Ðiều 1446:
(1) Tất cả mọi tín hữu, nhất là các Giám Mục, phải luôn cố gắng làm
sao, để tuy phải bảo vệ công lý, hết sức tránh những kiện tụng giữa lòng dân Chúa, và
phải dàn xếp chúng cách ôn hòa càng sớm càng hay.
(2) Ngay từ đầu, và vào bất cứ giai đoạn nào của cuộc tranh tụng, mỗi khi thấy có
hy vọng đem lại kết quả tốt, thẩm phán chớ bỏ qua mà không khuyến dụ và giúp đỡ các
đương sự đồng lòng tìm một giải pháp công bình cho cuộc tranh chấp, và chỉ bảo cho
họ những đường lối thích hợp để nhắm tới mục tiêu ấy, kể cả việc nhờ những người có
thế giá làm trung gian.
(3) Nếu sự kiện tụng liên can đến tư ích của các đương sự, thì thẩm phán nên xét
xem cuộc tranh chấp có thể được kết liễu ổn thỏa bằng sự điều đình hoặc sự trọng tài,
chiếu theo các quy tắc của các điều 1713-1716, hay không.
Ðiều 1447: Người nào đã can dự vào một vụ kiện với tư cách là thẩm phán, chưởng lý, bảo hệ, thụ ủy, luật sư, nhân chứng, hay chuyên viên, thì sau đó không được xử vụ ấy ở cấp khác một cách hữu hiệu với tư cách là thẩm phán, hoặc giữ chức vụ phụ thẩm trong chính vụ ấy.
Ðiều 1448:
(1) Thẩm phán không nên nhận xử một vụ mà chính mình có liên hệ
cách nào đó vì lý do huyết tộc hay hôn thuôc ở bất cứ cấp bực trực hệ nào và cho đến
cấp bốn bàng hệ, hoặc vì lý do giám hộ và quản tải, vì tương giao thân mật, vì thù oán
lớn, hoặc vì sẽ hưởng một mối lợi hay thoát được một sự thiệt hại.
(2) Trong những trường hợp ấy, chưởng lý, bảo hệ, phụ thẩm, dự thẩm, phải tránh
thi hành chức vụ.
Ðiều 1449:
(1) Trong những trường hợp nói ở điều 1448, nếu chính thẩm phán
không cáo thoái, đương sự có thể cáo tị.
(2) Ðại Diện tư pháp phải xét xử về sự cáo tị. Nếu chính Ðại Diện tư pháp bị cáo tị,
Giám Mục chủ tọa tòa án sẽ xét xử.
(3) Nếu Giám Mục là thẩm phán và bị cáo tị, chính Ngài phải từ chối phán xử.
(4) Nếu sự cáo tị chống lại chưởng lý, bảo hệ hay các viên chức khác của tòa án, thì
người xét xử khước biện sẽ là chánh án tòa án tập đoàn, hay chính thẩm phán nếu là
thẩm phán duy nhất.
Ðiều 1450: Nếu sự cáo tị được công nhận, những người liên hệ phải được thay thế, nhưng không được thay đổi cấp bực phán xử.
Ðiều 1451:
(1) Vấn đề cáo tị phải được xác định hết sức nhanh chóng, sau khi nghe
các đương sự, chưởng lý hay bảo hệ, nếu họ can dự trong vụ kiện và không bị cáo tị.
(2) Những hành vi của thẩm phán đã làm trước khi bị cáo tị đều hữu hiệu, nhưng
những hành vi làm sau khi có đơn cáo tị phải bị tiêu hủy nếu một đương sự yêu cầu
trong hạn mười ngày kể từ khi sự cáo tị được công nhận.
Ðiều 1452:
(1) Trong một vụ kiện chỉ liên can đến ích lợi tư, thẩm phán chỉ có thể
tiến hành khi nào có sự thỉnh cầu của đương sự. Tuy nhiên, một khi đã có sự khởi tố
hợp lệ, thẩm phán có thể, và thậm chí buộc phải tự động tiến hành trong những vụ hình
sự hay những vụ liên can đến công ích Giáo Hội và phần rỗi của các linh hồn.
