Dì phước Maria Therese Vauzous nghiêm nghị đứng quay mặt xuống lớp học. Vì thức đêm nhiều để canh thức nên khuôn mặt dì đáng lẽ xinh đẹp, nhưng lúc này mang vẻ thẫn thờ thiếu ngủ. Lệnh của cha xứ Peyramale và cha phó tuyên úy truyền dì phải hành động để chấm dứt lộn xộn. Dì thăm dò phản ứng của dân chúng về vấn đề rất quan trọng trong giáo xứ. Cha chánh xứ muốn dì phải công bố trước các em rằng: Một bé gái chưa xưng tội rước lễ lần đầu mà dám khoe mình xem thấy Đức Mẹ đồng trinh ở hang Massabielle gớm ghiếc là một điều kiêu ngạo qúa mức. Suốt đêm qua dì phải thức trắng để tra cứu về ý nghĩa đích thực của ơn thánh, những điều kiện và công nghiệp để được ơn. Liệu kỷ luật nghiêm ngặt, sự cầu nguyện liên lỷ, lao động cực nhọc, khiêm tốn, hy sinh phạt xác như các tu sĩ, dì phước, linh mục, giám mục, đủ để đạt tới cứu cánh là ơn thánh? Như vậy sự hy sinh cao cả của cuộc đời dì cũng rơi vào nghi vấn? Từ lúc ấy cho đến giờ này dì Marie Therèse Vauzous vẫn còn lo lắng thâm sâu về số phận mình và linh hồn dì chẳng được bình an.
Dì liếc nhìn Bernadette mà người ta đồn là được ơn bởi trời, vẫn ngồi cúi đầu xuống. Dì gọi: “Bernadette Soubirous lên đây”. Như nhiều lần trước dì thường gọi, Bernadette giật nẩy mình thưa dạ và bước lên bảng vào đúng chỗ thử thách như mọi lần để sát hạch. Nhưng dì Vauzous không khảo bài mà thuyết pháp cho toàn thể lớp học với đối tượng là Bernadette Soubirous: “Dì đã nói với các con, toàn thể nhân loại đều là tội nhân, không ai là thánh cả. Nhưng Thiên Chúa không đối xử đồng đều như nhau. Người thì cảm thấy gánh nặng tội lỗi, kẻ thì bệnh tật, kẻ khác đau thương khốn khổ, kẻ khác nữa tù đày, tha hương, người nặng, kẻ nhẹ. Nhưng nếu có ai ít bị ảnh hưởng của tội lỗi, thì lại chẳng có mặt ở đây”. Rồi quay sang Bernadette dì nói: “Hay là chúng con tin rằng có kẻ nào đó nghĩ mình như vậy ở giữa chúng ta? Kẻ tự phong mình xứng đáng hơn các người khác để xem thấy Đức Mẹ Đồng Trinh?” Bernadette khiêm nhường nhìn dì phước ngạc nhiên: “Thưa Dì không ạ!” Dì Vauzous không để ý lời nói của Bernadette, tiếp tục:
- Trong dòng thời gian, đã có nhiều linh hồn nam nữ sống trên trái đất này thánh thiện đến độ gần như vô tội. Họ hiến dâng mình cho Thiên Chúa, vào rừng hoang dã, vào sa mạc khô cằn, leo lên vách đá hiểm trở như dãy núi Pyrènées chúng ta. Ở đấy họ ăn chay, đánh tội, cầu nguyện, phạt xác và tiến bộ nhiều trên con đường khổ hạnh, đến nỗi mọi cám dỗ của ma qủy không làm hại nổi linh hồn họ. Một số ít còn được xem thấy thị kiến này nọ: Thí dụ chính Chúa Cứu Thế thân hiện ra với họ. Hoặc Đức Mẹ đồng trinh, Bernadette Soubirous có nghe không và hiểu chi không?
Bernadette giật mình tỉnh dạy. Từ nãy cô gái chẳng nghe thấy gì, với trái tim đau khổ như không thể chịu đựng được nữa, đứng đấy làm mục tiêu cho các bạn học chế riễu, cô bé chẳng còn can đảm nhìn thấy ai. Hình phạt thường xuyên của những tâm hồn đạo đức thánh thiện chủ quan. Cô nghĩ về bà lạ ngòai hang đang đứng chờ đợi vô ích. Bernadette đẫn đờ và yên lặng nhìn dì giáo viên. Dì Marie Vauzous hỏi tiếp:
- Liệu con tính giả đò là một trong các vị thánh thiện, đúng không?
