Những quả chuông nhà thờ Lộ Đức đồng loạt vang lên lúc 11 giờ trưa ngày 17 tháng 11 năm 1858. Các hàng rào bằng ván gỗ dựng trước cửa hang Massabielle bị tháo gỡ. Chính quyền các cấp không ngăn cản Giám Mục Tarbès tiến hành điều tra vấn đề hết sức nhạy cảm của thị trấn Lộ Đức nữa. Tất cả mọi điều kiện Giám Mục yêu cầu đều được thỏa mãn đầy đủ từng chữ. Công việc sửa sọan cho tòa điều tra đã thực hiện xong.
Ủy ban điều tra khởi sự bằng một nghi thức trang nghiêm bên trong thánh đường Phêrô, Lộ Đức. Tất cả bạn học cùng trường với Bernadette đều có mặt. Jeanne Abadie dẫn đầu. Hàng xóm của căn nhà Cachot cũng được mời và hiện diện đầy đủ. Toàn bộ gia đình Soubirous, ông Bouriette, bà Bouhouhort rạng rỡ với đứa trẻ trên tay. Dĩ nhiên các dì Casterots, Mẹ đỡ đầu Bernadette. Có tiếng xì xào thắc mắc bay qua các hàng ghế dài: “Bé gái Bernadette ở đâu?” Cuối cùng người ta khám phá ra cô và cha mẹ ngồi ở hàng ghế chót cùng với các giáo hữu không tên. Bà Millet giang rộng cánh tay ao ước được đón Bernadette. Cô gái được đặt ngồi bên cạnh người bảo trợ đầu tiên của mình. Bà Millet khóc ròng vì vui mừng. Nhưng cảm xúc của Bernadette lại không được no thỏa như vậy. lòng cô lo sợ các chức sắc tôn giáo. Họ sẽ hành hạ cô không kém tàn nhẫn. Trước kia, ông Jacomet, ông Dutour và chính quyền đã quấy nhiễu cô mấy tháng trời với những câu chất vấn như vậy. Cô đã thấm mệt. Thực sự cô muốn được yên thân. Bây giờ lại đến nhà thờ với những bộ mặt dễ sợ hơn: Linh mục, tu sĩ, tiến sĩ luật, thần học gia với những thắc mắc vụn vặt tới vô tận. Tất cả những sợ hãi đó để làm chi?
Sau nghi thức khai màn, nghỉ xả hơi, phiên họp khoáng đại đầu tiên diễn ra tại văn phòng nhà xứ Lộ Đức. Hai mươi nhân vật trong ủy ban gồm linh mục giáo dân ngồi thành vòng bán nguyệt chung quanh một chiếc bàn lớn. Các nhân chứng ngồi trên nhiều hàng ghế dài tựa vào tường. Người đầu tiên ủy ban gọi ra là Bernadette, không phải như nhân chứng mà như một bị cáo. Cô gái phải kể đi kể lại cùng một câu truyện để ủy ban thấy có thiếu sót tí nào không? Cô bé kiên nhẫn kể với phong cách hết sức từ tốn. Tuy khô khan nhưng sống động, tưởng chừng như chiến đấu chống lại tòa án để được sống còn. Đôi khi phải ngưng giữa dòng để các nhân chứng khác xác nhận hay chữa lại các chi tiết thiếu sót. Theo thói thường trí nhớ của các học sinh thường gặp thất bại vì các em hay quên các điều vụn vặt. Họ chỉ nhớ được các nét chính. Nhưng đối với Bernadette một chi tiết nhỏ nhất cũng không bị bỏ quên, mọi biến cố đều đầy đủ cả. Trí khôn ngoại thường của cô gái là khí giới mạnh mẽ nhất khiến ủy ban điều tra phải điêu đứng. Một kinh sĩ nhà thờ chánh tòa Tarbès là linh mục Nôgavô, muốn biết bí mật bà lạ trao là gì? Bernadette trả lời: “Thưa cha, nếu con nói ra cho cha hay thì đâu còn là bí mật nữa”. Một vị khác nói: “Tôi chẳng thể hiểu được yêu cầu của bà khách lạ đòi hỏi cô làm điều ghê tởm, ăn cỏ dại. Bà bắt người ta hành xử như con vật”. Bernadette bình tĩnh trả lời: “Thưa cha, khi người ta ăn rau xà lách, người ta có là con vật không ạ?” Những người trong ủy ban nhìn nhau cười ngạc nhiên. Và đôi mắt nghiêm túc của cô gái xua tan mọi nghi ngờ rằng cô bé hỗn xược.
Giữa các phép lạ và sự chuẩn nhận của giáo quyền. Giám mục Tarbès, Đức cha Bertrand Sévère Laurence tìm ra một phương pháp cực kỳ hữu hiệu để biết sự thật. Đó là thời gian. Ngài hy vọng rằng khỏang một năm nữa thì các thị kiến và những cuộc lành bệnh ở Massabielle chỉ còn là kỷ niệm phai mờ, không có những hậu quả nghiêm trọng. Vì vậy ngài quyết định ủy ban điều tra không nên vội vàng. Ngài cho họ bốn năm để làm việc.
Tuy nhiên các trường hợp khỏi bệnh ngọai thường ngày càng nhiều và kéo dài gần như vô tận. Ban y tế của ủy ban tra xét tỷ mỷ từng ca một. Và phải viết phúc trình kết quả lên tòa giám mục. Ngài đích thân phân chia chúng thành ba loại: Loại thứ nhất, các sự lành bệnh ngoạn mục, khoa học y dược không giải nghĩa được, nhưng chưa chắc chắn là phép lạ. Loại thứ hai, những ca khỏi bệnh ủy ban y tế sẵn sàng đồng thuận xác nhận có khả năng là phép lạ. Thí dụ khối u sau khi đã dùng nước suối chữa trị, tự dưng xẹp xuống hoặc biến mất vì được cải thiện nhanh chóng trong vài ngày. Giám mục không muốn vội vàng áp đặt căn bản cho các kết luận. Chỉ trên các trường hợp khỏi bệnh như vậy mà thôi. Bởi lẽ trong tương lai khoa học tiến bộ, người ta có thể tìm ra nguyên nhân tự nhiên của các sự khỏi bệnh bất ngờ đó. Trong các trường hợp lành bệnh, ngài chỉ chuẩn nhận trường hợp thứ ba, tức khỏi bệnh tức thời, nhanh như chớp và không sao giải thích được. Ví dụ con mắt mù hoàn toàn trong giây lát được xem thấy. Hoặc teo cơ không đi được, lập tức trở lại bình thường. Chỉ lúc ấy và chỉ như vậy Giám mục mới hết nghi ngờ, chịu nhượng bộ là phép lạ. Tính chung có mười lăm trường hợp khỏi bệnh tức thời, đáp ứng yêu cầu của Giám Mục.
