nicolau bế Bernadette lên tay và cẩn trọng mang về Cachot (gần 2 cây số). Người ta đi báo tin cho bác sĩ Dozous. Ông vội vàng tới và ra lệnh đưa Bernadette vào bệnh viện của các dì dòng Nevers. Ông cho biết vẫn là cơn hen suyễn cũ nhưng bây giờ nặng hơn, gần như kiệt sức, bởi thần kinh làm việc quá mức.
Ở bệnh viện, mặc dầu sức khỏe cô gái nhỏ vẫn mảnh mai yếu ớt. Nhưng cô hồi phục rất nhanh. Chỉ vài hôm sau gân cốt đã gần như bình thường. Hơn tuần sau, một buổi sáng cô cảm thấy mạnh khỏe hẳn, nhưng ít nói. Cô nhảy ra khỏi giường bệnh và xin dì phụ trách cho được về nhà. Trong lúc gần như đợi phép rời bệnh viện, thì linh mục chánh xứ Peyramale đến, gọi cô gái đến trước mặt ngài. Linh mục đã thay đổi thái độ nhiều từ khi cầm chổi dọa đuổi cô ra khỏi văn phòng nhà xứ. Ngài như thẹn thùng nói:
- Bernadette này, dĩ nhiên con có thể về nhà. Cha mẹ và các em con mong đợi. Nhưng ta và bác sĩ Dozous tin rằng tốt hơn con nên ở lại nhà thương. Cha đã nói với mẹ bề trên dành cho con một căn phòng nhỏ. Ở đấy con sẽ được tự do. Gia đình con sẽ thăm con tùy ý. Tuy nhiên con phải đúng giờ, ăn uống ngủ nghỉ, làm việc, giải trí. Bởi vì cha và bác sĩ Dozous cho rằng con khỏe hơn là điều tối quan trọng. Con đồng ý chứ?
Bernadette gật khẽ đầu, đôi mắt to đen nhìn cha xứ bình thản. Cha xứ tiếp:
- Hơn nữa, ở đây con sẽ tránh khỏi các khách lạ quấy rầy. Con sẽ tự do đi dạo trong vườn của các dì. Con hài lòng không?
- Ô thưa cha, con rất hài lòng. Bernadette tươi cười nhìn cha xứ. Đây là lần thứ nhất từ tấm bé cô gái tiếp truyện với cha xứ không chút khiếp sợ. Được một nơi ẩn náu khỏi người ta làm cô bé phấn khởi. Cô đang cần một chỗ yên tĩnh để ở một mình, một mình với bóng hình bà lạ. Hàng ngày Bernadette cần một việc làm để lao động như ở gia đình. Cô quen giúp đỡ cha mẹ làm những việc vặt, chăm sóc các em. Ơû nhà thương người ta sắp xếp cho cô phụ bếp nhà thương. Mọi người đều dè dặt khi tiếp xúc với cô bé gái. Họ chẳng biết phải đối xử thế nào với cô bé làm được phép lạ! Căn phòng Bernadette ở rất nhỏ, quét vôi trắng, nhìn ra vườn. Cô gái ngồi hàng giờ bên cửa sổ, đọc kinh, tư lự. Trong gian phòng có một chiếc giường hẹp và một cái khác để cho dì phụ trách ngả lưng ban ngày. Nhiệm vụ của dì này là đi kiếm bác sĩ và linh mục mỗi khi bệnh nhân trở bệnh nặng, hoặc quá bồn chồn khó ở thì đến bên an ủi. Thường thường công việc không nhọc nhằn lắm. Bởi lẽ ít khi có trường hợp bệnh nặng. Bernadette và dì phụ trách họa hoằn mới bị quấy rấy về ban đêm.
Tuy nhiên khi đến phiên dì Marie Thérèse Vauzous làm việc, thì hầu như suốt đêm Bernadette không ngủ được. Cô gái nằm trằn trọc quan sát các sinh hoạt của dì bằng đôi mắt hé mở dưới ánh sáng lờ mờ của trăng rằm tháng bảy. Các dì khác tới giờ nghỉ thì bỏ bớt quần áo và leo lên giường. Còn dì Marie Thérèse Vauzous chỉ tháo chiếc khăn chùm đầu, để lộ cái sọ cạo trọc lóc như trái dừa lột vỏ. Dì nằm nghỉ bên trên tấm khăn phủ giường, không ngủ. Ở trên một cái bàn nhỏ bên cạnh dì để một quả hạnh đào mới hái, màu đỏ, mọng nước. Tự dưng Bernadette có ý nghĩ dì đặt quả hạnh đào đó với mục tiêu chiến đấu chống lại tính mê ăn uống của dì.
Khi Bernadette thức giấc, dì hỏi: “Chắc chắn con dậy trễ phải không?” Bernadette liếc vội về phía quả đào đỏ, nó vẫn còn y nguyên: “Thưa dì con xin dậy ngay đây ạ” Bernadette lễ phép trả lời và ra khỏi giường.
- Đợi chút đã, dì Vauzous ngăn cản. Dì có điều muốn nói với con. Dì được gọi về nhà mẹ ở Nevers. Ngày mai dì sẽ rời Lộ Đức. Dì không ân hận đâu. Con đã dụ dỗ đám đông ngu xuẩn, ngay cả các quan chức chính quyền. Lúc này con còn mưu tính lường gạt luôn cả cha xứ. Con thổi sáo và mọi người nhảy theo tiếng sáo của con. Chỉ trừ có một người mà thôi, đó là dì. Bởi chưng chưa bao giờ dì tin những điều con bịa đặt. Này Bernadette ạ, con nên biết rằng những người giống như con, huênh hoang với những thị kiến, đào mạch nước bằng ma thuật, rồi khuấy động đám đông dùng bạo lực chống lại chính quyền. Những người đó chắc chắn sẽ lên giàn hỏa thiêu. Marie Thérèse Vauzous ngồi thẳng dậy nói tiếp: “suốt đêm qua dì đã cầu nguyện cho con. Cầu xin Thiên Chúa cứa chữa linh hồn con khỏi nguy hiểm đang chờ đợi”.
Nói xong dì cầm quả hạnh đào lên lòng bàn tay và rời căn phòng. Bernadette biết dì sẽ đưa quả hạnh đào cho bệnh nhân nào dì gặp đầu tiên ở hành lang.