Trời đã khuya. Thầy Piô đã cầu nguyện lâu giờ và đó là ngày thầy mệt mỏi một cách bất thường. Thầy ngả mình xuống giường một cách mệt nhọc, nhắm nghiền đôi mắt và thiếp vào giấc ngủ. Nếu có ai mở cửa, có lẽ thầy cũng chẳng biết.
Một tiếng nói chế nhạo, “Coi kìa, vị thánh ngủ như chết!”
Ngay lập tức Thầy Piô mở choàng mắt ra và ngẩng đầu dậy. Trong bóng tối, một khuôn mặt to lớn, đe dọa đang lơ lửng trên không. Thầy nín thở, cố để nhận diện.
Bỗng dưng có hai cánh tay vung lên, kéo thầy ra khỏi giường và quăng thầy vào tường nhanh đến nỗi thầy không kịp phản ứng gì cả. Sự đau đớn lan nhanh qua thân thể khi có cái gì liên tục đập vào người. Thầy quỵ xuống và ngã úp mặt xuống sàn.
Mãi một lúc sau thầy mới cố gắng lết được lên giường. Thầy đưa tay sờ đến những vết thương và nhăn nhó vì đau đớn. Một vài giọt máu rỉ ra từ gò má xuống hàm râu. Thầy hít một hơi dài để lấy lại sức mạnh và đi đến bồn rửa mặt.
Thầy không muốn ai nhìn thấy mình. Điều đó có nghĩa gì? Thầy biết mình không có ai là kẻ thù, ngoại trừ ma quỷ và tay sai của nó. Dĩ nhiên không ai trong tu viện lại làm như thế và người ở ngoài lại càng không có lý do.
Vừa mới hồi phục tàm tạm khỏi cơn bệnh lúc trước, Thầy Piô đang ở tu viện Montefusco, là trung tâm y khoa nổi tiếng từ năm 1625. Tu viện này được xây cất ở ngoại ô thành phố, bao quanh bởi các cây ăn trái và đầy dẫy những tàng lá.
Một thầy cùng lớp, Joseph Orlandi nói với một thầy khác, “Thấy ấy thật yếu.”
Họ nhìn Thầy Piô khập khễnh và chậm chạp bước đến nhà nguyện. Khuôn mặt thầy xám ngắt và thân thể co giật theo từng cơn ho rũ rượi.
Một thầy nói, “Nếu bạn hỏi thì tôi tin chắc rằng thầy ấy còn đang đau.”
“Bạn có nghĩ là bọn mình sẽ bị lây không?”
“Đương nhiên là có, nhưng tôi không muốn khuấy động... Các bạn nghĩ là bao nhiêu vi trùng tụi mình dính phải khi treo chung quần áo với thầy ấy?” Thầy kia nhìn sợ hãi.
Thầy Orlandi nói, “Này, tại sao chúng mình không treo quần áo riêng ra một nơi?”
Những thầy kia đồng ý, và tối hôm đó trên đường dự Thánh Lễ họ đã bao quanh cha giám đốc.
“Các con xin cái gì?”
Các thầy nói “Một phòng treo quần áo riêng. Thưa Cha, nếu không quan trọng thì chúng con đã không xin như thế.”
Một cách do dự, lời thỉnh cầu đã được chấp nhận. Tối hôm ấy, Thầy Piô mở tủ để tìm quần áo và đồ dùng cá nhân. Thầy ngơ ngác giây lát, và đã hiểu.
Thầy tự nhủ, tôi hiểu, và lầm lũi suy nghĩ thêm về điều ấy. Họ không muốn lây bệnh. Cổ thầy như nghẹn lại, và dàn dụa nước mắt.
Càng ngày thầy càng trầm ngâm suy tưởng. Thầy quỳ gối để học thần học, tâm trí thầy như lạc vào sự bí nhiệm của những điều học hỏi. Đối với thầy, thần học thực sự là một suy tư không chỉ của tâm trí mà còn của tâm hồn và cảm xúc.
Vào tháng Mười Hai 1908, Thầy Piô được nhận chức bốn ở Thánh Đường Benevento bởi Đức GM Bonazzi. Thầy cũng nhận chức năm từ Đức GM Paolo Schinosi, là Tổng Giám Mục của Marcinaopoli. Năm 1909 thầy nhận chức sáu từ Đức GM Benedetto của Termopoli. Khi Thầy Piô nhận chức sau cùng trước khi làm linh mục, một cha viện trưởng đã tiên đoán thầy sẽ là một trong những ngôi sao sáng của Giáo Hội.
“Thầy Piô, thầy dậy chưa?” mẹ thầy cất tiếng hỏi. Đó là ngày trước khi thụ phong linh mục, và họ phải đến Thánh Đường Benevento.