(2) Ngoài ra, thẩm phán có thể bổ khuyết sự sơ xuất của các đương sự khi xuất dẫn
bằng chứng hay đối kháng các khước biện mỗi khi nhận thấy cần thiết để tránh một
phán quyết bất công trầm trọng, miễn là tôn trọng những quy định ở điều 1600.
Ðiều 1453: Các thẩm phán và tòa án phải liệu sao cho các vụ kiện kết thúc càng sớm càng tốt, miễn là công lý được bảo đảm, và phải làm thế nào để không kéo dài quá một năm ở tòa sơ cấp và không quá sáu tháng ở tòa đệ nhị cấp.
Ðiều 1454: Tất cả những nhân viên làm thành tòa án và những người cộng tác vào đó đều phải tuyên thệ chu toàn nhiệm vụ cách chu đáo và trung thành.
Ðiều 1455:
(1) Thẩm phán và những nhân viên tòa án phải giữ bí mật chức vụ trong
tất cả các phán xử hình sự và trong vụ án hộ sự nào mà sự tiết lộ một vài án từ tố tụng
có thể gây tổn hại cho các đương sự.
(2) Họ cũng phải luôn luôn giữ bí mật về cuộc thảo luận giữa các thẩm phán trong
tòa án tập đoàn trước khi ra phán quyết, cũng như về những lần bỏ phiếu và về các ý
kiến được phát biểu, miễn là tôn trọng quy định ở điều 1609, triệt 4.
(3) Hơn nữa, mỗi khi bản chất của vụ án hay của các bằng chứng hệ trọng đến nỗi
sự phổ biến án từ và các bằng chứng đưa đến nguy cơ làm cho người khác bị mất
thanh danh, hay gây chia rẽ, gương xấu, hay những sự bất tiện khác, thẩm phán có thể
bắt buộc các nhân chứng, chuyên viên, các đương sự và những luật sư, hay người thụ
ủy của họ, phải thề giữ bí mật.
Ðiều 1456: Cấm thẩm phán và tất cả các viên chức trong tòa án nhận lãnh bất cứ quà tặng nào trong dịp thi hành việc phán xử.
Ðiều 1457:
(1) Các thẩm phán có thể bị nhà chức trách có thẩm quyền phạt bằng
những hình phạt xứng hợp, kể cả việc cách chức, khi nào chắc chắn và rõ ràng là họ
có thẩm quyền nhưng lại từ chối không chịu phán xử; hay nếu không có nền tảng nào
dựa trên một quy định của pháp luật mà họ cứ tuyên bố mình có thẩm quyền để thẩm
cứu và phán xử vụ kiện; hay nếu họ vi phạm luật buộc giữ bí mật; hay đã làm thiệt hại
cách nào khác cho những người đương tụng do lỗi cố tình hay bất cẩn trầm trọng.
(2) Các viên chức và trợ tá của tòa án cũng phải chịu cùng hình phạt như vậy, nếu
họ lỗi bổn phận như nói trên đây. Thẩm phán cũng có quyền phạt họ.
Ðiều 1458: Các vụ kiện phải được xét xử theo thứ tự chấp đơn và đăng ký trong sổ, trừ khi có một vụ nào đòi được cứu xét cấp bách trước các vụ khác. Trong trường hợp ấy, cần phải có án lệnh đặc biệt có viện dẫn lý do.
Ðiều 1459:
(1) Những hà tì khiến cho bản án vô hiệu có thể được nêu lên như
khước biện, hay do chính thẩm phán tuyên bố chiểu chức vụ, ở bất cứ giai đoạn hay
cấp bực nào của sự tố tụng.
(2) Ngoài những trường hợp nói ở triệt 1, những khước biện trì hoãn, nhất là khi liên
quan đến thành phần và thể thức tố tụng, phải được viện dẫn trước giai đoạn đối tụng,
trừ khi các khước biện ấy chỉ xuất hiện sau đó; trong trường hợp ấy, các khước biện
phải được xét xử càng sớm càng tốt.