Một trong các trường hợp đó là của cô gái mười sáu tuổi, mang tên Marie Morcau. Cô này tự dưng mắc chứng bệnh nan y về mắt. Chuyên gia mắt nổi tiếng khám xét thì thấy võng mạc hai mắt bị bong ra, chắc chắn sẽ dẫn đến mù lòa hoàn toàn. Ông tiên đoán chẳng bao lâu nữa cô gái sẽ không thấy đường mà đi. Cha mẹ quá lo lắng giúp con chiến đấu với căn bệnh và Marie đêm ngày đau đớn với nhiều lối chữa trị khác nhau. Cuối cùng khi nghe về Lộ Đức, ông Morcau mang gia đình đến hang Massabielle. Người ta lấy một chiếc khăn thấm nước mạch đắp lên mặt cô gái. Khi lấy khăn ra, cô bé thét lên một tiếng xé không khí. Những người chung quanh nghe thấy không thể quên được tiếng thét đó. Cô gái có thể xem thấy rõ ràng, ngay cả khả năng đọc sách.
Trường hợp thứ hai liên quan đến cậu bé trai tên là Jules Lacassague, mười hai tuổi. Cậu mắc một thứ bệnh lạ và rất hiếm. Ngày nay gọi là điệu nhảy thánh Vitus. Đó là bệnh chân tay co quắp, run rẩy. Cổ bệnh nhân xưng to lấp hết cuống họng, dần dần không thể nuốt được nữa và cũng chẳng thể nhét thức ăn vào dạ dày. Các bác sĩ và y tá giỏi tìm cách chữa trị. Nhưng vẫn thất bại. Em chỉ còn nằm chờ chết. Em chỉ còn là cái bóng mờ gầy guộc, da bọc xương. Ông Roger Lacassague ôm con đến hang Lộ Đức. Trong cơn hấp hối, Jules chỉ nuốt được vài giọt nước hứng từ mạch Massabielle. Dần dần chừng một ly, từng giọt từng giọt. Tiếp đến người cha đưa cho con một cái bánh bích qui nhỏ, mềm và nói: “Nào ăn đi con”. Jules nhai từng miếng và nuốt như những đứa trẻ bình thường. Ông Lacassague cao liêng khiêng lăn ra trên mặt đất, lộn qua lộn lại như gã say rượu, thở hổn hển nói không ra hơi: “Jules ăn được rồi, Jules ăn được rồi”. Những người đứng chứng kiến bật lên khóc. Jules tiếp tục ăn hết miếng bánh, đôi má dần nổi lên màu hồng. Jules khỏi bệnh tức khắc.
Hàng trăm trường hợp lành bệnh không thể hiểu được. Nhưng chậm hơn. Hàng vạn người đổ xô đến Lộä Đức xin ơn được sống an lành. Nhưng mạch suối chữa bệnh rất thất thường đúng như tính nết bà khách lạ vậy. Không ai có thể đoán trước được đường lối mạch suối ban ơn.
***
Bernadette sống hồn nhiên trong gia đình và không nghĩ mình có chi liên quan đến những dòng người hàng ngày tiến tới Lộ Đức và các phép lạ xảy ra ở hang Massabielle. Cô gái không khám phá ra mạch nước. Bà khách lạ đã ban nó cho thế giới. Thiên hạ ca tụng cô về mạch suối là điều tức cười. Sự kiện giống như cảm ơn người đưa thơ báo tin lãnh số tiền lớn, thay vì cảm ơn người gởi tiền. Người ta xô nhau ngăn cản lối cô đi, quì phập xuống chạm đến gấu quần mép áo cô bé. Nhất là vào những ngày giờ xảy ra phép lạ chữa bệnh tại hang đá. Một phụ nữ cứ lẽo đẽo theo sau ở đường phố khóc lóc: “Ôi Bernadette, ôi Bernadette, người được Thiên Chúa tuyển chọn. Em là vị thánh”. Cô gái quay lại, đôi mắt sáng quắc lên kêu lớn: “Lạy Thiên Chúa nhân lành, nhưng bà ngớ ngẩn quá”.
Cuộc sống chờ đợi nơi trần gian dài quá và đồng điệu. Ngày này qua ngày khác cô gái khắc khoải trông mong được gặp lại bà lạ, giống như trước kia cô phải sống tạm bợ giữa hai lần gặp mặt. Nhưng nay thời gian xem ra vĩnh viễn. Bernadette biết chắc chắn bà lạ không khi nào trở lại trái đất này nữa. Cô phải ra đi gặp bà. lòng khắc khoải mong chờ không bao giờ nguôi. Sự gặp gỡ bất ngờ với bà lạ đẹp tuyệt trần in dấu ấn sâu đậm trên vóc dáng Bernadette. Môt vẻ thanh cao luôn chiếu tỏa trên gương mặt. Trước kia gương mặt cô tròn bầu như của một đứa trẻ, bây giờ trở thành trái xoan. Dưới vầng trán gọn gàng là đôi mắt đen, to hơn. Ở lứa tuổi 14 cô bé ốm yếu thì bây giờ 16 đẹp lộng lẫy. Đôi khi Bernadette sống giữa gia đình với cha mẹ và các em. Lúc khác ở nhà thương trong cái phòng nhỏ xíu quét vôi vẫn dành cho cô từ lần gặp gỡ cuối cùng. Nhưng lúc này chính Giám mục địa phận truyền lệnh. Bởi lẽ có những lúc khách tò mò đến viếng thăm, đông quá, gian nhà Cachot nhỏ bé không chứa hết, bầu không khí trở nên ngột ngạt khó chịu nổi. Có một lần, thày giáo trường nhà nước miền đó chế nhạo Bernadette: “Đáng lẽ bà lạ phải dậy cô em nói tiếng Pháp chuẩn hơn”. Cô gái ngẫm nghĩ một lát rồi mỉm cười trả lời: “Đó là điều khác biệt giữa bà ta và thày. Bà cố gắng nói tiếng địa phương của chúng ta. Đôi lúc con thấy khó khăn cho bà, nhưng miễn làm sao con hiểu được bà dễ dàng hơn. Con chưa học tiếng Pháp chuẩn mực”.
Gia đình Soubirous vẫn tiếp tục sống ở gian nhà Cachot, nhưng cậu Sajou cho thêm một căn phòng nữa, vì thường xuyên đông khách. Năm thứ tư của ủy ban điều tra, Maria Soubirous kết hôn với một nông dân làng bên cạnh. Anh ta hiền lành như đếm. Trong đám cưới, Bernadette hớn hở vui mừng nhưng với thái độ bàng quan của một người họ xa, đến dự rồi phải về ngay vì bận việc, đường xá thì xa. Jeanne Abadie rời Lộ Đức đi nhận việc làm ở Bordeaux. Việc của cô ta là coi sóc các phòng của một dinh thự. Các bạn bè cùng trường và là các nhân chứng nhỏ tuổi đầu tiên cũng lần lượt phân tán, mỗi đứa một nẻo.
