Hôm ấy trời đẹp như ngày mùa xuân, mặc dù thời tiết còn đang cuối đông. Linh mục Maria Dominique Peyramale xem lại mấy bụi hồng trong vườn hoa rộng lớn của nhà xứ Lộ-Đức. Những gốc hồng yêu quí của linh mục được ủ ấm bằng rơm rạ và bao tải phủ kín. Bàn tay đầy lông lá của ông vỗ nhẹ vào đám vỏ bọc bên ngoài bảo đảm như chúng có thể cho ông biết đời sống bên dưới đã đến thời buổi thức dậy hay chưa? Tay trái linh mục nắm chặt lá thơ mà sáng nay nhân viên bưu điện trao tận cổng nhà xứ. Lá thơ từ tòa giám mục Tarbes. Đức cha Laureuce trả lời nghi vấn về biến cố Lộ-Đức. Linh mục cũng không quên xin tòa giám mục hướng dẫn xử trí vấn đề ra sao?
Như cha chánh xứ dự kiến, Đức Giám Mục hoàn toàn đồng ý với quan điểm của ngài. Trong cái gọi là các cuộc hiện ra ở hang Massabielle. Chẳng có chi khác ngòai những lời kể của một cô bé gái 14 tuổi, bệnh họan, rằng cô ta nhìn thấy một bà khách không quen biết. Vì vậy cha hạt trưởng phải thận trọng chỉ thị cho hàng linh mục, giáo sĩ tránh xa trước đám đông tò mò, bằng ngôn từ nghiêm ngặt, Giám mục khuyên nên làm ngơ trước những cuộc gọi là hiện ra này. Tuyệt đối không giáo sỹ nào được tham gia vào sự diễu hành đến hang Massabielle. Đức giám mục kết thúc lá thơ bằng ngôn ngữ thận trọng nhất và cầu xin ơn soi sáng.
Cha chánh xứ gấp lá thơ lại như cũ trang trọng nhưng thất vọng, theo thói quen của các ông hoàng trong hội thánh, thận trọng và lịch sự là điều tốt nhất để xử lý các vấn đề mới nổi lên. Họ giống các tướng lãnh cao cấp, ngồi trong pháo đài bộ chỉ huy, chẳng viên đạn nào lọt vào đó được. Cha quản hạt vừa rời khỏi các bụi hồng để về văn phòng thì nghe tiếng ồn ào ngoài cổng. Ngài ngạc nhiên pha trộn chút bực mình vì tiếng ồn phá vỡ sự yên tĩnh mà ngài thường xuyên được hưởng. Ngó ra cổng ngài nhận ra ngay tức khắc: Bernadette và các kẻ theo cô ta ra hang đang tiến vào nhà xứ. Ngài bị kích động mạnh vì tò mò và bị quấy rầy. Một giáo sĩ không thể để người ta bắt gặp tay không, mắt nhìn lang thang, nên cha xứ nhặt vội cuốn sách nguyện, cầm lên tay và đi ra cửa nhà xứ.
Đó là bà Bernarde khôn khéo, người đã thông dịch những lời của bà khách lạ: “Hãy đến với các linh mục...” không có ý nghĩa nào khác ngoài cha xứ. Đối với Bernadette kẻ chỉ trông thấy cha Peyramale trên tòa giảng, thì ngài là hiện thân của mọi sợ hãi trong tuổi thơ. Thân hình phương phi vĩ đại, tiếng nói oang oang như sấm sét là nỗi kinh hoàng cho các cô bé, cậu bé nhà quê nghèo hèn, đói khổ. Trời đất, lúc này cô phải gặp ông ta trong vai trò sứ giả của bà lạ. Trái tim cô gái bé nhỏ chìm xuống vì lo âu, hồi hộp. Nhưng dì Bernarde Casterot lấy khửu tay hích vào cạnh sườn cháu gái, thúc giục nó bước vào khuôn viên của cha giám quản đầy uy quyền. Người khổng lồ ngước mắt khỏi cuốn sách nguyện, giọng ồ ồ khàn khàn, kiêu kỳ khó nghe:
- Chúng mày là ai? Làm gì ở đây?
- Thưa cha xứ, con là Bernadette Soubirous, tiếng cô gái nhỏ lắp bắp, lạc giọng vì run sợ hết hồn. Linh mục chánh xứ cười chế nhạo và quay bước vào nhà xứ với những bước dài. Bernadette lẽo đẽo theo sau. Bỗng dưng linh mục quay phắt lại mặt đỏ vì giận dữ.
- Mày là đứa vô lại không chút xấu hổ. Bày đặt những truyện hoang đường, những trò nực cười đó làm chi? Bernadette không trả lời. Cha xứ tiếp:
- Muốn gì , nói đi?
- Bà lạ bảo con. Bernadette nghẹn ngào đầy nước mắt.
- Bảo gì, bà lạ nào?
- Bà khách lạ đẹp lắm, con gặp ở cửa hang Massabielle.
- Mày có quen biết bà ta không? Bà ấy có phải là dân Lộ Đức không?
- Thưa cha không, bà ấy không phải là dân Lộ Đức, trước đây con chẳng gặp bà ta bao giờ.
- Mày đã hỏi tên bà ấy chưa?
- Thưa cha xứ, con đã hỏi, nhưng bà không trả lời.
- Bà ta nói gì với mày?