Ðiều 1460:
(1) Nếu sự khước biện đưa ra chống lại thẩm quyền của thẩm phán, thì
chính thẩm phán phải xét vấn đề.
(2) Trong trường hợp khước biện về sự vô thẩm quyền tương đối, nếu thẩm phán
tuyên bố mình có thẩm quyền, thì quyết định ấy không cho phép kháng cáo, nhưng
không cấm đới tranh về sự vô hiệu và xin phục hồi nguyên trạng.
(3) Nếu thẩm phán tuyên bố mình vô thẩm quyền, đương sự nào thấy mình bị thiệt
hại có thể thượng tố lên tòa án kháng cáo trong hạn mười lăm ngày hữu ích.
Ðiều 1461: Ở bất cứ giai đoạn nào của vụ án, nếu thẩm phán biết mình vô thẩm quyền tuyệt đối thì phải tuyên bố sự vô thẩm quyền của mình.
Ðiều 1462:
(1) Những khước biện về vấn đề quyết tụng, về sự điều đình, và về các
khước biện thất hiệu khác, - cũng gọi là "chấm dứt tố tụng" -, phải được viện dẫn và
cứu xét trước khi đối tụng. Ai nêu lên các khước biện đó sau giai đoạn ấy, thì tuy không
bị bác khước, nhưng sẽ phải trả tổn phí, trừ khi chứng minh được mình không trì hoãn
khước biện vì gian tình.
(2) Những khước biện thất hiệu khác sẽ được nêu ra trong lúc đối tụng, và phải
được cứu xét hợp thời theo những quy luật về các vấn đề phụ đới.
Ðiều 1463:
(1) Những tố quyền phản tố chỉ được viện dẫn cách hữu hiệu trong hạn
ba mươi ngày kể từ lúc đối tụng.
(2) Những tố quyền phản tố đó phải được xét xử đồng thời với tố quyền khởi tố, tức
là cùng một cấp bực tòa án, trừ khi cần phải phán xử riêng biệt hay khi thẩm phán nhận
thấy thủ tục này thích hợp hơn.
Ðiều 1464: Những vấn đề liên quan đến tiền ký quỹ để trả án phí, hay đến vấn đề cấp tư pháp bảo trợ miễn phí được thỉnh cầu ngay từ lúc bắt đầu tố tụng, hay những vấn đề tương tự khác, phải được xét xử trước khi đối tụng.
Ðiều 1465:
(1) Hạn kỳ thất hiệu, - tức là hạn kỳ được luật pháp ấn định với hậu quả
tiêu hủy quyền lợi -, không thể được triển hạn, và, nếu các đương sự không yêu cầu,
cũng không được rút ngắn lại cách hữu hiệu.
(2) Những hạn kỳ "tư pháp" và "quy ước" có thể được thẩm phán gia hạn trước khi
chúng hết hạn, khi có lý do chính đáng, sau khi nghe các đương sự hay do chính họ
yêu cầu; nhưng không bao giờ được rút ngắn cách hữu hiệu nếu không có sự thỏa
thuận của các đương sự.
(3) Tuy nhiên, thẩm phán phải canh chừng kẻo việc kiện tụng kéo dài quá đáng vì
những sự triển hạn.
Ðiều 1466: Trong trường hợp luật pháp không dự liệu những hạn kỳ để thi hành các hành vi tố tụng, thẩm phán phải ấn định chúng, sau khi đã xét đến tính chất của từng hành vi.
Ðiều 1467: Nếu ngày được chỉ định cho một hành vi tư pháp nhằm vào ngày tòa án không làm việc, thì phải hiểu là hạn kỳ được triển hạn đến ngày đầu tiên liền đó không phải là ngày nghỉ.
Ðiều 1468: Nếu có thể được, mỗi tòa án phải có một trụ sở cố định, và phải mở cửa vào các giờ ấn định.
Ðiều 1469:
(1) Một thẩm phán nào bị trục xuất ra khỏi lãnh thổ của mình do bạo lực
hay bị ngăn trở thi hành quyền tài phán ở đó, thì có thể hành sử quyền tài phán và
tuyên phán quyết ngoài lãnh thổ của mình, sau khi đã thông báo cho Giám Mục giáo
phận biết.