Khi người đầy tớ của bà Millet từ trần. Bernadette xin được thay chỗ. Linh mục chánh xứ Peyramale phản đối: “Con có tin bà khách lạ muốn con đi làm việc đó không?” Bernadette nhìn cha xứ giấu nét cười: “Con rất vui mừng nếu ngày nào đó bà lạ nhận con làm đầy tớ cho bà”. Linh mục chánh xứ hỏi: “Vậy ra con đã ký giao kèo với bà ta?” Bernadette buồn rầu trả lời: “Bà chẳng bao giờ nhận con. Con vụng về quá”.
***
Vào cuối năm thứ tư. Cha sở Peyramale cho tìm Bernadette. Ở gia đình Cachot thời tiết lạnh buốt. Nhưng trong văn phòng cha xứ ấm áp dễ chịu lạ thường. Trong lò sưởi sang trọng những ngọn lửa nổ tanh tách từ những khúc gỗ lớn. Bernadette toàn thân cóng buốt từ ngoài trời giá rét bước vào. Ngay cả mùa đông cao độ cô gái cũng chỉ có cái áo choàng ngắn như lệ thường quanh năm.
- Con lớn quá rồi. Cha chánh xứ buông lời nhận xét khi Bernadette vừa bước chân vào. Rồi ngài đặt một chiếc ghế bên lò sưởi và rót chút rượu mạnh vào cái ly nhỏ xíu: “Con đã có ý tưởng rõ ràng về công việc ủy ban điều tra làm chưa?” Bernadette lễ phép thưa:
- Thưa cha chánh xứ, người ta đã xét nghiệm mọi trường hợp khỏi bệnh.
Cha sở chậm rãi lau thật sạch cái tẩu thuốc lá:
- Nhưng về phần con, con có nghĩ rằng mình chẳng là thành phần của ban điều tra không?
Bernadette trả lời bằng giọng run run nhưng trong trẻo:
- Thưa cha con đã trả lời mọi thắc mắc. Con hy vọng con chẳng còn chi liên quan đến ủy ban nữa.
- Ơ, Bernadette này, con đừng nên giả vờ dốt nát. Cha chánh xứ thở dài. Bà lạ đã chọn con trong các trẻ. Bà lạ bảo con khơi mạch nước từ mặt đất. Con mạch lạ lùng chữa nhiều bệnh nhân. Bà lạ trao cho con một bí mật, lại còn nói cho con biết tên bà. Con là trung tâm của câu truyện thế kỷ. Con có tin thật mình có thể nói: Tôi chẳng can dự gì nữa? Tôi đã làm tròn phận sự của tôi, xin để cho tôi yên?
- Nhưng thưa cha, con đã làm hết phần của con rồi. Bernadette nói, mặt tai tái.
Cha chánh xứ kiêm hạt trưởng, hai tay vần thò vào túi áo cho ấm, lúc này bật ngón tay trỏ ra chỉ:
- Bernadette con nghe kĩ đây: Ủy ban đã hòan tất bản phúc trình quan trọng. Xác nhận rằng con có khả năng được trời cao tuyển chọn. Đức Giám Mục đã ký vào bản tường trình và sẽ gởi sang Roma cho Đức Thánh Cha và những người khôn ngoan vĩ đại nhất của giáo hội. Con sẽ bị theo dõi và canh chừng nghiêm ngặt trong nhiều năm, rồi thì...
Cha Peyramale ngưng bặt, mặt đỏ gay vì xấu hổ bởi những điều sắp nói ra.
- Ta không bao giờ tin rằng Thiên Chúa lại chọn ta để công bố những lời này với con. Bernadette Soubirous đang ngồi trước mặt ta đây, đứa con gái bé bỏng đã từng bị ta đe dọa lấy chổi đuổi ra khỏi nhà xứ. Con sẽ được thiên hạ nhớ đến rất lâu, rất lâu sau khi tất cả người khác, những nguời hiện còn sống trong xứ đạo này đã qua đời và bị quên lãng.
Bernadette thấu hiểu những lời cha xứ nói, mặt tái mét như người đã chết. Cô đứng phắt dậy, vừa cố lấy hơi thở vừa khóc sụt sùi:
- Thưa cha, điều cha nói thật dễ sợ, con chẳng muốn như thế. Không, con không muốn đâu.
- Cha hiểu, linh mục hạt trưởng an ủi, nhưng chẳng làm sao tránh khỏi...
Ngài đứng dậy, đi đi lại lại trong gian phòng. Căn phòng hoàn toàn yên lặng, ngoại trừ tiếng nổ lách tách của ngọn lửa và tiếng nức nở của cô gái. Cuối cùng cha xứ đứng lại, quay mặt nhìn cô gái mới lớn:
- Các dì phước ở nhà thương tử tế lắm không?
- Thưa cha các dì ngọt ngào lắm. Bernadette lắp bắp.
- Con có tưởng tượng ngày nào đó mình sẽ là một trong các dì? Đức Giám Mục đã tuyên bố với các cha trong địa phận: Bernadette là một bông hoa quí báu. Chúng ta có bổn phận chăm sóc bông hoa ấy. Con thấy đấy chứ, Bernadette?
Cô gái cúi đầu không trả lời. Linh mục tiếp:
- Đã lâu lắm rồi, ta nói với con, con đang chơi với lửa, ôi Bernadette. Nhưng không phải lỗi ở con. Bà khách lạ của con là lửa bởi trời. Bà đã nâng con lên cao hơn hết mọi người. Thiên đàng đã chọn con. Con chẳng thể làm gì khác lúc này ngoài việc chọn thiên đàng với tất cả linh hồn con. Phải thế không?
Sau một hồi khá lâu suy nghĩ, Bernadette thở dài:
- Vâng thưa cha, điều đó hoàn toàn đúng.
Linh mục Peyramale thay đổi giọng nói đều đều:
- Một trong những ngày tới đây. Đức Giám Mục giáo phận Nevers sẽ hỏi con một vài điều cần thiết. Con sẽ cho ngài biết chính xác ý con muốn thế nào. Nhà mẹ dòng Nevers mà con đã từng biết các dì, tọa lạc trong địa phận của ngài. Kỷ luật của dòng rất tốt, cao thượng và dấn thân vào đời sống thực tế.
Bernadette đã lấy lại bình tĩnh, không còn xúc động nhiều nữa, hai con mắt không rời linh mục chánh xứ. Ngài tiếp:
- Còn một điều nữa cha cần phải cho con hay. Cha biết hoàn cảnh của gia đình con. Nó đang đè nặng lên trái tim con. Được, cha sẽ tìm cách giúp đỡ. Cha hứa: cha mẹ con sẽ có một nhà máy xay lúa mới. Gia đình con sẽ đến đó ở.
Nói xong ngài đưa bàn tay lông lá kếch xù ra. Bàn tay nhỏ bé của Bernadette biến mất trong bàn tay ngài. Đột nhiên Bernadette cúi xuống hôn tay linh mục chánh xứ.