- Sáng hôm nay bà nói hãy tới các linh mục và bảo họ xây dựng một ngôi thánh đường ở đây.
Bernadette trao xong sứ điệp của bà khách lạ cho các linh mục, tuy nói vội vàng hấp tấp chẳng ra hơi, nhưng lòng cô gái nhẹ nhõm. Vì đã làm xong nhiệm vụ là trao thông điệp cho cha quản nhiệm. Ông vốn là người khó gặp. Linh mục Peyramale nhìn Bernadette bằng đôi mắt ghét bỏ nẩy lửa. Giọng ông như sấm sét.
- Mày có tiền xây nhà nguyện không?
- Thưa cha không. Con chẳng có xu nào!
- Vậy thì bảo bà khách lạ tốt hơn nên cung cấp ngân khoản trước để xây nhà nguyện.
- Thưa cha xứ vâng, con sẽ nói với bà lần gặp tới. Cô gái ngây thơ trả lời.
Linh mục Peyramale nhìn thẳng vào cô bé. Ngạc nhiên về tính chân chất của em bé nhà quê, ăn vận đơn sơ mộc mạc mà người ta đồn thổi được xem thấy thị kiến. Linh mục cất tiếng kiêu căng, thách thức:
- Nói với bà ta rằng linh mục chánh xứ không muốn có bà nào leo lên cửa hang chân trần, đứng trên tảng đá cao, truyền lệnh cho một đứa con nít chưa xưng tội rước lễ lần đầu. Cha xứ yêu cầu bà để cho ngài yên. Mày có nghe rõ không?
Bernadette sợ hãi gật đầu nhưng muốn té xỉu.
- Mày có trông thấy cái chổi kia không? Linh mục hạt trưởng vẫn còn quát mắng. Tao sẽ quét mày ra khỏi nhà xứ. Nếu còn đến quấy rầy.
Vừa khóc, Bernadette vừa lao ra khỏi phòng khách nhà xứ.
Cha quản hạt gặp phải ngày xấu hôm nay. Sáu bụi hồng lâu năm nhất đã chết khô. Sự mất mát to lớn đối với tính nết trưởng giả. Ông ngẫm nghĩ lại cách đối xử thô bạo với Bernadette Soubirous hồi nãy. Ông hối hận, phải, cô gái có lẽ là tên lừa đảo thực sự, nhưng chỉ là dụng cụ của nhóm bà Millet. Khi con bé chạy ra khỏi nhà xứ mếu máo khóc, ông mềm lòng, nẩy ra ý tưởng gọi lại cho cái ảnh vẩy để an ủi. Nhưng chỉ Chúa mới biết lòng tử tế của ông đi đến đâu. Bởi ông tưởng mình đã rõ tính xảo quyệt của nhóm ngươì bày đặt đến từng chi tiết.
Tuy nhiên, qua Bernadette, bà lạ đã gây ấn tượng mạnh mẽ vào đầu óc cha chánh xứ. Bà đã thành công ngự trị tâm trí ông. Ông liên tưởng đến các cuộc hiện ra trước đây trong qúa khứ, và đã được giáo quyền chuẩn nhận. Cha chánh xứ khó chịu khi cảm thấy lời cô bé phù thủy vụng về ấp úng đã gần như lay chuyển được mình? Biết đâu ông lầm. Và Đức Nữ Đồng Trinh Maria thực sự đã xuất hiện ở hang Massabielle?
Trong khi đó, cách xa vài chục mét, Bernadette còn ấm ức đứng khóc. Bỗng cô gái sực nhớ còn điều chi thiếu sót. Phần thứ hai của thông điệp chưa được chuyển giao: “Hãy có những cuộc rước kiệu từ nơi ấy”. Theo quyết định của Dì Bernarde thì phần đó không quan trọng. Cha chánh xứ đã khước từ điều kiện để có các cuộc rước, tức là ngôi nhà nguyện, thì cần gì phải trao phần thứ hai? Nhưng đầu óc Bernadette bé nhỏ, không đủ thông minh để lý luận như mẹ đỡ đầu. Bà lạ đòi hỏi các cuộc rước kiệu thì phải làm theo ý bà lạ, không thay đổi. Điều này phải được chuyển đến các linh mục. Nếu không, ngày mai cuộc gặp gỡ chẳng được thoải mái. Bernadette vẫn chịu trách nhiệm với bà lạ, vì chưa làm tròn lời bà.
Phỏng lúc mặt trời xế bóng, cha xứ Peyramale lại ra kiểm tra các bụi hồng lần nữa. Bernadette xuất hiện trước mặt ngài. Cô gái đứng khiêm tốn cúi đầu trông như một cái bị sợ hãi, đôi mắt đen lonh lanh thao láo như con cừu sắp mang đi làm lễ hiến tế:
- Thưa cha xứ, con xin lỗi vì làm phiền ngài chút ít nữa. Vừa nói cô gái vừa run như cầy sấy, con còn quên một điều: “Bà lạ bảo hãy có các cuộc rước kiệu từ nơi ấy”.
Trái với quyết định hồi nãy. Cha chánh xứ lại nổi sùng, để mình rơi vào trạng thái mỉa mai: “Có lẽ bà khách lạ muốn rước kiệu ngày mai phải không?” Bernadette gật đầu chân thật. Rồi kính cẩn nhún chào lễ phép, trong lòng nhẹ nhõm: ta đã trao xong thông điệp. Cô gái hổn hển gần cụt hơi, tính rút lui.