Thầy Piô ngồi trên giường, mắt mở lớn. “Làm sao con có thể ngủ khi tim con rộn rã niềm vui?”
Thầy không dám nghĩ là buổi sáng hôm ấy sẽ đến, nhưng đó là sự thật và đó là ngày vui nhất trong đời thầy. Thật náo nức, thầy nói nhanh hơn thường lệ và tâm trí thầy chỉ nghĩ đến buổi lễ.
Đó là ngày 10 tháng Tám 1910, và Thầy Piô được hai mươi ba tuổi. Mặc dù nhiều năm đau yếu đã để lại vết tích nhưng dường như thầy trẻ hơn số tuổi thật.
Thánh Đường Benevento chật ních khi Đức GM Paul Schinose tấn phong chức linh mục cho Thầy Piô và mười thầy khác. Các thầy phủ phục trên sàn đá của cung thánh như một dấu hiệu của sự bất xứng và nài xin Thiên Chúa trợ giúp. Kinh cầu Các Thánh được cất lên.
Mắt Thầy Piô sáng ngời. Thầy liếc nhìn xuống chỗ gia đình ngồi. Anh Michael đã lấy vợ; em Pellegrina bây giờ là thiếu nữ mười tám thon gầy, hơi đen; em Grazia, cao dong dỏng, đã mười sáu; và chị Felicia, lùn hơn và khoẻ mạnh hơn đã hai mươi bốn tuổi. Bố Orazio đang ở Hoa Kỳ nên vắng mặt. Nhưng có mẹ thầy ở đó, ngồi cạnh các cô con gái, tất cả đều ăn mặc đặc biệt. Thầy Piô nhìn họ và thương cảm biết chừng nào.
Các thầy đứng dậy, và đức giám mục bắt đầu giảng dạy, nhắc nhở họ về bổn phận căn bản của linh mục. Sau đó là nghi thức đặt tay. Tất cả các linh mục trên cung thánh cùng với giám mục thi hành cử chỉ này. Chính vào giây phút đó, các thầy trở thành linh mục. Thầy Piô bây giờ là Padre (Cha) Piô, và cùng với đức giám mục cử hành Thánh Lễ.
Bà Giuseppa, anh Michael và vợ, và ba cô gái tiến đến cung thánh để nhận phép lành đầu tiên từ tay Cha Piô. Bà Giuseppa không ngăn được nước mắt. Bà thầm ước, phải chi ông Orazio cũng có mặt ở đây.
Sau thánh lễ là tiệc mừng các tân linh mục trong phòng hội của nhà xứ. Đến buổi chiều, các bà trong xứ lại có những món ăn đặc biệt để cống hiến các tân linh mục và gia đình.
Tối hôm đó, Cha Piô và gia đình trở về nhà ở Pietrelcina. Mọi người đều mệt mỏi nhưng vì phấn khởi nên không sao ngủ được, họ cười đùa suốt trên quãng đường dài.
Theo thông lệ, Cha Piô sẽ cử hành thánh lễ mở tay tại giáo xứ nhà, đó là nhà thờ Đức Mẹ Các Thiên Thần. Đó cũng là một ngày quan trọng đối với cha, nhất là vì người đã được rửa tội ở đây.
Vài ngày sau, vào hôm Chúa Nhật, cha cử hành Thánh Lễ trọng thể. Dân chúng ở quanh đó từng nghe biết về sự chuyên tâm cầu nguyện và suy niệm của người nên họ đã tuốn đến chật cả nhà thờ. Dường như mọi người nông dân trong làng đều có mặt, nhiều người còn nhớ đến cậu con trai nhỏ bé, ít nói và nhậy cảm thường đem nước cho họ uống.
Không lâu sau đó, từ Hoa Kỳ ông Orazio trở về Pietrelcina. Ông rất hãnh diện về Cha Piô và sự sung sướng bù lại cho những năm cô đơn ở Hoa Kỳ.
Nhưng Cha Piô vẫn còn ho nhiều.
Ông Orazio hỏi Bs. Cardone, “Có thể làm gì cho Cha Piô không? Những người hàng xóm nói rằng chắc chắn là cha bị ho lao.”
Bs. Cardone tư lự trong giây lát, rồi cầm tay ông Orazio nói, “Có lẽ vậy, nhưng tôi không tin như thế. Tôi đã thử nghiệm nhiều lần và kết quả luôn luôn giống nhau--không có gì. Nhưng nếu ông muốn, hãy đưa người lên Naples để Bs. Peter Castellino xem thử. Ông ấy rất giỏi và tôi tin tưởng ở sự chẩn bệnh của ông ấy.”
Ông Orazio nghe theo lời khuyên và đưa Cha Piô lên Naples vào ngày hôm sau. Nhưng Bs. Castellino cũng bác bỏ ý tưởng bệnh ho lao. Thay vào đó, ông xác nhận vì sưng cuống phổi nên người dễ bị đau yếu.