- Tốt, đó là tất cả. Linh mục chánh sở lẩm bẩm thêm: Gượm đã, còn điều này nữa. Ngài hắng giọng, ta đặt hết tin tưởng vào con. Nhưng ta không thể thắng nổi nỗi nghi ngờ về một chi tiết nhỏ: Đó là mấy chữ “Đầu thai vô nhiễm nguyên tội”. Mấy chữ đó nghe như một thần học gia nào nói với con, chứ không phải bà khách lạ yêu dấu của con. Bây giờ con lục lọi trong trí khôn xem con đã nghe nó ở đâu? Nếu con nhớ được ai khác nói cho con nghe. Nếu con nhớ hình như bà lạ nói như vậy, chứ không đích xác bà ta nói. Nếu con chỉ rút lại điểm này thôi. Bản phúc trình về tính chất bà lạ sẽ thay đổi. Không còn dám xác quyết mạnh mẽ như hiện gờ nữa. Bản điều tra sẽ được viết lại hoàn toàn. Con có hiểu ý ta không? Nếu đúng như cha dự kiến thì con sẽ đi tạm trú ở đâu đó kín đáo, sống bình thường ít lâu rồi trở về gia đình. Con cần thời gian để suy nghĩ không?
- Thưa cha, con chẳng cần thời gian suy nghĩ. Bernadette thưa lại cha xứ. Con không hề nói dối cha. Rồi Bernadette nhìn cha xứ mỉm cười, con cũng chẳng cần chỗ nào kín đáo để ẩn mình.
***
Đức cha Laurence, giám mục địa phận Tarbès là người yếm thế rõ ràng nhất trong các kẻ chống đối vụ việc Massabielle, cuối cùng đã bị đánh bại. Ngài nhượng bộ tất cả các bằng chứng khỏi bệnh kỳ lạ ở mạch nước Massabielle. Những bằng chứng y học và lý trí loài người chịu đầu hàng không làm thế nào giải nghĩa nổi. Vô số những bệnh nghiêm trọng đủ loại đều được chữa lành nhờ cùng phương pháp duy nhất là nước suối Massabielle. Có nhiều trường hợp khỏi bệnh tức thời trước mặt nhiều nhân chứng. Ngay cả với những căn bệnh kéo dài lâu ngày, lâu tháng vẫn được ơn lạ mà qua khỏi. Chứng cứ các người còn lương tri tốt lành không thể phủ nhận. Cho nên Giám mục Tarbès đã dựa vào những thực tế đó mà ban hành một lá thơ luân lưu. Trong thơ ngài bị bắt buộc phải chấp nhận tính siêu nhiên của các thị kiến Bernadette, đã trông thấy và các ca khỏi bệnh tại Lộ Đức. Tuy nhiên trong lá thơ ngài vẫn còn dè dặt để quyền tài phán cho Đức Giáo Hoàng ở Rôma. Công việc trước mắt của ngài là kêu gọi lòng hảo tâm của thiện nam tín nữ khắp địa phận và các ân nhân giúp ngài thực hiện ý muốn của bà lạ: Xây dựng một nhà nguyện. Lại một phép lạ khác xảy ra: Trong vòng vài tuần lễ, hơn hai triệu phật lăng (tiền pháp) đã chạy vào tòa giám mục, không phải chỉ trong giáo phận mà từ mọi nơi trên khắp hành tinh mà người ta biết đến chuyện hang Massabielle ở Lộ Đức. Phần lớn những món tiền này là từ giới lao động nghèo khổ.
Sau nhiều ngày thương lượng, linh mục chánh xứ Lộ Đức Dominique Marie Peyramale và hội đồng huyện thị Lộ Đức, đứng đầu là ông Lacadé đã đi đến nhất trí về giá cả của khu đồi núi Massabielle. Giáo xứ phải trả vào công quĩ số tiền lớn để được sở hữu khu đất. Ông thị trưởng xem ra hữu lý về việc thương lượng, bởi ông đã có cổ phần trong cả sáu khách sạn đã mọc lên ở khu đất thánh Massabielle. Lợi nhuận hàng năm đủ để ông trở nên tỷ phú. Một hy vọng nữa là con đường sắt chạy từ thủ phủ tỉnh Tarbès đến Lộ Đức đang được đầu tư xây dựng.
Khá lâu trước khi ngôi thánh đường dâng kính Đức Mẹ vô nhiễm được hoàn thành trên khu đất thánh Massabielle mới mua lại của thành phố, giáo dân, giáo sĩ, khách hành hương yêu cầu hang đá được làm phép và thánh hiến. Đức giám mục địa phận người trước kia gây khó dễ cực kỳ cho bà lạ, giờ đây quyết định làm việc đền tội. Để xứng đáng là một ông hoàng của giáo hội, ngài tổ chức cuộc hành hương lớn nhất, long trọng nhất chưa từng thấy trước đây trong giáo phận. Ngài sẽ dẫn đầu cuộc rước. Hàng trăm ngàn người đến Lộ Đức vào ngày 4 tháng 4 năm 1863, Bernadette sẽ có mặt và là ngày vinh dự nhất của cuộc đời cô gái. Chiều hôm trước ngày hành hương, hàng ngàn ngọn nến được thắp lên trước các cửa sổ mọi nhà trong thị trấn. Toàn thể thị trấn treo cờ tổ quốc. Các binh lính ăn vận đồng phục mới do đại tá dẫn đầu. Đức giám mục mặc áo lễ đẹp nhất của tòa Giám Mục. Sáng hôm sau là ngày đại lễ chính thức, Bernadette đáng lý phải thức dậy sớm, nhưng cơn bệnh suyễn quái ác lại bất ngờ tấn công. Cô bé cố gắng vài lần trỗi dậy, nhưng không được. Cô quị ngã và bắt buộc phải ở lại trên giường. Cơn bệnh hành hạ cô gái nhiều năm, đã thuyên giảm trong suốt thời kỳ được hội kiến với bà khách lạ, nay bỗng dưng trở nên nghiêm trọng không thể chịu nổi. Bác sĩ Dozous đành nói với ban tổ chức cho Bernadette ở lại nhà, không tham dự cuộc hành hương vinh hiển được.
Đúng tám giờ sáng, các chuông của nhà thờ thánh Phêrô đổ hồi. Hàng trăm ngàn người sắp hàng từ thị trấn đến hang Massabielle, tràn lan ra khắp thung lũng. Đám rước thật trọng thể, Đức Giám Mục địa phận dẫn đầu. Bernadette nằm nghe tiếng ồn ào vĩ đại, nhưng chẳng còn hơi sức đâu để theo dõi. Tất cả sức khỏe chỉ là để lấy hơi thở. Khoảng giữa trưa thì cuộc rước làm nghi thức thánh hiến hang đá kết thúc. Lạ lùng thay cũng chính giờ đó Bernadette thở dễ dàng. Cô khỏi bệnh. Cơn hen suyễn tấn công chỉ vừa đủ dài để ngăn cản Bernadette được vinh quang trong cuộc hành hương của giáo phận. Lời tiên báo của bà lạ đã được ứng nghiệm một phần.