- Gượng đã, cha xứ nói, ta có điều này muốn nói với bà lạ. Người ta đồn là có dây hoa hồng dại mọc gần cửa hang phải không?
- Thưa cha vâng, cô gái xác nhận.
- Vậy thì thế này: Nghe cho rõ kẻo quên, nói với bà ta chính xứ Lộ Đức yêu cầu bà làm một phép lạ nhỏ khiến cây hoa hồng dại trổ ngay bông lúc này, cuối mùa đông. Nếu bà đúng như tin đồn, thì việc đó chẳng khó lắm đâu. Nhắc lại điều ta nói kẻo nữa quên. Bernadette nhắc lại y hệt lời linh mục chánh xứ nhắn gởi bà khách lạ.
Cả thị trấn rì rầm vì lời linh mục Peyramale thách thức bà lạ. Phái tự do tư tưởng và những người xưa nay vẫn không ưa hàng giáo sĩ, coi những lời này của chánh xứ Lộ Đức là lời diễu cợt ướt át. Ngược lại, các tín hữu ngoan đạo hồi hộp vì thách thức của cha xứ xem ra nặng ký. Họ nóng lòng chờ đợi hiệu quả. Nếu bà khách lạ đích thật là Đức Mẹ Đồng Trinh, Nữ Vương Hoa Hồng Văn Côi. Liệu bà có bỏ lỡ cơ hội thực hiện một phép lạ nhỏ để khẳng định mình không? Vào cửa ngõ tháng ba này người ta vẫn có thể giải nghĩa như hiện tượng tự nhiên?
Tất nhiên phép lạ đó không xảy ra, nhưng có một lọai phép lạ khác được thực hiện. Đó là khi tin tức lan đến các làng mạc xa xăm: Người làm nghề đốn rừng, các thợ đẽo đá, các nông dân nghèo khổ ý thức được số phận khổ sai và lạc lòai của mình trên mặt địa cầu này và giống như những kẻ đắm tàu thực sự, nên họ đã khao khát trông thấy sự cứu vớt, tức phép lạ nở hoa giữa tháng hai, trời lạnh như cắt da.
Ngày hôm sau, khi Bernadette tới hang thì chẳng được ơn ngất trí, cô hoàn toàn bình thường như ở nhà. Thế gian đã chen vào giữa bà lạ và cô gái thanh sạch. Tuy nhiên cô nóng lòng trao lại thông điệp của cha xứ cho bà khách lạ: “Cha chánh xứ Lộ Đức yêu cầu bà cung cấp tài chính cho ngài xây thánh đường. Linh mục chánh xứ ước ao bà để cho ngài yên thân. Linh mục hạt trưởng nói bà phải làm cho bụi hồng dưới chân bà nở hoa”.
Bà khách bình tĩnh nghe hết những yêu cầu ương gàn của linh mục chánh xứ Lộ Đức với vẻ kiên nhẫn phi thường. Thỉnh thoảng bà mỉm cười nhẹ nhàng khi thấy Bernadette nói hấp tấp vội vàng. Bà liếc nhìn bụi hoa hồng dại để chứng tỏ bà đã nghe tỏ lời yêu cầu của cha xứ? Thực ra bà tỏ vẻ lo ngại như chính mình cũng bị các thị kiến hành hạ và hãi hùng bao vây. Bởi vì bà luôn luôn mấp máy đôi môi xinh đẹp: “Thống hối”. Bà rùng mình như thể khiếp sợ, mặc dù hôm ấy là ngày đẹp trời. Hai đóa hoa hồng bằng vàng trên mu bàn chân trở nên mờ nhạt, không rõ nét như mọi khi. Lúc bà rút lui, người ta nói rằng gương mặt Bernadette bình thường không chi đổi khác.
Đối với các giáo dân trong thị trấn thì ngày thứ năm hai mươi lăm tháng hai là ngày thử thách phép lạ hoa hồng. Mọi người đổ xô về hang Massabielle từ sáng sớm. Không những nông dân, công nhân, thị dân tò mò mà cả bà Millet, bà Bernarde, gia đình Bouhouhorts, mẹ con Nicolaus, gia đình cậu Sajous và nhiều người khác nữa cứ đinh ninh rằng một biến cố ghê sợ sẽ xảy ra hôm ấy hay sẽ chẳng có biến cố nào xảy ra cả. Họ đứng đầy thung lũng, chờ đợi và thất vọng.
Những cảnh cãi cọ đổ lỗi cho nhau giữa các viên chức thị trấn như công tố viên hòang gia, công an thị trấn, thị trưởng Lộ Đức nổ ra hàng ngày ở quán cà phê “Pháp Quốc” trong những giờ uống rượu trưa và tối. Ông này cáo buộc ông khác về tình hình ngày càng tồi tệ ở hang Massabielle và trong thị xã. Họ đổ cho nhau trách nhiệm mang chính quyền vào vấn đề. Và bởi lẽ, theo luật lệ dân chơi kẻ yếu nhất phải gánh chịu hậu quả. Cho nên mọi giận dữ đổ lên đầu ủy viên công an Jacomet. Ông này đáng thương bởi nếu công việc cứ như thế mãi, chắc chắn ông sẽ bị sa thải. Do đó ngày thứ năm này là ngày quyết định. Ông cảm thấy cay đắng ra lệnh và sợ hãi thất bại. Và như vậy ông chuẩn bị làm con dê tế thần. Ông huy động toàn thể lực lượng cảnh sát Lộ Đức mời thêm đồng đội ở Argelles trợ giúp.