Bà Giuseppa nói với Cha Piô, “Con phải làm việc từ từ thôi.”
Vị linh mục trẻ tuổi lắc đầu và mỉm cười với bà mẹ đang lo âu. “Nếu con lo lắng như mẹ thì không còn thì giờ để làm bổn phận.”
Khi trở lại dòng, Cha Piô đã dừng chân ở tu viện Vanefro trong bốn mươi ngày để tĩnh dưỡng.
Ở đó, người lại ăn chay hãm mình trong hai mươi mốt ngày, chỉ rước Mình Thánh Chúa mà thôi.
Cha bề trên nói, “Cha phải ăn,” và sau cùng người phải ra lệnh.
Cha Piô trả lời, “Xin cha đừng ép con. Con không thể ăn được.”
Vị bề trên cương quyết “Cha phải ăn.” Và chỉ trong vòng vài phút, Cha Piô đã ói mửa tất cả những gì người cố ăn vào.
Không như những lần trước, lần này người không bị sút cân và đó là điều bí ẩn đối với mọi người. Ngay cả cha mẹ ruột của người cũng không biết gì về việc người ăn chay.
Ông Orazio lại trở về từ Hoa Kỳ, và cả hai ông bà đều mỉm cười mãn nguyện khi gặp con của họ. Bây giờ Cha Piô cao lớn và khoẻ mạnh trong bộ áo nâu, và mắt người rạng rỡ trên khuôn mặt xinh tươi. người trông vẫn còn gầy nhưng không như trước.
Ông Orazio nói, “Francis, trông con khoẻ mạnh lắm.”
Bà Giuseppe gật đầu sung sướng, và Cha Piô im lặng lắng nghe cha mẹ kinh ngạc về sức khoẻ của mình.
Nhưng tệ hại hơn mọi người tưởng, sức khoẻ của cha từ từ sa sút. Một lần nữa người lại phải trở về Pietrelcina.
Bs. Andrea Cardone, vị bác sĩ của gia đình cho biết, “Mỗi lần người trở về, người lại yếu hơn trước. Nhưng một khi đứng dậy được, người lại đến nhà thờ để cầu nguyện và xem lễ.”
Vào một ngày Chúa Nhật, cha bắt gặp hai phụ nữ trong làng đang ngồi giặt quần áo trước cửa. Người nhăn mặt nói với họ, “Chúa Nhật là ngày của Chúa, ngày để cầu nguyện... để suy niệm.”
Họ trừng trừng nhìn người. Lẽ ra cha đã dành thời giờ để giảng dạy thêm cho họ, nhưng vì là mùa Phục Sinh và hôm nay người phải vội vã đến nhà thờ để dạy trẻ em hát thánh ca cho ngày Thứ Sáu Tuần Thánh.
Sau đó, người cùng đi bách bộ với Cha Don Salvatore Panullo, vị linh mục trong giáo xứ cũng là bạn và cố vấn cho người. Đó là một ngày mùa xuân và cánh đồng đang đổi thành màu xanh tươi. Sức khoẻ của người cũng tăng tiến khi ánh mặt trời rực rỡ sưởi ấm thân thể gầy gò của người, đem lại chút tươi tắn cho khuôn mặt xanh xao.
Cha Don Salvatore nhận xét, “Francis, anh thích hợp với đời sống này. Lẽ ra anh phải là cha triều... từ bỏ đời sống khó khăn của một cha dòng.”
Cha Piô lắc đầu. “Không thể được.” Người mỉm cười. “Cha không nhớ sao? Con hứa trung thành với Thánh Phanxicô khi con được năm tuổi.”
Cha Don Salvatore gật đầu, “Cha nhớ.”
“Con không thể phản bội người.”
“Cha không biết, Francis. Có thể con lựa chọn lầm lẫn...”
“Không,” Cha Piô ngắt lời. “Con không lầm lẫn.”
Có một đám thiếu niên đang nhẩy từng bậc tam cấp của nhà thờ khi chuông bắt đầu đổ. Cha Piô dừng chân. “Tiếng chuông nhắc con nhớ lại nhà dòng Phanxicô đã từng có ở đây. Một ngày nào đó tu viện sẽ xuất hiện trở lại, lớn hơn và đẹp đẽ hơn trước.”
Những người trẻ cười khúc khích. Họ nghĩ Cha Piô quá lạc quan.
Nhưng Cha Don Salvatore gật gù. “Nếu đó là sự thật. Thì cần phải có sự giúp đỡ thêm cho một cha sở đã quá nhiều việc.”