Ít lâu sau cuộc hành hương, trời đất bước vào mùa hạ, mưa nhiều, nắng gắt, oi bức là thời tiết thường xuyên. Người ta đã sắp đặt một ngày như thế để tiễn đưa Bernadette đi tu. Cuộc tiễn đưa thật lạ lùng, tất cả láng giềng của ngôi nhà Cachot đều có mặt. Ở một cuộc hội kiến với Đức Giám Mục địa phận Nevers, Đức cha Forcade, Bernadette đã tỏ ý muốn từ bỏ thế gian dâng mình cho Thiên Chúa và vào ẩn náu trong tập viện các dì phước Nevers mà cô gái quen biết từ tấm bé. Đức Giám Mục vui mừng đồng ý ngay và thu xếp nhanh chóng mọi thủ tục để Bernadette vào dòng càng sớm càng tốt. Hôm nay nhà dòng phái hai dì phước đến Lộ Đức đón Bernadette đi Nervers.
Về phần gia đình ông Francois Soubirous, đã hơn năm nay trở lại hành nghề tại một nhà máy say mà xưa kia ông làm chủ. Ngôi nhà Cachot bỏ trống. Nhưng Antoinette Peyret có sáng kiến tổ chức buổi tiễn đưa tại chính ngôi nhà cũ Cachot. Cô Peyret bắt buộc Bernadette chủ tọa các nghi lễ. Tất cả bạn bè cũ không thiếu một ai, những người đã từng theo Bernadette ra hang, các kẻ chê bai chống đối từng người một lần lượt đi ngang qua trước mặt Bernadette, thân ái cầm lấy tay cô chào từ giã. Nhiều người không cầm nổi nước mắt, ôm hôn cô gái khóc thảm thiết. Bà Bouhouhort cũng có mặt. Bà đến với đứa con trai, bây giờ đã tám tuổi, khỏe mạnh. Tuy đôi chân gầy hơi cong. Bà vừa chỉ Bernadette vừa nói với em:
- Coi kìa con. Đây là vị thiên thần. Suốt đời con phải nhớ ngày hôm nay.
Cuối cùng mọi việc chấm dứt. Gia đình tiễn đưa Bernadette ra xe. Ông Francois cốâ làm ra vẻ cứng rắn cao thượng khuyên nhủ con gái: “Con à, hãy ăn ở tốt lành, đừng làm chi hổ danh gia đình, dòng họ”. Bernadette nhìn cha trong nước mắt: “Vâng con xin hứa, ba ở lại, con đi”. Rồi cô òa lên khóc, ôm cổ cha hôn hồi lâu. Bà Louise mấy năm nay rụng hết răng cửa, coi già và luộm thuộm. Bà bận rộn thu xếp hành lý cho con gái, điều mà người mẹ nào cũng làm khi tiễn con đi xa. Tất cả chỉ một chút quần áo nhét vào cái túi xách nhỏ. Bà lôi ra trong hầu bao một món quà biệt ly: Chiếc khăn tay bằng lụa.
- Con buộc chiếc khăn này lên đầu. Thiên hạ phải được ngắm con xinh đẹp trong chuyến đi này.
Rồi bà quay đi, không cầm nổi xúc động, bà khóc: “Chúng ta sẽ chẳng còn gặp nhau nữa đâu con ạ”. Bernadette cố gắng yên ủi mẹ bằng giọng tự nhiên: “Má à, trong Dòng cho phép các cuộc thăm viếng thường xuyên. Má có thể đi Nevers bằng xe lửa”. Chỉ khi chiếc xe ngựa lóc cóc vượt biên giới Tarbes và Nevers, chẳng còn được trông thấy ai thân thuộc nữa, Bernadette mới thấy lòng mình xót xa. Nỗi đau vì chia ly thì ít, vì thương cảm bố mẹ thì nhiều. Bỗng dưng người ta trông thấy bóng một thanh niên xuất hiện bên đường đi. Đó là anh Antoine Nicolau, chủ xưởng cưa Savy mà ba chị em Bernadette xin qua cầu. Antoine tay cầm bó hoa hồng bạch vẫy xe. Chiếc xe ngựa dừng lại. Anh đưa tặng Bernadette bó hoa và thẹn thùng nói:
- Sáng nay tôi không muốn đến Cachot tiễn biệt Bernadette với những người khác. Tôi có điều này muốn nói với em. Khó nói quá.
Hai dì phước trên xe ngồi ngay ngắn, nghiêm nghị, Antoine vuốt râu mép: Trán lấm tấm mồ hôi. Cuối cùng chàng mạnh bạo nói:
- Điều tôi muốn báo cho Bernadette là không khi nào tôi lấy vợ, Bernadette ạ. Tôi sẽ ở độc thân suốt đời. Để thờ phượng bóng hình em. Xin Thiên Chúa chúc lành cho em. Chúc em đi bình an.
Bernadette rút một bông hoa hồng bạch trong bó tặng lại cho Antoine, nói: “Vĩnh biệt anh Antoine, anh ở lại bình yên”.
Khi đến tu viện các dì Nevers, Bernadette phải đợi mẹ bề trên đủ một giờ. Mẹ bề trên bước vào phòng khách, giả vờ như chưa biết tiếng tăm cô gái trẻ từ Lộ Đức đến. Bà nghiêm nghị hỏi:
- Tên con là gì?
- Thưa mẹ tên con là Bernadette Soubirous.
- Con bao nhiêu tuổi?
- Thưa mẹ ngoài hai mươi.
- Con làm nghề gì?
- Thưa mẹ, con chẳng làm được chi nhiều.
Bình thường thì người ta cho câu trả lời như vậy là hỗn xược. Nhưng mẹ bề trên cố gắng thăm dò đôi mắt đen của Bernadette. Đôi mắt vẫn hồn nhiên, bình thản, chân chất.
- Ở nhà con thích làm chi?
- Con nghĩ con chỉ thích việc nhà hay đi làm đầy tớ cho người ta để kiếm ăn.
Mẹ bề trên quay sang một dì phước vừa bước vào phòng khách. Dì cao, gầy, trắng trẻo:
- Đây là dì giáo nhà tập, dì Vauzous
- Chúng con đã biết nhau. Dì giáo trả lời.
Mẹ bề trên ra lệnh:
- Ngày mai, thỉnh sinh này sẽ giúp việc trong nhà bếp.
Rồi mẹ quay sang Bernadette nói tiếp: “Nếu con không thích bếp núc, con nói ngay bây giờ cho ta hay”.
- Ồ, không thưa mẹ, con đã quen làm bếp ở nhà. Bernadette trả lời.
Cô đã không ý thức mình vừa trải qua một cuộc thử thách về Đức khiêm nhường. Các dì ở Nevers luôn có thành kiến rằng Bernadette kiêu căng vì danh tiếng của mình. Mẹ bề trên tiếp:
- Như là một thỉnh sinh trong dòng, con phải chọn một tên mới. Mẹ đỡ đầu của con là gì?
- Thưa mẹ, Bernarde Casterot.
- Được tên con bây giờ là Marie Bernarde. Mẹ bề trên đứng dậy. Cuộc phỏng vấn chấm dứt. Bernadette vui vẻ chịu một mất mát lớn. Cái tên yêu dấu và danh tiếng người ta gọi cô ở ngoài đời đã chịu hy sinh bỏ đi. Nhưng Bernadette không nghĩ đến hy sinh ấy, vui vẻ theo dì Vauzous bước vào tập viện.