Sáu giờ sáng hôm thứ năm, mười người võ trang đầy đủ diễu hành tới hang Massabielle. Mục tiêu là dùng uy quyền quân sự áp đặt sợ hãi lên bà khách lạ của Bernadette và đồng bọn. Nhưng ông cảnh sát trưởng không dự kiến được rằng con số đám đông lên tới hơn năm ngàn người tứ khắp nơi đổ về. Họ chen lấn, xô đẩy nhau về phía cửa hang. Jacomet ra lệnh lấy dây thừng và cọc gỗ khóa chặt lối vào. Chỉ cho phép cô gái, bác sĩ Dozous, ông Estrade và một số ít nhân vật quan trọng khác bước vào bên trong hàng rào. Jacomet đuổi thẳng chàng thanh niên vạm vỡ Nicolau ra khỏi ranh giới. Anh thợ mộc cố trèo vào lối khác, nhưng không thành công. Tức bực vì thất bại Nicolau quì phập xuống đất xướng một bài ca kính Đức Mẹ. Đám đông đáp lại liền. Họ đồng thanh hát theo đến long trời lở đất. Tiếng hát như sấm sét khiến lệnh của ông Jacomet thay vì làm bà khách lạ sợ hãi, lại giúp bà thành công rực rỡ. Họ hát hết bài này sang bài khác biến cái cổng vòm của cửa hang trở thành nửa vòng tròn theo sợi dây của ông Jacomet. Hàng đầu quì. Hàng sau đứng, ông công an trưởng đã vô tình sửa sọan cho một cuộc biểu diễn ngoạn mục.
Bà lạ chưa bao giờ có dáng vẻ trọng thể như ngày thứ năm hôm nay. Vẻ đẹp kinh hồn của bà đầy nét trang nghiêm, nụ cười mỉm của bà thật quyến rũ, lời chào của bà có phần tự kiềm chế. Nét áo gấp xem ra cứng đơ. Chiếc khăn chùm đầu không bay bay trước gió. Những lọn tóc mai thường khi xòa xuống trán, hôm nay được vén gọn lên dấu vào trong khăn. Bernadette linh cảm có điều chi nghiêm trọng sắp xảy ra. Cô cảm nhận phải cư xử ngoan ngõan. Ngày đầu tiên bà khách lạ làm dấu thánh giá và Bernadette làm theo mẫu của bà. Một thánh giá trang nghiêm và sang trọng vẽ trên khắp thân thể như lần gặp đầu tiên. Rồi bà vời cô gái đến gần. Bernadette leo qua các tảng đá lớn cho tới khi mặt chạm sát bụi hoa hồng dại ở phía dưới cạnh cửa hang. Nếu chẳng có ý kiến của bà khách lạ, Bernadette không dám đến gần cỡ đó. Đầu cô gái chỉ cách chân bà lạ vài gang tay. Với lòng sùng kính sốt sắng cô gục đầu vào bụi gai. Vài giọt máu rướm ra và chảy xuống má. Phía dưới trong đám đông có tiếng nói rì rào khá lớn. Sự khinh thường đau đớn báo trước phép lạ hoa hồng sắp được thực hiện, mọi con mắt nhìn về cửa hang chờ đợi.
Nhưng bà khách lạ có mục đích khác. Hôm nay bà nói rất rõ ràng rành mạch: “Hãy đến mạch nước uống và tắm”. Bernadette nhảy vội xuống mặt đất. Mạch nước ư? Ở đâu? Phải chăng bà lạ muốn nói suối nước chạy máy cưa Savy. Cô bắt đầu đi về hướng con suối Savy. Cô ngoái nhìn lên cửa hang chờ đợi sự chỉ dẫn. Nhưng bà lạ lắc đầu bất nhẫn, à cô gái nghĩ, có phải nước sông Gave? Cô lại đi sang phía sông. Bà lạ gọi lại.
Vậy mạch suối nào đây? Bernadette mở to miệng, ngạc nhiên, quay mặt nhìn về phía cửa hang. Bà khách lạ nhắc lại câu nói liên quan đến mạch nước, uống và tắm nước đó. Để xem ra giúp đỡ cô gái bà nói thêm: “Hãy đi ăn cỏ mà con tìm được ở đó”. Bernadette đưa mắt tìm khắp cửa hang một hồi lâu mới nhận ra cụm cỏ nhỏ, một vài dây leo sơ sác, tiêu điều ở góc bên phải miệng hang. Bernadette làm theo lệnh bà lạ, giựt vài ngọn cỏ, mấy cọng dây leo đắng chát và đưa lên miệng nhai nghiến ngấu, cô cố nuốt trước mặt đám đông đang theo dõi thái độ kỳ quặc của cô gái, tưởng chừng như đã điên.