Cha Piô ngủ trên chiếc giường nhỏ trong căn bếp của nhà cha mẹ người. Khi ba cô con gái còn ở nhà thì chẳng có nhiều thời giờ riêng tư, bởi thế người chỉ thoải mái khi cả nhà ngon giấc điệp.
Vào một tối tháng Chín thật nóng bức nên người không ngủ được, sau khi mọi người đã ngủ say, cha thức dậy cầu nguyện vào lúc tinh sương. Người nghe có tiếng gõ cửa nhè nhẹ, và đó là giọng nói quen thuộc của Cha Agostino, cha giải tội của người, muốn được vào nhà.
“Mời cha vào,” người trả lời thật khẽ vì sợ mọi người thức giấc.
“Cha phải nói chuyện với con đêm nay,” vừa nói Cha Agostino vừa bước đến cái chõng nhỏ xíu của Cha Piô. “Thứ lỗi cho cha vì phải đến giờ này.”
Cha Piô nheo mắt nhìn vào bóng đêm. Ánh đèn đường leo lét hắt vào từ cửa sổ chỉ cho thấy lờ mờ một nửa khuôn mặt của Cha Agostino. Người thấp thoáng nhìn thấy hàm râu dài rậm rạp, màu xám quen thuộc và cặp kính tròn gọng sắt.
“Tại sao cha đến giờ này? Gia đình con đang ngủ mà.”
Cha Agostino gật gù. “Cha sẽ rất vắn tắt.”
“Làm thế nào mà cha đến đây được?”
“Chúa gửi cha đến. Người không hài lòng về con.”
Cha Piô choáng váng. “Cái gì?” Người vung chân như muốn đứng dậy.
“Đừng, đừng,” Cha Agostino nói. “Con không phải đứng dậy. Cha chỉ đến nói với con rằng Chúa không chấp thuận cho con ăn chay hãm mình như thế.”
Một sự im lặng nặng nề. Cha Piô không thể tin những gì vừa nghe. Người nhìn đăm đăm vào dáng người đen đúa và khuôn mặt lờ mờ đó.
“Nếu cha thực sự đến đây vì Chúa muốn, cha phải cho con thấy một dấu chỉ. Con yêu cầu nhân danh Chúa Giêsu.”
Cặp môi mỏng đỏ chót của Cha Agostino bật lên cười, và giọng nói thay đổi hẳn.
Tự nhiên đôi mắt Cha Piô như chao mờ, cha tung người đến để chụp lấy chiếc áo nâu, nhưng đôi tay người chơi vơi không nắm được gì cả. Bóng hình ấy biến đi, để lại mùi lưu huỳnh hôi nồng nặc.
Có tiếng động ở phòng bên kia, và mẹ người xuất hiện ở ngưỡng cửa đang kéo chiếc khăn choàng trên vai.
“Mẹ ở đó bao lâu rồi?” Cha Piô hỏi một cách lo lắng.
“Mẹ nghĩ mẹ nghe có tiếng nói... và ngửi thấy mùi... cái gì vậy?”
“Không có gì, thưa mẹ. Mẹ đi ngủ đi.”
“Mùi gì vậy?”
“Từ ngoài đường xông vào qua cửa sổ mà. Thôi mẹ đi ngủ đi. Con xin lỗi vì quấy rầy mẹ.”
Bà Giuseppa cảm thấy hơi ớn lạnh. Đôi mắt bà tiếp tục quan sát khắp bếp. “Con đang cầu nguyện à?”
“Con đang suy niệm.”
Cha Piô ngồi ở mép giường, hai tay chống cằm, mắt nhắm lại. Bà Giuseppa nhìn con một lát rồi quay bước trở ra.
Cầu nguyện và chiêm niệm là lối thoát duy nhất của Cha Piô để khỏi bị ám ảnh bởi sự xuất hiện đêm ấy. Cha không thể thoát khỏi chúng, và cha cũng chưa cố thử. Chúng đến dưới hình thức cha bề trên, với cũng lời yêu cầu ấy, là cha phải ngừng ăn chay hãm mình. Cha phải cầu nguyện liên lỉ để xin sức mạnh chống trả những cuộc tấn công.
Cha như chìm đắm trong sự suy niệm đến nỗi Thánh Lễ kéo dài hàng giờ vì cha không thể cử hành một cách liên tục. Hàng ngày, cha dâng Thánh Lễ, rửa tội, cử hành nghi thức hôn phối, hay tang lễ, và dân làng ngày càng nhận thấy sự đứt quãng trong những nghi lễ này.
Một bà trong làng than phiền với Cha Don Salvatore, “Cha ấy làm lễ lâu quá.”
Cha Don Salvatore không ngạc nhiên vì đó là người thứ ba đến than phiền trong ngày.
Bà nói đi nói lại, “Điều đó không có nghĩa là con không thích vị linh mục trẻ này. Nhưng chúng con phải đi làm ruộng. Chúng con không thể ở nhà thờ cầu nguyện quá lâu với cha ấy.”