- Thưa dì không.
- Thế con mút kẹo để được xem thấy thị kiến chắc?
Câu nói của Dì phước làm cả lớp ồ lên cười chế nhạo. Dì vauzous đợi cho mọi người yên lặng.
- Con thấy đấy, Bernadette ạ, ngay cả các bạn cùng lớp cũng cười vào trò lừa đảo ngu ngốc mà con dựng nên, hòng kiếm chác được vị trí quan trọng, rẻ tiền. Bây giờ con về chỗ. Xấu hổ vì đã làm xáo trộn mùa Chay thánh đức với các việc phô trương của mình.
Chiều hôm ấy, vì ảnh hưởng xấu của lời nói dì Vauzous, Bernadette phải đi học một mình, lòng hổ thẹn và buồn bã. Nửa đường gặp chị thợ may Antoinette Peyret đang run lên vì tức giận:
- Này Bernadette, em tính lừa dối chúng ta đấy sao? Bà Millet và ta và rất nhiều người khác chờ em hàng giờ ở hang Massabielle
- Họ cấm em ra đó. Dọa bỏ tù em và ba mẹ. Bernadette nói thầm vào tai cô thợ may, rồi bắt đầu ù té chạy sợ trễ giờ học.
Khi gần đến cống dẫn nước thành phố, Bernadette tính bước qua, nhưng nghe sau lưng có người đuổi theo, một bàn tay to lớn nắm lấy vai cô gái và quay ngược người Bernadette lại. Bernadette không thấy có ai. Nhưng đang đi trở về con đường cũ thì lại nghe sau lưng tiếng lộp cộp của võ ngựa. Hai người cảnh binh y phục rực rỡ với gươm đeo bên hông và đội mũ lông chim hiện ra ở hai bên.
- Ê, em đi về nhà hả? Ngoan rồi đấy.
- Không em chạy ra hang. Cô gái trả lời mạnh bạo.
- Tự tiện ra hang sao? Ông sĩ quan nói. Chúng tôi cùng đi với em.
Callet và một người cảnh binh khác cũng nhập bọn với họ. Cuộc diễu hành kỳ lạ làm cho cả thị trấn xôn xao. Các cửa sổ mở tung. Đàn bà xuất hiện trước cửa nhà hai tay lau vào vạt áo, kẻ ôm con. Khi Bernadette tới hang thì đã có tám hoặc chín chục người chạy theo sau.
Bernadette qùi phập xuống đất sỏi, hai tay giang rộng đưa về phía cửa hang như cầu khẩn. Nhưng trên hang vẫn trống rỗng, đen ngòm. Cô gái sợ hãi kêu to: “Con chẳng trông thấy bà đâu. Con không được xem bà nữa”. Và cô gái ngất đi.
Ở xưởng của Savy người ta đặt Bernadette nằm trên gường bà Nicolau. Cô bé nằm mặt xám ngắt như tro bếp, vật lộn để lấy hơi thở. Antoine chạy vội đến nhà giây thép kiếm tìm ông Francois. Tới nơi, lần đầu tiên trong đời ông bị choáng ngợp vì sự đau đớn của con gái. Ông âu yếm vuốt tóc con bằng đôi tay thô kệch vì lao động nặng nhọc: “Con cưng của ta, họ đã làm chi cho con? Ba sẽ bảo vệ con, nói đi con muốn gì?”
- Nếu con không được xem thấy bà nữa, con sẽ chết, Bernadette thều thào.
- Cưng ạ, con sẽ thấy bà. Ba hứa. Chẳng ai ngăn cản được con.
Nhưng trên đường về ông Francois Soubirous bị dằn vặt vì lời hứa vội vàng của mình. Để làm dịu bớt áy náy, đến cửa nhà Cachot ông cố tình đi vượt qua, mục tiêu là quán rượu Babou.