Nhưng vẫn phải thực hiện lệnh truyền đầu tiên quan trọng hơn: “Đi đến mạch nước, uống và tắm”. Bà lạ nói đến mạch nước cho nên Bernadette tin chắc phải có mạch nào ở đâu đây. Nếu không ở trên cao, thì ở dưới mặt đất. Cô lấy hai bàn tay trần cào bới đất, dúi dúi như một con chuột chù. Khi đã bới được một lỗ nhỏ, to bằng miệng bát uống sữa, thì thấy bùn ướt. Cô gái ngưng bới, nghỉ lấy hơi thì thấy bùn ướt rỉ ra chừng một ly rượu, chỉ đủ để làm ướt môi và mặt. Dĩ nhiên lệnh của bà là “uống và tắm” chỉ có ý nghĩa tượng trưng với ngần ấy nước. Bất cứ người nào cũng hiểu như vậy. Nghĩa là hành động theo kiểu đó. Tuy nhiên, trong thế giới của gia đình Soubirous, mọi sự đều hiểu theo nghĩa đen của lời nói hay chữ nghĩa, cho nên Benadette buộc phải thực sự uống và tắm.
Cô gái đào sâu hơn chút nữa, nước thấm ra nhiều, được một vũng nhỏ. Cô lấy hai lòng bàn tay vực lên một vực nước lẫn bùn bôi lên mặt. Một vực nữa cũng bùn và nước đưa lên miệng uống. Mặt cô gái nhăn nhó vì ngụm nước bẩn, cô cảm thấy buồn nôn và trước mặt năm ngàn người đứng ngắm để xem phép lạ hoa hồng nở thì cô mửa nước ra ngoài. Bà Louise và hai người dì nữa chạy vội đến cứu giúp. Người ta múc nước từ con suối gần đấy rửa sạch mặt mũi, chân tay quần áo cho Bernadette, cô gái kiệt hết sức lực để cảm nhận xấu hổ. Cô quá yếu đến độ chẳng ý thức được bà lạ bỏ đi từ lúc nào.
Trên thực tế, đám đông được chứng kiến những gì? Trước nhất Bernadette dúi đầu vào bụi gai, hôn lên bụi gai một cách khốn khổ, việc làm này đã khiến đám đông bị kích động mạnh, đã có những tiếng ồn ào ở dưới đám đông, nghi ngờ cô gái điên dại. Rồi cô ta bối rối không biết phải quay hướng nào, những cái liếc nhìn lên hang đầy vẻ nghi ngờ. Cuối cùng cô ta bò đến một góc hang, dứt cỏ nhai, cào bới đất, lấy bùn bôi lem mặt, uống nước bùn, rồi mửa ra. Gia đình phải chạy lên cứu giúp cô gái vấy bẩn. Những hành vi như vậy chứng tỏ Bernadette đã mất trí, trở nên điên khùng. Những cảnh tượng khó coi như vậy, làm sao gọi được là phép lạ? Toàn thể thung lũng dày đặc con người ta, yên lặng đền mức nín thở, cho đến khi bà mẹ và hai cô dì tiến lên đưa đứa bé kiệt sức về chỗ cũ. Tòan bộ đám đông phá lên cười chế nhạo, không phải cô bé Bernadette ngớ ngẩn, mà vì cả tin đến ngu xuẩn của mình, hàng mấy ngàn người đã hi vọng Massabielle Lộ Đức sẽ có hiện tượng nào đó mang ý nghĩa cho cuộc sống lam lũ và cho đức tin của họ nên hữu lý. Nhưng phép lạ hoa hồng đã không xảy ra. Thực tế bầu trời vẫn xám xịt, cửa hang đen ngòm trong thời tiết băng giá cuối đông. Rõ ràng cô bé Bernadette chỉ là một cô gái nghèo nàn, ốm yếu bây giờ trở nên điên khùng. Bà lạ chẳng qua là sản phẩm của một bộ óc non nớt bệnh hoạn. Như vậy linh mục chánh xứ và cảnh sát có lý hơn. Họ là những con người thần kinh mạnh khỏe và cân bằng, cho nên tuân theo chỉ dẫn của họ là an toàn.
Ông công an trưởng Jacomet nắm ngay lấy cơ hội. Ông chọn nơi cao nhất làm diễn đàn và cất to lời khuyến dụ chính thức của chức vụ ông:
- Thưa đồng bào, chính mắt quí đồng bào chứng kiến cô bé đáng thương con nhà Soubirous làm trò cười trước cửa hang. Nó chỉ là đứa trẻ mắc bệnh tâm thần. Chẳng bao lâu nữa nó sẽ được đưa vào nhà thương điên. Chỗ đó thích hợp cho nó. Dịch vụ bà khách lạ đến đây là chấm dứt. Xin ai nấy trở về nhà mình an toàn. Bà ta đã cư xử quá đáng khi làm cho quí ông bà bỏ công ăn việc làm để đến đây chứng kiến những việc điên rồ. Quí vị mất thời giờ, tiền bạc vô ích. Vậy một lần nữa tôi đề nghị quí ông bà cô bác trở về nhà với các công việc nghề nghiệp hàng ngày. Quí ông bà cô bác đã chẳng xem thấy phép lạ trong ngày Chúa Nhật, cũng không có phép lạ trong ngày thường. Vậy chẳng ngày nào xảy ra việc phi thường ở đây nữa, tòan thể thị trấn chúng ta sẽ có bình an trật tự.