Từ lâu trước khi đến thăm làng, cha bề trên dòng Capuchin rất quý mến vị linh mục trẻ tuổi thánh thiện này và qua sự liên lạc, Cha Piô đã cho người biết tình trạng kết hợp với Chúa một cách mật thiết của cha. Bởi thế người không ngạc nhiên khi nghe Cha Don Salvatore nói về những than phiền của dân làng. Người hiểu.
Cha bề trên nói với Cha Don Salvatore “Cha phải ra lệnh cho Cha Piô cử hành Thánh Lễ một cách liên tục.” Sáng hôm sau, Cha Don Salvatore nghe theo lời cha bề trên khuyên bảo. Mỗi khi Cha Piô ngừng lại quá lâu, người lại thúc đẩy cha tiếp tục và cứ như thế cho đến hết Thánh Lễ.
Cha Piô theo đuổi con đường cô độc của sự hy sinh, và điều đó có nghĩa hãm mình phạt xác, máu và nước mắt. Nó có nghĩa phải chết đi một điều gì đó để những điều khác được sống.
Người viết cho Cha Agostino vào cuối tháng Mười Một năm đó “Con cảm thấy nhu cầu dâng hiến chính mình như một hy lễ cho Thiên Chúa vì những người tội lỗi.”
Sự cầu nguyện không ngừng đã giúp người chiến đấu trên con đường chông gai mà người đã chọn.
Đêm đó người đang quỳ bên cạnh cái chõng, suy niệm. Tiếng gió rít bên ngoài khiến người ngẩng đầu như nghe ngóng. Bất chợt người nhận thấy một bóng đen ở trong phòng đi về phía người.
Tiếng nói thô lỗ cất lên phá tan sự im lặng của đêm đen. “Này linh mục, ngươi phải từ bỏ ăn chay hãm mình. Ta ra lệnh cho ngươi.”
Cha Piô vẫn im lặng, chờ đợi cái bóng đen ấy bước vào vùng ánh sáng lờ mờ của ánh đèn đường vàng vọt lọt qua khung cửa sổ.
“Này linh mục, có nghe ta không?”
Cha Piô không trả lời, người tự trấn tĩnh khi bóng đen đến gần hơn.
“Ngươi có nghe...”
“Hãy ra khỏi đây,” Cha Piô bất thình lình ra lệnh, và người đứng bật dậy dối diện với bóng đen. “Xéo đi.”
Tiếng nói thô lỗ phá lên cười, và Cha Piô cảm thấy một bàn tay giá lạnh nắm lấy áo của người. Cái lạnh từ từ len vào thân thể người đến nổi da gà. Ngay lúc đó bóng đen buông chiếc áo người ra và đánh thẳng vào mặt người. Cha Piô vội vàng ôm hai tay trước ngực để đỡ cú đấm tiếp theo. Sự đau đớn quá sức chịu đựng của người, và nước mắt tuôn trào. Người khụy xuống trên sàn đá.
Trong bóng đêm, ở đâu đó tiếng nói tiếp tục gọi, đánh thức người dậy. Dường như nó phát xuất từ cửa sổ gần bếp, nhưng Cha Piô không thể cất tiếng kêu cứu. Người cũng không thể đứng dậy được. Người cố gắng tỉnh thức nhưng có cái gì đập vào màng tang khiến người lại bất tỉnh. Khi mở mắt ra cha thấy bà Giuseppa đang lay động người. Ánh sáng lờ mờ của rạng đông đã phá tan bóng đêm. Người nhìn quanh quất một cách sợ hãi, nhưng chỉ có mẹ người đứng đó.
Bà Giuseppa run rẩy, và Cha Piô rên rỉ mỗi khi bà chạm đến mình. Đôi mắt bà đăm chiêu trên khuôn mặt nhợt nhạt của người, và tay bà vuốt mớ tóc trên trán người để lộ ra ba vết thâm tím.
“Không có gì đâu mẹ ơi,” người cố trấn tĩnh bà. “Con không sao cả.”
“Không sao? Làm sao con có thể nói như vậy được? Chuyện gì xảy ra vậy? Cái gì ồn ào quá vậy?”
Cha Piô cố mỉm cười. “Có lẽ tại con rớt khỏi cái ghế.”
“Không, con không thể giấu mẹ được nữa. Mẹ nghe có tiếng nói trong đêm tối, giọng rất lạ. Ngay cả người hàng xóm còn hỏi mẹ ai đến nhà quá trễ vậy. Mẹ phải biết. Đây là nhà của mẹ, và mẹ phải biết cái gì xảy ra khi cả nhà đều ngủ cả.” Giọng nói của bà đứt đoạn, và hai bàn tay nắm chặt lấy nhau để khỏi run rẩy. Bà khóc, “Mẹ yêu cầu con nói cho mẹ nghe.”