Sáng hôm sau, Bernadette lại được hội kiến với bà khách lạ một cách đặc biệt, không chi so sánh nổi. Mới có một ngày xa nhau mà xem chừng như lâu hàng thế kỷ. Số đo không phải là thời gian mà là thiếu vắng và hoạn nạn. Bà lạ xem ra súc động mạnh. Thực tế, tình yêu và duyên dáng trên mắt xanh của bà qúa cao độ đến nỗi Bernadette qùi ngất trí đến một giờ trọn. Lúc ấy đám đông chừng 200 người. Và như các lần trước, khuôn mặt của Bernadette biến đổi, cô làm những cử chỉ kỳ quặc, gây cảm giác khiếp sợ qua đám đông đang qùi bên cạnh. Mọi người đều chăm chú nhìn Bernadette, cô phản ánh sự hiện diện của bà lạ, khi nhúm lễ, qùi xuống, đứng lên, lắng nghe, mở miệng, làm dấu, xem ra cô gái đang trong tiến trình đàm đạo với nhân vật vô hình, trao đổi những lời lẽ mến yêu.
Nhờ cuộc trao đổi này Bernadette biết được nhiều đặc tính của bà khách lạ. Chẳng hạn bà ta rất ít lời, chỉ nói khi cần thiết và lời nói rất chính xác gọn gàng, không thừa thãi. Cô cũng đoán ra bà đến mang theo một ý định đã suy tính kỹ mà cô không thể biết nội dung cho tới lúc này. Với một trực cảm tình yêu sâu thẳm cô gái biết rằng bất chấp dáng điệu bình thản, bà cố dấu kín điều chi đó trong lòng. Bằng kinh nghiệm riêng, cô phỏng đoán có lẽ đó là sự ghê tởm tình trạng tội lỗi của thế giới. Bởi lẽ chính cô sau mỗi lần hội kiến đều cảm thấy ý thức về nỗi khốn nạn này.
Từ tâm lý chê ghét tội lỗi cho nên nhiều khi xem ra bà cố ý xa lánh một vài điều, chẳng hạn bà không thích để người ta đến gần, chỉ những lúc cao điểm của một vấn đề, bà nói với Bernadette tiến tới tảng đá lớn, hoặc chính bà thân chinh bước ra mép của cửa hang. Đôi khi miệng bà thì thầm lời “Hối cải”. Bernadette nhận ra được “hối cải” đồng nghĩa với tự ý chấp nhận chán nản, đau đớn, phạt xác, hy sinh. Thí dụ người ta tự ý lê gối trên mặt đất đầy sỏi đá vụn, lởm chởm đến độ xé da thịt để đến tảng đá vách núi. Lúc ấy một việc ăn năn đền tội đã được thi hành. Và nếu những viên đá sỏi làm chảy máu thật sự, bà lạ đáp ứng bằng một việc kỳ lạ. Bà lấy hai bàn tay không, nhúng vào một cái giếng, rồi đưa lên cao như dâng lễ vật. Bernadette cố gắng không mệt mỏi để khám phá ra những ước vọng của bà khách la,ï nên khiến cô quan sát bà với con mắt rất tinh tế. Thí dụ: Vài ngày trước đây bà đã thốt lên lời truyền: “Hãy cầu nguyện cho các kẻ có tội”. Và rồi thêm mấy lời nhỏ nhẹ gần như không nghe thấy: “và cho thế gian sa đọa”. Nói rồi xem ra bà nhìn thấy những tội lỗi ghê tởm đến độ nhan sắc bà trở nên xanh xao. Bấy giờ cô gái ngộ ra rằng sự dữ đã làm cho bà gớm ghét, rằng việc đền tội là cần thiết để làm dịu nhẹ tình hình đó.
Vào những ngày bà lạ yêu cầu, Bernadette thúc giục những ai có mặt ở hang Massabielle thực hiện đền tội, thì đôi mắt cô gái đầm đìa giọt lệ chảy dài trên má. Cô quay mặt ra đám đông thầm thì ba lần: “Hãy thống hối, hãy ăn năn, hãy thống hối”. Đó là biến cố thứ nhất tách riêng ngày thứ năm hôm nay ra khỏi tuần lễ. Công tác thứ hai bà lạ truyền, đè nặng lên trái tim Bernadette và làm cô gái lo lắng và đầy khốn khổ, là một việc rất cụ thể: Bà nghiêm nghị nói: “Hãy đi đến các linh mục và bảo họ xây cất một thánh đường tại đây”. Rồi bà hạ giọng thêm: “Và hãy có những cuộc rước kiệu từ chốn này”.