Đám đông bắt đầu giải tán, ai về nhà nấy. Một số tự khoe khoang đã biết toàn bộ sự thật từ lâu. Nó chỉ là trò chơi tinh quái của một số người thích đùa dai. Số khác giữ im lặng bán tín bán nghi, vì lẽ khó nuốt trôi nỗi thất vọng quá lớn. Riêng bà Millet khóc ròng, bác sỹ Dozous và ông quan thuế Estrade lững thững trở về thị trấn bằng đôi chân đi bộ. Cuối cùng khi ngang qua xưởng cưa Savy, ông Estrade mở miệng nói: “Tệ thật, loại người học thức như chúng mình mà vẫn còn ngây ngô, bị tâm lý đám đông xỏ mũi”.
Khách khứa tuôn đến ngôi nhà Cachôt suốt cả ngày, người ngồi trên giường, kẻ trên ghế, kẻ khác trên bàn, ngay cả trên sàn nhà lạnh buốt, nhưng chẳng còn ai thốt ra lời. “Chị hạnh phúc biết bao, có một đứa trẻ như thế”. Hay: “Ai có khả năng mơ thấy một thiên thần xuất phát từ cái nhà tù cũ?” Hôm nay khách khứa đều nhìn cô với vẻ trách móc. Tuy nhiên nét bình thản của Bernadette làm cho mọi người ngỡ ngàng. Ngày thứ hai vừa qua bà khách lạ vắng mặt làm cho cô gái quê mùa ngất đi như chết vì thất vọng. Nhưng hôm nay cô bé tuy chịu đựng thất sủng trước năm ngàn người, lại rất bình an.
Antoinette Peyret vừa bước vào nhà đã tấn công Bernadette liền: “Con nỡm, sao mày hành động như vậy? Ăn cỏ, uống nước bùn, rồi mửa ra?”
Bernadette thản nhiên trả lời: “Bà lạ bảo em đến mạch nước, uống và tắm. Không có mạch nước nào chung quanh nên em phải đào mặt đất và tìm thấy ít nước nên em uống. Nhưng nước đó lẫn cát”.
Cô thợ may tức giận nói lớn: “Xin mọi người lắng tai nghe. Con bé ương gàn này thuyết phục chúng ta là Mẹ Thiên Chúa dạy bảo chúng ta cư xử như giống vật”.
Bernadette trả lời: “Thưa cô những điều cô nói chẳng thật đâu. Em không biết bà đó là ai. Bà không nói em phải ăn bùn, nhưng là uống và tắm từ mạch nuớc”.
Cậu Sajou hắng giọng chêm vào: “Mạch nước ư? Làm gì có mạch nước nào ở đó? Bà ta dối trá.”
Đôi mắt Bernadette long lanh. “Bà khách lạ không dối trá”.
Ông thợ vá giầy nói thêm: “Bất cứ đứa trẻ nào trong vùng này đều biết mạch nước chảy từ trên núi xuống, chứ làm gì có mạch nước chảy từ dưới lên?”
Bernadette cảm thấy không cần tranh cãi, bà khách lạ là thực sự như người ta. Tuy nhiên qua tính tình đơn sơ chất phác của mình cô bé có thể cho mọi người thấy quả bà lạ là một con người đích thật, chứ không phải chỉ là mơ mộng. Xem ra cô gái chẳng quan tâm đến việc có hay không mạch nước. Diện mạo cô tươi tỉnh mạnh bạo ngay cả trong những giây phút bất lợi to lớn này. Bà Louise bắt đầu tin chắc rằng Đức Mẹ Đồng Trinh Maria đã hiện ra cùng con bé. Đáng ngạc nhiên hơn là ông Francois cũng lên tiếng: “Tôi chẳng thể bảo rằng con gái tôi hâm mát. Nhưng tôi dám chắc rằng nó không giả vờ để lừa dối ai”. Gian phòng này không có nhiều không khí cho mọi người thở đủ. Vậy tôi xin quí ông bà và bạn hữu giải tán là vừa.
Các khách không mời mà đến từ từ bỏ ra về, chẳng ai cảm thấy xúc phạm vì lời nói của ông Francois. Người cuối cùng là ông thợ đẽo đá đã về hưu. Tên ông là Bouriette, bây giờ đang giúp việc ở bưu điện. Mắt phải của ông ta gần như mù hẳn. Mắt trái đã kéo màng. Ông chỉ còn trông thấy lờ mờ. Trên đường từ nhà ông Soubirous trở về, ông nảy ra ý nghĩ, giống như mọi người chịu bệnh hiểm nghèo khác, ông nghĩ có bệnh thì vái bốn phương. Còn nước còn tát. Vừa khi về tới nhà, ông gặp con gái, ông hỏi con: “Mày có năng ra hang Massabielle với Bernadette không? Nó bảo xem thấy bà khách lạ”.
- Thưa ba có, con đã ra đấy ba lần rồi. Có chi không ba?
- Con hãy nghe ba đây. Đi hỏi mẹ cho con một miếng vải to bằng cái khăn tay ấy?
- Để chi hả ba?
- Ra hang bốc cho ba một nắm đất ướt mà Bernadette đã bới lên. Gói vào khăn và mang về cho ba ở nhà bưu điện. Con biết không?
Nửa giờ sau, Bourielle ẩn mình vào trong chuồng ngựa của ông Cazenave, hai tay xiết chặt chiếc khăn đầy bùn ướt mà Bernadette đã đào lên, vào mắt phải và ở lại trong chuồng ngựa cho đến khi chuông nhà thờ thánh Phê-rô đổ hai giờ chiều.