Chiều hôm trước ngày mặc áo. Dì phụ trách nhà tập cho gọi Bernadette đến phòng.
- Ta cho gọi con đến đây vì ta muốn con làm sáng tỏ vài điều giữa ta và con. Ta thú thật chưa hề tin vào con và những điều con rêu rao xem thấy Đức Nữ đồng trinh Maria, nhưng Đức Giám Mục địa phận Tarbès đã đứng về phía con. Ta không thể làm chi khác ngoài sự vâng phục giáo quyền. Ở tuổi 14 con nhận được ơn cả thể, không ai hiểu thấu được. Ơn ban nhân danh Chúa Giêsu, không phải vì công nghiệp loài người. Con sẽ được Thiên Chúa ưu ái trên trời cao, còn những người khác chẳng được. Nhưng liệu xấu hổ lắm không, khi trên trời Bernadette để lộ nguyên hình là một cô con gái mưu mô, lừa đảo, ương ngạnh, kiêu căng, như ta từng quan sát bấy lâu nay. Con có chú ý nghe ta nói không?
- Thưa mẹ, con có nghe.
- Dĩ nhiên con có quyền bảo rằng mẹ Vauzous hiểu lầm con, con chẳng mắc những thói xấu đó.
- Thưa mẹ con nhiều thói xấu lắm. Bernadette ngay thẳng trả lời.
Dì phước đổi đề tài.
- Bác sĩ của tu viện, ông Saint Cyr đã khám bệnh cho con. Ông bảo sao?
- Con mạnh khỏe, ngoài bệnh hen suyễn.
- Ta bắt được con nói dối. Dì Vauzous mỉm cười, ông bảo hai buồng phổi con có vấn đề.
- Thưa mẹ điều đó không hề gì ạ, con vẫn cảm thấy hoàn toàn mạnh khỏe. Bernadette trả lời và cười lớn.
- Quyền lợi của con, đúng hơn, bổn phận của con là không nên làm việc qua sức mình.
- Thưa mẹ, con không thấy chi nặng nề ở nhà bếp.
Mẹ Marie thérèse Vauzous đứng dậy.
- Con nên hiểu biết tầm quan trọng của đức vâng lời. Lời khấn thứ ba trong dòng. Khi giữ trọn lời khấn đó, chúng ta thánh hóa bản thân, được Chúa thương ban cho nước thiên đàng. Tu viện không phải là nhà tù. Cho đến khi con tuyên khấn trọn, tức vĩnh viễn. Con được tự do rời khỏi nơi đây. Và luôn nhập tâm mỗi người phải hy sinh hãm mình để được Thiên Chúa ban ơn. Tất cả chỉ có thế, Maria Bernadette ạ, chúc con ngủ ngon.
Nhưng Bernadette chẳng thể ngủ ngon được. Đêm này qua đêm khác cô bé nằm thao thức trên chiếc bao tải lót rơm. Chiếc giường thô kệch không làm cô mất ngủ cho bằng ngọn lửa sức sống trong người. Cô phải chống lại sự tàn phá ngày một khủng khiếp nơi bản thân. Mẹ giáo tập Vauzous luôn mang theo bên mình cái búa vạn năng, để rèn các con cừu con ngơ ngác vào khuôn phép cứng nhắc của kỷ luật nhà dòng. Họ kéo lê đôi chân rã rời qua các hành lang rộng thênh thang theo bước đi thoăn thoắt của dì phụ trách nhà tập. Họ chẳng ngó nhìn thế giới bên ngoài bằng những đôi mắt to, ngỡ ngàng, như hai mắt của Bernadette. Họ khiêm tốn nhìn xuống đôi chân. Trí khôn không dám lang thang đó đây và mỗi khi phải trả lời câu hỏi, giọng họ như nói thầm. Chỉ vài tháng ngắn ngủi họ đã học được Đức hạnh khép nép, nhưng giả tạo, mà dì giáo Vauzous đòi hỏi. Duy Bernadette cảm thấy khó mà giả vờ theo ước lệ. Bởi cô không quen nếp sống thánh thiện bề ngoài này.
Bernadette vẫn nằm trằn trọc suốt đêm, thường khi tưởng nhớ đến mẹ với nỗi đau xé ruột như lúc chia tay. Bà là người mẹ cứng cỏi, nhưng đầy yêu thương nhân ái với các con. Bernadette lại càng tủi thân hơn nhớ lại cách mẹ đối xử với các con. Chẳng bao giờ bà đa cảm, ngay cả các con cầu khẩn vì lỗi lầm. Ít khi bà dịu dàng ăn nói. Có lẽ cái nghèo khổ đã tạo nên tâm lý đó. Bà phải tần tảo suốt ngày để kiếm ra cơm bánh. Trong lòng Bernadette còn ấm ức nhiều điều muốn nói với mẹ. Chuông báo thức lúc 4 giờ 30 sáng. Tiếng chuông nhà dòng luôn làm cho cô gái bỡ ngỡ và đầy nước mắt.
Các tập sinh phải mau chóng bước ra khỏi giường. Xếp hàng và trật tự vào cung nguyện đọc kinh giờ sáng. Một dì phước đọc to bài suy gẫm: Linh mục tuyên úy dâng lễ, rước lễ, nguyện gẫm và kinh thần vụ tiếp. Sau bữa điểm tâm, công việc bổn phận thường ngày khởi sự. Bernadette lao động ở nhà bếp. Sửa soạn bữa ăn cho cộng đoàn, cô làm mọi sự như khi còn ở nhà: Kín nước, rửa rau, gọt khoai tây, gọt củ tulíp. Hơi đất cát bám vào rau cỏ nhắc Bernadette nếp sống thôn dã của mình. Sau giờ cơm trưa lại kinh phụng vụ. Muộn hơn trong ngày, dì giáo tập thâu gom các tập sinh lại thuyết giảng về đạo đức. Thường thì từng nhóm đôi khi cá nhân.
- Này Marie Bernarde, lần vừa qua chúng ta bàn luận về nết xấu nào của em?
- Thưa mẹ, về nết xấu tưởng mình đặc biệt, bởi xem thấy bà lạ hiện ra.
- Và con làm những hy sinh nào để thắng nét xấu đó?
- Thưa mẹ, con có ý tránh chị Nathalie mấy ngày nay.
Mẹ Maria Thérèse gật đầu đồng ý:
- Ừ phải đấy, tập sinh Nathalie có tính tình dễ dãi, điều đó làm con sinh kiêu ngạo. Rồi cậy mình giỏi giáo lý.
Nhưng gánh nặng nề nhất Bernadette phải mang là giờ giải trí ban chiều. Khu vườn nhà dòng trở thành sân chơi cho các tập sinh. Ngay cả chơi đùa cũng phải theo khuôn phép. Đến giờ mẹ Vauzous hô to: “Nào các cô gái, vui vẻ lên nào. Thư giãn một chút”. Đó là dấu hiệu đến giờ chơi. Bernadette cảm thấy khó chịu khi ngắm các cô gái nhảy múa vui vẻ trong những chiếc áo lụng thụng. Nhiều lần cô ép mình hòa đồng, nhưng đều thất bại.