Cha Piô bước đến bàn và cầm lấy tấm gương soi mặt. Khuôn mặt người tái nhợt, và đôi má hóp sâu. Mớ tóc đen và bộ râu hầu như che giấu hết những vết thương trên đầu và mặt. Người cảm thấy đau nhói ở bên sườn nhưng không dám đưa tay xem xét trong khi bà Giuseppa đang nhìn người một cách dò xét.
Bà lập lại một cách cương quyết, “Mẹ yêu cầu con nói cho mẹ nghe chuyện gì đã xảy ra vậy.”
Người nói, “Chuyện ấy không liên hệ gì đến mẹ,” và im lặng bỏ qua vấn đề. Người biết mẹ người không thể hiểu được sức lực ma quỷ đã hành hạ người--đó là những “gã xấu xa” và “Beelzebul và đồng bọn” như người đã gọi chúng.
Càng bị hành hạ bao nhiêu, người càng mạnh mẽ bấy nhiêu. Trong một lá thư người viết, “Chúa Giêsu lựa chọn các linh hồn, và trong những linh hồn ấy, Người đã chọn linh hồn tôi, bất kể những yếu đuối, để giúp Chúa trong sự cứu chuộc nhân loại.”
Trong tháng Ba 1913, người viết cho Cha Agostino, cha giải tội của người:
“Vào sáng thứ Sáu khi con còn nằm trên giường thì Chúa Giêsu hiện ra với con. Người rất buồn và bực bội. Người cho con thấy rất nhiều linh mục, dòng cũng như triều, và trong đó có nhiều vị cao trọng trong giáo hội. Một số đang cử hành Thánh Lễ. Một số đang mặc áo chức thánh; trong khi một số khác lại cởi áo ra.
“Khuôn mặt buồn sầu của Chúa Giêsu khiến con đau khổ, và con hỏi tại sao Người buồn sầu như vậy. Chúa không trả lời, nhưng tiếp tục nhìn về các linh mục. Khi Người nhìn chán thì Người quay đi chỗ khác. Người quay mắt nhìn con và hai hàng nước mắt lăn dài trên má. Chúa tách ra khỏi đám linh mục ấy với sự phẫn nộ và khinh miệt, Người kêu lớn: 'Các tên đồ tể!' Quay sang con, Chúa nói: 'Con ơi, đừng nghĩ rằng sự thống khổ của Thầy chỉ kéo dài có ba giờ đồng hồ. Không, Thầy sẽ thống khổ cho đến tận thế vì những người mà Thầy đã làm cho họ nhiều nhất. Này con, trong sự thống khổ của Thầy, chúng ta không thể ngủ yên. Linh hồn Thầy tìm kiếm một vài giọt thương xót của loài người. Nhưng, than ôi, chúng bỏ Thầy một mình chịu gánh nặng của sự thờ ơ. Sự vô ơn bạc nghĩa và ươn hèn của các tư tế của Thầy đã làm sự thống khổ của Thầy càng khó chịu hơn. Chao ôi, coi cách chúng đền ơn giả nghĩa. Điều làm Thầy đau khổ hơn là ngoài sự thờ ơ, chúng lại còn khinh miệt và hoài nghi. Đã nhiều lần Thầy muốn tiêu diệt chúng, nhưng Thầy đã dừng tay vì các thiên thần và các linh hồn yêu mến Thầy. Hãy viết cho cha giải tội của con những gì con nghe và thấy vào sáng hôm nay. Nói với người hãy đưa lá thư của con cho Cha Bề Trên Giám Tỉnh.'
“Chúa Giêsu tiếp tục nói với con, nhưng những gì Người nói con không thể tiết lộ cho bất cứ ai trên cõi đời này.”
Trong nhiều ngày, việc hiện ra này đã ảnh hưởng tới thân xác của Cha Piô. Người hầu như bị tê liệt, và phải mất một thời gian sau người mới có cảm giác trở lại.
Tại tu viện Đức Mẹ Ban Ơn ở San Giovanni Rotondo, sau khi giải tội Cha Piô thường đi ra ngoài, đứng trước cửa nguyện đường thở hít không khí. Một đám đông tụ họp, chờ đợi người.
Một phụ nữ trẻ trong làng nói, “Cha Piô ơi. Con ở bên cạnh nhà thờ này và mỗi sáng sau khi chồng con đi làm và con nhỏ còn ngủ, con đến nhà thờ này để dự lễ, và rước Mình Thánh. Nhưng sợ rằng con nhỏ thức giấc khi con vắng nhà, nên con rời nhà thờ với bánh lễ còn trong miệng. Con có làm gì sai không?”