Cuối cùng ông loạng choạng bước ra ngoài ánh sáng. Bỗng ông giật lùi lại vì ánh sáng nhiều quá làm ông chói mắt. Ông nhắm mắt trái lại để thử nhìn bằng mắt phải. Sức nhìn xám đen của mắt phải trở nên tỏ rõ hơn. Ông có thể xem thấy nét chính của các đồ vật chung quanh. Quá xúc động vì khám phá mới, ông chạy băng qua quảng trưởng đến nhà bác sĩ Dozous, phòng đợi của bác sĩ đầy những người. Không kịp gõ cửa ông phóng thẳng vào phòng khám.
- Trở lại đợi cho tới phiên anh. Bác sĩ Dozous bực mình nói.
- Tôi chẳng thể đợi được, Bouriette đứng bên cạnh bác sĩ hốt hỏang nói. Tôi đã trông thấy bằng mắt phải. Tôi chỉnh nó bằng đất bùn lấy ở hang Massabielle. Tôi có thể nhìn rõ được rồi. Phép lạ!
- Đừng quá hồ đồ. Bác sĩ rống lên. Nhưng ông ta đứng dậy, đi ra khép các cửa sổ lại, thắp chiếc đèn dầu, lấy kính phản chiếu soi vào chiếc mắt phải của Bouriette.
- Bốn vết sẹo ở giác mạc. Võng mạc lồi lên một chút. Hôm nay khá hơn chứ?
- Thưa bác sĩ, tốt hơn nhiều, nó giống như mảng mây sáng.
- Có lẽ nhờ ép mạnh con ngươi lâu quá và đã kích thích dây thần kinh thị giác họat động trở lại. Bác sĩ Dozous vừa treo dụng cụ khám mắt lên tường vừa nhận xét.
- Ông Bouriette có thể đọc mấy dòng chữ đàng kia được chứ?
- Thưa bác sĩ không.
- Bằng mắt bên trái?
- Thưa không
- Bằng cả hai mắt?
- Thưa không. Tôi đâu biết chữ.
Bác sĩ Dozous lại ra vén các màn cửa sổ.
- Ngày mai trở lại, khi ông bình tĩnh hơn chút đã.
- Phép lạ mà, cũng vậy thôi. Ông Bouriette lẩm bẩm bước ra khỏi văn phòng bác sĩ Dozous.
Vào ngày thứ sáu, đám đông thưa thớt vì quang cảnh hôm qua. Bernadette vui mừng về tình hình đó. Cô linh cảm ngày hôm nay bà khách không tới, nhưng không vì vậy mà cô gái bị dằn vặt khi nghĩ đến biến cố bà bỏ rơi mình. Bà không đến có lẽ vì mệt mỏi, bị nhức đầu chẳng hạn. Đó là căn bệnh thường xuyên của các mệnh phụ. Bernadette lần hạt, rồi đứng dậy quay về phía đám đông đang quì. Cô mỉm cười nói: “Hôm nay bà khách không đến. Câu truyện hôm qua chắc làm bà mệt lắm”. Đó là một trong rất ít lời Bernadette nhận xét về bà lạ. Nó có sức mạnh làm cho nhân vật vô hình trở thành hữu hình cho đám đông một cách rất cụ thể. Những ai đã từng nghe cô bé nói không hề hồ nghi sự chân thật của cô gái quê mùa chất phác nhà Soubirous. Nhiều người đàn bà hiện diện không cầm nổi nước mắt. Họ chuyền nhau lời cô bé. Nhưng chẳng người nào lưu tâm đến đám bùn ướt ở phía góc phải của cái hang đá.
Mảng mây sáng trong mắt ông Bouriette biến mất, tuy nhiên đám mây nhẹ vẫn còn. Qua nó ông có thể trông thấy các sự vật khá rõ ràng. Khoảng 3 giờ chiều thứ sáu, ông lại đi ra hang Massabielle kiếm thêm một túi đất ướt mới. Ở trước cửa hang ông thấy một nhóm đàn bà đang cúi xuống nhìn một dòng nước nhỏ:
- Chúng tôi đang lần hạt, một bà giải thích, thì thấy nước bỗng dưng chảy ra.
- Lạy Chúa, trông giống như mạch nước tự nhiên. Ông Bouriette kêu lên.
Nói rồi ông chạy thẳng về xưởng cưa Savy mách Antoine Nicolau. Anh chủ xưởng cưa rất thành thạo về việc khai nước nguồn. Anh còn có khả năng ngăn cả con suối cho máy cưa của mình, chèo thuyền, xây hồ hứng nước mạch v.v... Nicolau vội vã chạy ra hang Massabielle cúi nhìn mạch nước mới, dò cho tới nguồn gốc. Anh tuyên bố: “Nếu Bernadette nói chi, thì có thật như vậy. Nguồn nước này chảy thẳng từ quả núi ra”. Sau mấy phút bàn bạc Nicolau và Bouriette đi tới đoạn đường cái dẫn từ Tarbès đến. Các công nhân đang lát đá con lộ công cộng. Họ là những bạn cũ của Bouriette. Đồng lòng biết ơn Đức Maria Đồng Trinh đã chữa đồng nghiệp cũ khỏi mắt. Họ vui mừng giúp đỡ một tay. Sau giờ làm việc công, họ khuân vác dụng cụ đến Massabielle sửa chữa lối đi nguy hiểm từ cửa hang xuống và dựng hàng tay vịn bên cạnh.