***
Vào một ngày cuối thu. Bầu trời xám xịt, ảm đạm. Những áng mây vần vũ như sắp mưa. Mẹ giáo tập Vauzous cho gọi Bernadette và nói nghiêm trang.
- Con ạ, hôm nay con phải chịu một hy sinh nặng nề. Can đảm mà chịu đựng.
Đôi mắt Bernadette giương to hơn thường lệ.
- Mẹ con vừa qua đời.
Bernadette ngồi bệt xuống đất, tựa lưng vào tường trong gian phòng dì giáo tập. Miệng mếu máo.
- Mẹ ơi, mẹ...
- Này Bernadette, mẹ dì đã qua đời. Nhưng Chúa chúng ta đã chiến thắng sự chết. Hãy biểu lộä đức tin mạnh mẽ vào Chúa Kitô Phục Sinh. Hãy tiếp tục ra sân chơi như những tập sinh khác.
Sau một hồi yên lặng Bernadette thì thầm:
- Vâng, thưa mẹ.
Rồi cô chạy thẳng ra sân chơi bóng, nhảy vòng, chạy đua đủ một giờ trong gió thu lành lạnh. Những chiếc lá vàng lác đác rời cành rơi xuống mặt đất vang lên một tiếng khô khan. Hết giờ chơi các tập sinh tụ họp để trở về nhà tập. Bernadette ngã quị trên tảng đá cột cờ. Nathalie hét lớn: “Bớ người ta Marie Bernadette ho ra máu”.
***
Khoảng một giờ khuya cùng ngày. Một người đàn ông mò mẫm cô độc qua các dãy phố vắng tanh của thị xã Nevers. Gió mạnh thổi vù vù. Nhà dòng sai người đến tòa giám mục ngay giữa ban đêm. Báo tin cho ngài trẻ xem thấy Đức Mẹ sắp qua đời. Đức giám mục vội vàng dậy đi vào nhà dòng ngay. Dì Maria Bernadette cần gặp Đức giám mục địa phận. Khi đến cửa tu viện Thánh Gildard. Đức Giám Mục Forcade hỏi: “Dì Bernadette còn tỉnh không?” Mẹ bề trên hơi khó chịu vì mất ngủ trả lời cộc lốc.
- Thưa Đức cha, còn hoàn toàn tỉnh táo, nhưng bác sĩ Saint Cyr đã mất hy vọng cứu sống.
Đức Giám Mục hỏi lại: “Việc đó làm sao có thể xảy ra được? Chúng ta có bổn phận coi sóc bông hoa này. Mới chưa được một năm đã xảy ra sự cố. Cả thế giới nhìn vào cô bé. Nếu chẳng qua khỏi, liệu hậu quả ra sao?”
Bernadette nằm ở phòng bệnh nhân rộng thênh thang. Khuôn mặt hốc hác xanh nhợt nhạt sau cơn ho ra máu và nôn mửa hàng giờ. Bác sĩ Saint Cyr coi chừng tim mạch. Linh Mục tuyên úy đọc các kinh cầu nguyện cho kẻ sắp sinh thì, vài dì phước quì bên cùng đọc kinh với cha tuyên úy. Dì giáo tập Vauzous đứng khoanh tay, khuôn mặt hốc hác xanh xao, đôi mắt sâu hoắm chăm chú nhìn tập sinh Bernadette đang thoi thóp thở hắt ra. Đức cha Forcade cúi xuống bệnh nhân, đặt nhẹ một bàn tay lên hai tay chắp ngang của Bernadette hỏi:
- Con còn nghe được cha nói không?
Bernadette gật đầu muốn nói có.
- Con có điều chi muốn tỏ lộä cho cha không?
Bernadette khẽ lắc đầu. Cô chẳng còn chi muốn nói nữa. Đức cha Forcade quì xuống đọc một lời kinh nguyện, rồi ngài đứng thẳng dậy, toàn thân run run xúc động. Ngài hỏi mẹ bề trên một căn phòng nghỉ qua đêm. Đang khi ở hành lang đến phòng nghỉ, ngài nghe thấy tiếng giày của ai nặng nề đuổi theo. Ngài quay lại nhận ra dì giáo tập.
- Thưa Đức cha, giọng dì Vauzous run run, liệu Đức Mẹ có nổi cơn giận khi Bernadette con yêu của Mẹ chết mà chưa tuyên khấn?
- Vậy dì nghĩ thế nào? Đức Giám Mục nói cộc lốc. Rồi ngẫm nghĩ nếu Bernadette được nhận vào dòng thì tốt hơn. Tai họa có lẽ bớt phần thảm khốc. Bernadette sẽ được thêm ơn thiêng liêng khi khấn dòng.
Ngài quay lại phòng bệnh nhân. Cúi xuống giường Bernadette dịu dàng nói.
- Con à, Đức Mẹ rộng lòng hiện ra cùng con. Ngài sẽ rất hài lòng khi nghe con khấn ba lời khó nghèo, thanh tịnh và vâng lời. Con chỉ cần gật đầu là đủ. Con có hiểu cha nói không? Có bằng lòng khấn không?
Bernadette gật đầu. Đức Giám Mục cử hành nghi lễ khấn vĩnh viễn. Các dì phước khác tuôn đầy gian phòng bệnh nhân để tham dự lễ tuyên khấn. Bernadette kiệt sức uống vài giọt nước. Đây là lần đầu tiên trong mấy giờ qua. Bernadette uống thêm vài giọt nước nữa mà không nôn mửa. Đức Giám Mục mừng rỡ tươi cười: “Cha chúc mừng con đã qua khỏi”. Người ta dọn cho Đức Giám Mục một chiếc ghế gần giường bệnh nhân. Ngài ngồi xuống nhìn bác sĩ Saint Cyr như muốn hỏi: “Còn bao lâu nữa?” Bác sĩ nhún vai không trả lời. Đức cha bỏ về phòng ngủ. Mười lăm phút yên lặng trôi qua, tưởng như thần chết đã lẻn vào gian phòng. Bernadette thở hắt ra vài lần, như thể những hơi thở cuối cùng của đời cô gái xem thấy Đức Mẹ. Lời kinh của linh mục tuyên úy và các dì phước tăng thêm cường độ. Bernadette tiếp tục lấy hơi thở. Bỗng nhiên cô bật lên tiếng nói thì thầm nhưng rõ ràng:
- Mẹ con chết rồi, nhưng con chưa chết được.
Sáu ngày sau, Bernadette khỏe lại, có thể ngồi thẳng dậy. Bác sĩ Saint Cyr không còn nghe thấy tiếng khò khè ở buồng phổi cô gái. Nó đã biến mất. Bernadette ra khỏi phòng bệnh nhân, sinh hoạt bình thường như các chị em khác.