Cha Piô nhìn bà và mỉm cười. “Không có gì sai,” Người trấn an bà, và nhìn thấy sự nhẹ nhõm lan dần trên khuôn mặt bà.
Sau đó, người nói với đám đông, “Với quãng thời gian ngắn ngủi trong nhà thờ, người phụ nữ đó đã làm vui lòng Thiên Chúa hơn là quý vị và tôi ở nhà thờ suốt ngày. Vì bà đã lấy thời giờ để thi hành bổn phận mà phục vụ Chúa.”
Dân chúng gật gù, ngoại trừ một phụ nữ nhà quê mặt phúng phính như con nít vẫn còn tư lự. Cha Piô nhận ra ánh mắt của bà và ra dấu vời bà đến.
Thật nhỏ nhẹ, sợ người khác có thể nghe thấy, bà giải thích, “Con xấu hổ để nói điều này nhưng con phải nói với cha. Con thương cha hơn thương Chúa.”
Cha Piô suy nghĩ một chút và với khuôn mặt nghiêm nghị, người yêu cầu bà vào làng đi ăn trộm cho người.
“Cha!” bà kêu lên cách sửng sốt. “Con không bao giờ làm như vậy.”
Với khuôn mặt lạnh lùng, nghiêm trọng người nhắc lại. “Cha ra lệnh cho con, hãy vâng lời thi hành.”
Bà trố mắt nhìn người tưởng như người mất trí.
Sau cùng Cha Piô mỉm cười. “Con thấy không. Con yêu Chúa nhiều hơn yêu cha. Con không thấy rằng khi cha ra lệnh một điều trái ý Chúa, con đã không vâng theo. Bây giờ con tin chưa?”
“Cha Piô, cha thật tốt lành,” một phụ nữ đứng cạnh đó nghe biết mọi chuyện đã thốt lên như thế.
Nụ cười của người tan biến. Người trả lời, “Cha không tốt lành đâu, Chỉ có Chúa Giêsu mới tốt lành. Cha không biết làm thế nào để chiếc áo dòng Phanxicô mà cha đang mặc đây không tuột khỏi sau lưng.”
Một ông cụ kinh ngạc vì sự khiêm tốn của người đã thốt lên, “Cha quả là một vị thánh.”
Cha Piô trả lời, “Thánh thì ở trên trời.” Câu trả lời của người cũng không làm bớt đi sự thán phục.
Dường như thở hít không khí đã đủ và người quay lưng đi vào. Một cô gái xinh đẹp trong lứa tuổi hai mươi đứng chắn đường người. Với đôi mắt xanh tròn và to, cô tha thiết nhìn đến vị tu sĩ đẹp trai và trao cho người một bó hoa vàng và trắng.
Người hỏi, “Bó hoa gì đây? Cô muốn thuê tôi để làm vườn sao?”
Khuôn mặt cô sa sầm vì sự lãnh đạm của người. Hiển nhiên người không bị ảnh hưởng bởi thế giới vật chất của cô.
Một tiếng nói nài nỉ, “Làm ơn cho biết uống thuốc này có được không?” và Cha Piô thấy có cánh tay vươn lên khỏi đám đông. Một người đàn ông lùn, hói đầu thận trọng bước đến cạnh Cha Piô và kể lể bệnh tình.
Cha Piô nói, “Tại sao ông hỏi tôi? Đi tìm bác sĩ chứ.”
Lắm chuyện quá. Ông tìm đường thối lui, và thoát ra khỏi đám đông.
Bên trong tu viện, người nghe một thầy gọi. “Cha linh hướng. Khoan đã.”
Người nhăn mặt khi nghe danh xưng đó. Nhiều người có thói quen gọi cha như vậy. Người nói với thầy, “Ngay cả các thiên thần còn chưa trong sạch đủ thì nói gì đến tôi.”
Có lần một trong các linh mục hỏi người làm sao có thời giờ lần chuỗi trong khi bận rộn như vậy. Cha Piô, người thường xem chuỗi Mai Khôi như “vũ khí” đã ngắt lời, “Cha muốn biết quá nhiều.”
Những lời nhận xét của cha thường được truyền tai bên trong tu viện và không lâu cũng được lan ra ngoài. Sự nhận xét của cha về đức tin được đặc biệt lưu ý:
“Chúng ta hãy đặc biệt cảm tạ Chúa vì ơn đức tin, là món quà được ban cho chúng ta khi rửa tội. Chúng ta phải đặc biệt biết ơn, vì không phải ai ai cũng may mắn được sinh trong một quốc gia Kitô Giáo và một gia đình Kitô Giáo để được rửa tội.