Trước lúc mặt trời lặn hẳn, Nicolau đã nhắn về nhà mang đuốc đến hang. Anh trổ hết khả năng làm việc. Công việc chỉ phải nương theo đường dốc vài bước vào trong núi, bỗng dưng một mạch nước to bằng cổ tay đứa bé vọt ra và nhanh chóng làm đầy vũng cạn. Các thợ làm đường xây một cái bể tròn bằng các viên đá cũ. Nước từ từ chảy vào, dâng lên tới miệng, trong và lành. Mọi người vội vàng uống no. Nicolau và Bouriette kiếm những cái máng gỗ dẫn nước dư đi ra suối. Công việc còn đang dở dang thì Antoine đột ngột chạy về Cachot (hai cây số) báo tin vui thắng lợi cho Bernadette.
Mặc dầu giáo quyền không chấp nhận sự xuất hiện của mạch nước cũng như bà khách lạ. Nhưng dân chúng khắp vùng cứ coi như vậy. Các đoàn giáo dân hành hương đông tới hàng ngàn người một lúc kéo về Massabielle cầu khẩn, làm tròn lời bà khách lạ là có các cuộc rước kiệu từ chốn này. Những người to gan kết án Bernadette là điên khùng, thì bây giờ tranh nhau tuyên xưng đức tin của mình vào cô bé gái. Antoinette Peyret đến quì trước cửa nhà Cachôt mỗi buổi sáng. Jeanne Abadie, cô gái đã ném viên đá đầu tiên vào Bernadette, cố gắng hôn tay bạn mà ít khi thành công. Những linh hồn khác xin Bernadette giơ tay sờ đến các cỗ tràng hạt của họ. Nhưng Bernadette giận dữ từ chối.
Trên thực tế, Bernadette đã làm một phép lạ khác, to lớn hơn việc khám phá ra mạch suối: Một cách nào đó, cô đã chuyển thông cho những cuộc đời tan nát rằng sự an ủi, thương cảm đã từng bao bọc toàn thân cô, bất cứ lúc nào cô xem thấy bà lạ, cũng là chung cho toàn thể loài người. Từ trường hợp của Bernadette họ cảm nhận ra rằng, vượt qua các nghi lễ của giáo hội, là một thưc tại cụ thể gần như sờ mó được ơn lành của kiếp nghèo khổ. Người ta chẳng phải kéo lê nghèo khổ và thương đau từ kiếp này sang kiếp khác, từ lúc sinh ra vô nghĩa đến giờ chết cũng vô nghĩa không kém. Sáng này sang sáng khác bà lạ xuất hiện chứng minh rất rõ cho họ rằng còn có những trạng thái sinh tồn khác ngoài kiếp sống hiện thời đầy đau khổ và nước mắt. Tinh thần lạc quan phấn khởi, trong việc làm khó nhọc để kiếm kế sinh nhai, đã có tiếng hò reo vui đùa. Tiếng vang từ Lộ Đức đã lan ra mọi miền nước pháp. Báo chí, công chức, các học giả, vị vọng giáo hội, dân thường ở các quán rượu, cà phê đều đồng lọat nhập cuộc. Họ bàn tán, tranh luận, cãi cọ về biến cố khác thường này. Các buổi hiện ra ở Lộ Đức thực sự đã trở nên đề tài quốc gia có phần quan trọng hàng đầu.
Tháng ba bắt đầu. Còn bốn lần gặp gỡ nữa. Bernadette bấm đốt ngón tay ngẫm nghĩ và mười lăm ngày sẽ chấm dứt. Cô gái bị xâu xé tan nát tâm lòng giữa một bên là thần chết, bên khác là hy vọng hạnh phúc vô bờ được gặp mặt bà khách lạ mà cô yêu mến hết tình. Tại sao lại không được xem thấy bà khách mãi suốt đời? Tại sao bà không lớn lên, già đi với Bernadette ở hang Massabielle? Cuộc đời Bernadette có thể tiếp tục mà chẳng có tình yêu lạ lùng này không? Cô gái bé nhỏ bám víu từng ngày từng giờ trôi đi nhanh chóng vào ơn thánh. Mỗi buổi sáng ở hang cô đều khẩn nài: “Xin bà ở lại lâu hơn nữa hôm nay”. Nhưng sự hiện diện của bà ngày một ngắn đi.
Buổi sáng này qua đi, buổi sáng khác lại tới, đám đông ngày càng nhiều nhìn ngắm cô gái vâng theo mệnh lệnh của bà khách lạ một cách say sưa, đầu tiên là tắm ở mạch nước, rồi uống nước mạch. Và cũng khá lạ lùng là chẳng ai có ý kiến sử dụng con suối mới. Họ chỉ đơn giản nghĩ nó là câu trả lời của bà khách lạ cho yêu cầu của linh mục chánh xứ Lộ-Đức về phép lạ hoa hồng. Không một người nào nảy ra ý tưởng bà lạ ban mạch suối cho mọi người để dùng vào việc thực tế. Và cũng chẳng ai cảm nhận được rằng bà lạ lặp đi lặp lại mệnh lệnh tắm và uống nước mạch để dẫn dắt người ta đi theo con đường hữu ích. Tức bắt chước cô gái nghèo hèn nhà Soubirous. Về phần Bernadette tâm trí không hề quan tâm đến thế giới bên ngòai. Do đó chẳng hề suy nghĩ về bản chất và mục tiêu của nguồn suối mới cô đã khơi ra.