Một năm sau hết thời hạn tập. Bernadette tuyên đọc lại ba lời khấn trong tay Đức Giám Mục địa phận. Sau đó cô xung phong phục vụ các bệnh nhân ở phòng cô nằm trước. Nhưng chẳng bao lâu Đức Giám Mục yêu cầu mẹ bề trên gọi về. Bởi sức khỏe của Bernadette không thể lao động được nhiều. Việc phục vụ bệnh nhân quá vất vả, thức khuya, dậy sớm, làm việc cả ngày đêm. Công tác mới của Bernadette bây giờ là coi phòng thánh. Một công việc yên tĩnh, thú vị, thích hợp với một nữ tu có sức khỏe mỏng manh, giới hạn. Các mẫu thêu của Bernadette đẹp lạ thường, đến nỗi người khó tính nhất trong hàng giáo sĩ cũng phải thán phục. Đơn đặt hàng chạy đến nhà dòng hàng ngày. Đầu tiên cô thêu theo mẫu có sẵn, dần dần với ngón tay nhỏ nhắn không đuợc huấn luyện chính khóa, cô sáng tạo những bông hoa rực rỡ mà chính mắt cô cũng chưa hề nhìn thấy. Cô thêu theo trí tưởng tượng, chứng tỏ một Đức tin mạnh mẽ, sáng ngời. Một lần dì phước Nathalie ngắm nhìn những tác phẩm của Bernadette tấm tắc khen và nói:
- Chị đã được trông thấy Đức Mẹ. Vậy sao chị không thêu Ngài lên khăn bàn thờ.
- Không chị ạ, Đức Mẹ đẹp lắm chẳng thể nào mà vẽ hay thêu được Người.
- Thế thì trí nhớ dì phai mờ rồi chăng?
- Thưa không, hãy còn rõ, rõ lắm.
Rồi Bernadette mỉm cười, hướng đôi mặt to, đen nhìn qua cửa sổ, như ra một thế giới thiêng liêng nào khác.
***
Có tiếng gõ cửa khe khẽ, rụt rè. Dì phước gác cổng vội vã đi tìm Bernadette báo tin có khách đợi ngoài phòng thánh. Bernadette ngạc nhiên, từ lâu mẹ bề trên đã cấm tất cả khách khứa đến gặp dì Marie Bernarde, bởi vì đa phần trong họ đến vì tò mò.
Trong lối vào phòng thánh tối om. Bernadette nhận ra bóng dáng của cha mình, một người đàn ông đứng tuổi, cao lớn. Cái bóng đó rụt rè không dám tiến gần hơn.
- Ngợi khen Chúa Kitô. Cái bóng cất tiếng chào theo kiểu các nhà dòng.
- Từ bây giờ và cho đến muôn đời, Amen. Dì Marie Benarde trả lời. Người đàn ông to lớn mạnh dạn bước thêm một bước và hơi cúi đầu nghiêng mặt để nhìn cho tỏ.
- Ba đến thăm con, xem con thế nào, nghe tin con bị bệnh nặng, ba lo lắm.
- Ba, Lạy Chúa! Bernadette ôm chằm lấy bố, miệng mếu máo như khóc vì cảm động và vui mừng. Ông Francois Soubirous bẽn lẽn đứng yên không dám đáp lại cái ôm của con gái. Năm nay ông độ tuổi năm mươi, tóc đã nhuốm bạc.
- Từ lâu lắm ba muốn đến thăm con. Nhưng xem ra chưa tiện, vì ba còn nghiện rượu. Sau khi mẹ con mất, ba buồn lắm, ba bỏ rượu luôn.
Bernadette nhắm mắt hỏi bố.
- Mẹ chết ra sao? Bệnh gì?
- Mẹ con chết dễ lắm. Chẳng mắc bệnh gì cả. Mấy ngày hôm trước, mẹ con kêu mệt, ba không cho là bệnh nặng. Nào ai ngờ... Mẹ con nhắc đến con luôn.
- Khi từ biệt con. Mẹ đã biết chẳng còn được gặp lại con nữa. Mẹ nói vậy nhưng lúc ấy còn bé con chẳng hiểu.
- Ba có mang một tấm ảnh của mẹ cho con. Con có được phép nhận không?
Ông Francois móc túi đưa cho con gái tấm hình của bà Louise. Bernadette cầm lấy trả lời.
- Con tin mẹ bề trên cho phép.
Cô gái nhìn vào ảnh mẹ, vui như một đứa trẻ ngây thơ. Rồi kéo một cái ghế mời bố ngồi nói: “Nào ba nói con hay cả nhà bây giờ làm gì?” Bernadette dồn hết tâm trí lắng nghe những gì cha cô nói. Gia đình ông bây giờ được chia phần với sự thịnh vượng chung của Lộ Đức. Em gái Bernadette là Maria đã được hai gái, một trai. Ngày nào đó trong tương lai Maria và các cháu sẽ đến tu viện thăm bá chúng nó.
- Ba à, con rất thỏa lòng được nghe cả nhà mình đều mạnh khỏe.
Gương mặt ông Francois Soubirous đầy nước mắt.
- Ban đêm, đôi khi nhớ lại thời gian ở Cachot trái tim bố trĩu nặng. Lúc ấy nhà ta nghèo quá. Bây giờ khá hơn nhiều.
- Hồi ấy con chưa đủ trí khôn để phân biệt giàu nghèo. Con chẳng cảm nghiệm nghèo là gì. Chúng con vui như tết.
Bỗng nhiên Bernadette mỉm cười đổi đề tài.
- Ba đói lắm rồi, khát nữa, ba đi đường quá xa xôi mà. Con đi kiếm chút gì ba ăn.
Rồi cô gái vội chạy đi xin phép cho bố một ít món ăn. Cô đặt cái bàn nhỏ giữa phòng thêu thùa, mang đến bánh, cà phê và rượu nữa. Cô rất hạnh phúc phục vụ bố ăn uống. Rồi ngồi ngắm cha ăn. Đúng là ông rất đói vì đường dài, nhưng ngồi giữa hình ảnh các thánh, áo lễ, đổ thờ, ông cảm thấy ngượng ngịu, Bernadette tự nhiên như ở nhà, rót cho cha ly rượu mạnh.
- Ít lâu nay bố chỉ uống chút rượu chát, rượu mạnh bố bỏ hẳn. Ông Francois vui vẻ khoe với con gái.
- Nhưng ba coi, con uống để chúc mừng sức khỏe ba.
Nói rồi Bernadette rót một ly rượu đầy, uống cạn hết mà không nhăn mặt. Được thể, ông Francois cũng vui lây, rót một ly uống và cảm thấy khoan khoái, Bernadette thắp lên vài cây nến cho sáng gian phòng. Hình ảnh thánh Giuse và Đức Mẹ cúi xuống Chúa hài nhi Giêsu trên bức tranh thánh gia trở nên rõ ràng. Một tư tưởng lạ lùng chợt đến với ông Francois: Từ đây chốn này đã trở thành gia đình của con gái ông. Ông rút lui và không gặp lại Bernadette lần nào nữa. Ông trở về thế gian đầy bụi bặm và bóng tối.