(2) Ngoài trường hợp nói ở triệt 1, khi có lý do chính đáng, và sau khi nghe các
đương sự, thẩm phán có thể ra khỏi lãnh thổ của mình để thu thập bằng chứng. Tuy
nhiên, cần phải có phép của Giám Mục giáo phận của nơi sẽ đến và phải lưu tại trụ sở
do Ngài chỉ định.
Cách Thức Soạn Thảo Và Lưu Trữ Án Từ
Ðiều 1470:
(1) Nếu luật riêng không dự liệu cách khác, trong khi cử hành phiên tòa,
chỉ được có mặt trong phòng xử những người mà luật pháp hay thẩm phán xét là cần
thiết để tiến hành việc tố tụng.
(2) Nếu những người có mặt trong phiên tòa có lỗi nặng vì không tôn trọng và vâng
phục tòa án, thì thẩm phán có thể dùng hình phạt xứng hợp để nhắc nhở các nghĩa vụ
của họ. Ngoài ra, thẩm phán cũng có thể huyền chức các luật sư và người thụ ủy,
không cho hành nghề trước tòa án Giáo Hội.
Ðiều 1471: Nếu người được thẩm vấn xử dụng một ngôn ngữ mà thẩm phán và các đương sự không hiểu, thì phải nhờ đến một thông ngôn đã tuyên thệ do thẩm phán chỉ định. Các lời khai phải được ghi lại bằng nguyên ngữ trên giấy tờ và kèm theo bản dịch. Thông ngôn cũng được xử dụng nếu phải thẩm vấn một người điếc hay câm, trừ khi thẩm phán muốn người này trả lời các câu hỏi bằng cách viết trên giấy tờ.
Ðiều 1472:
(1) Các án từ tư pháp, dù là án từ liên quan đến nội dung vấn đề, - tức
là "án từ của vụ kiện" -, dù là án từ thuộc về thủ tục, - tức là "án từ tố tụng" -, đều phải
được thảo ra trên giấy tờ.
(2) Mỗi trang của án từ phải được ghi số và mang ấn dấu công chính.
Ðiều 1473: Mỗi khi đòi các đương sự hay nhân chứng phải ký tên vào án từ tư pháp, nếu một đương sự hay nhân chứng không thể hay không muốn ký, thì phải ghi rõ điều đó trong án từ; đồng thời, thẩm phán và lục sự phải chứng nhận rằng chính án từ đã được đọc từng lời một cho đương sự hay nhân chứng nghe, nhưng những người này không thể hay không muốn ký tên.
Ðiều 1474:
(1) Trong trường hợp kháng cáo, một bản sao các án từ, có mang
chứng thực của lục sự, phải được gởi lên tòa cấp trên.
(2) Nếu các án từ được viết bằng một ngôn ngữ mà tòa cấp trên không biết, thì phải
được dịch ra ngôn ngữ mà tòa đó biết, và phải cẩn thận để bản dịch được trung thực.
Ðiều 1475:
(1) Sau khi kết thúc sự phán xử, các tài liệu thuộc quyền sở hữu của
các tư nhân phải được gởi trả cho họ, nhưng phải giữ lại một bản sao.
(2) Nếu không có lệnh của thẩm phán, cấm các lục sự và chưởng ấn không được
cấp phát bản sao án từ tư pháp và các tài liệu thu thập trong vụ tố tụng.
Ðiều 1476: Bất cứ ai, đã được rửa tội hay không, cũng có thể đầu đơn khởi tố; bên bị kiện hợp lệ phải trả lời.
Ðiều 1477: Mặc dù nguyên đơn hay bị đơn đã chọn người thụ ủy hay luật sư, họ vẫn buộc phải luôn đích thân trình diện ở tòa theo quy định của luật pháp hay của thẩm phán.
Ðiều 1478:
(1) Những vị thành niên và những người thiếu xử dụng trí khôn chỉ có
thể ra tòa nhờ cha mẹ, hay người giám hộ, hay người quản tài, đừng kể quy định ở triệt
3.