“Chúng ta phải nhớ đức tin là món quà cao trọng mà Thiên Chúa đã ban cho loài người trên thế gian, vì từ một con người của bụi đất họ được làm công dân Nước Trời. Chúng ta hãy ganh đua gìn giữ món quà cao trọng này. Khốn cho người không biết mình là ai, người quên Nước Trời, người có đức tin yếu ớt, và tệ hơn nữa (xin Chúa gìn giữ tất cả chúng ta) người từ chối đức tin. Đây là sự xỉ nhục lớn lao nhất mà loài người đối xử với Thiên Chúa.
“Hãy cẩn thận. Hãy cầu xin Thiên Chúa gìn giữ món quà này như điều quý báu nhất mà Người đã ban cho chúng ta. Nhưng hãy nhớ rằng, đức tin phải có hành động, vì tất cả chúng ta đều có đức tin cách này hay cách khác, bắt đầu với chính Lu-xi-phe đang ở hoả ngục với các thiên thần phản loạn. Kinh Thánh cho chúng ta biết là chúng không có tình yêu, bởi thế chúng thật căm hờn. Phải biết chắc là chúng ta đừng mất đức tin mà Thiên Chúa đã thấm nhập vào con người chúng ta khi rửa tội và được kiên cường hơn qua các bí tích.
“Hãy cầu xin Đức Mẹ cực thánh của chúng ta, để có sự bất hạnh nào xảy ra cho chúng ta, người sẽ cầu xin với Thiên Chúa để chúng ta chết còn hơn để chúng ta trở thành những quái vật vô ơn đối với Nước Trời.
“Một tâm hồn tốt lành thì luôn luôn mạnh mẽ. Họ chịu đau khổ, nhưng nước mắt của họ là để hy sinh cho Thiên Chúa và tha nhân.
“Ai bắt đầu sống yêu thương thì phải chuẩn bị chịu đau khổ.
“Bãi chiến trường với Satan là linh hồn người ta. Trong linh hồn, cuộc chiến đấu bùng nổ bất cứ lúc nào trong đời sống. Linh hồn phải năng đến với Thiên Chúa để được củng cố và được soi sáng, và được mặc lấy Đức Kitô Giêsu, để sự công chính, sự thật của Người, và khiên thuẫn đức tin là lời Chúa sẽ giúp chiến thắng kẻ thù hung bạo. Để mặc lấy Đức Kitô Giêsu thì cần phải chết đi cái tôi của mình.
“Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng. Ở với người tốt, chúng ta sẽ nên tốt. Ở với người xấu là chúng ta đang theo sự dữ. Điều đó có nghĩa lương tâm chúng ta chỉ có một nửa. Thái độ đó giống như con nít khi trước mặt người lạ, đòi hỏi đủ thứ chỉ vì tham lam vì chúng biết cha mẹ sẽ không la rầy chúng khi có mặt người lạ.”
Cha Piô không chỉ cảm nhận mạnh mẽ về đức tin và sự thiện hảo, mà còn sự đau khổ--đủ loại đau khổ. Người rất nhạy cảm với một vết tích nhỏ bé của sự đau khổ và ghê tởm bất cứ hành động bạo lực nào.
Đó là giờ ăn trưa của tu viện, có một thầy hỏi Cha Piô rằng sáng nay, khi đi bộ trong vườn, người có thấy một con chim nào bị thương không.
Cha Piô lắc đầu và hỏi tại sao con chim lại bị thương.
Vừa nhai, thầy đó vừa giải thích: “Thầy Vincenzo bắn con chim và nó rớt xuống vườn vì bị thương ở cánh.”
Cha Piô ngừng ăn và ngước mắt nhìn. Người đẩy đĩa cơm sang một bên, lắc đầu, kêu lớn: “Nhưng Thánh Phanxicô đâu có làm chuyện đó!”
Một sự im lặng bao trùm cả bàn. Ở cuối bàn, thầy dòng bối rối cúi mặt nhìn đĩa cơm mãi cho đến khi có một người lên tiếng nói sang chuyện khác. Khi thấy Cha Piô trở về phòng, thầy ấy vội vã chạy lại hôn tay người và chúc người nghỉ khoẻ.
Cha Piô vỗ vai thầy, và nói, “Cha xin lỗi. Cha không có gì chống đối con cả.”
Nhưng biến cố đó đã khiến người nghĩ đến sự đau khổ của thế giới và tâm hồn người nặng trĩu suốt cả ngày. Vào buổi tối, trước khi chầu Thánh Thể, Cha Mariano đề cập đến Đức Thánh Cha, và Cha Piô đang quỳ dưới chân thánh giá, người lắng nghe từng chữ một.
Khi Cha Mariano nói bóng gió là phải có nhiều người dâng hiến đời sống như những linh hồn hiến tế, Cha Piô đã che mặt với đôi tay run rẩy. Sau khi bài giảng chấm dứt, người lau nước mắt dàn dụa trên đôi mắt sâu đen.