(2) Nếu thẩm phán xét rằng quyền lợi của các vị thành niên xung đột với quyền lợi
của cha mẹ, của người giám hộ, hay của người quản tài, hoặc xét rằng những người
này không thể bảo vệ hoàn toàn những quyền lợi của các vị thành niên, thì thẩm phán
phải chỉ định một người giám hộ hay người quản tài riêng cho các vị thành niên trước
tòa.
(3) Nhưng trong những vụ thiêng liêng hay liên quan đến việc thiêng liêng, nếu vị
thành niên đã biết xử dụng trí khôn, thì có thể khởi tố hoặc trả lời mà không cần phải có
sự ưng thuận của cha mẹ hay người giám hộ; và nếu đã đủ mười bốn tuổi trọn, các em
có thể đích thân ra tòa; nếu không, thẩm phán phải chỉ định cho họ một người quản tài.
(4) Những người bị cấm quản trị tài sản và những người tàn tật tâm trí, chỉ có thể
đích thân ra tòa để trả lời về tội phạm của mình hay khi có lệnh của thẩm phán. Trong
những vấn đề khác, họ phải khởi tố và trả lời nhờ những người quản tài của họ.
Ðiều 1479: Khi người giám hộ hay quản tài đã được chính quyền dân sự chỉ định, thì họ có thể được thẩm phán Giáo Hội chấp nhận sau khi hỏi ý kiến, nếu có thể được, của Giám Mục giáo phận của chính người được ủy thác cho người giám hộ hay quản tài. Nếu không có người giám hộ hay quản tài, hay nếu xét thấy người đã đặt không thể chấp nhận được, thì chính thẩm phán phải chỉ định một người giám hộ hay một người quản tài cho vụ kiện.
Ðiều 1480:
(1) Các pháp nhân ra tòa qua những người đại diện hợp pháp của họ.
(2) Trong trường hợp không có đại diện hay người này chểnh mảng, thì chính Bản
Quyền phải tự mình hay nhờ người khác ra tòa thay cho pháp nhân thuộc quyền của
mình.
Ðiều 1481:
(1) Các đương sự có thể tự ý chọn cho mình một luật sư và một người
thụ ủy. Tuy nhiên, ngoài những trường hợp nói ở triệt 2 và 3, đương sự có thể đích
thân khởi tố hoặc trả lời, trừ khi thẩm phán thấy cần phải có sự giúp đỡ của một người
thụ ủy hay một luật sư.
(2) Trong một phán xử hình sự, bị cáo luôn luôn phải có một luật sư do chính mình
chọn hay do thẩm phán chỉ định.
(3) Trong một phán xử hộ sự có liên quan đến các vị thành niên hay công ích, ngoại
trừ các vụ hôn phối, thẩm phán phải chiểu chức vụ đặt một người biện hộ cho bên nào
thiếu người bảo vệ.
Ðiều 1482:
(1) Mỗi người chỉ có quyền chọn cho mình một người thụ ủy; người này
không được nhờ người khác thay thế mình, nếu không có năng quyền minh thị cho
phép.
(2) Tuy nhiên, nếu có lý do chính đáng, một người cũng có thể chọn nhiều người thụ
ủy; nhưng những người này phải được chỉ định thể nào để giữa họ có thứ tự ưu tiên.
(3) Có thể chọn nhiều luật sư cùng một lúc.
Ðiều 1483: Người thụ ủy và luật sư phải là người trưởng thành và có thanh danh; ngoài ra, luật sư phải là công giáo, trừ khi Giám Mục giáo phận cho phép cách khác, và có bằng tiến sĩ giáo luật, hay phải là một chuyên viên thật sự, và được chính Giám Mục ưng chuẩn.
Ðiều 1484:
(1) Trước khi đảm nhiệm chức vụ, người thụ ủy và luật sự phải nạp ở
tòa án ủy nhiệm thư công chính.
(2) Tuy nhiên, để tránh cho một quyền lợi khỏi bị tiêu hủy, thẩm phán có thể chấp
nhận một người thụ ủy cả khi người này không trình ủy nhiệm thư, miễn là được bảo
đảm thích hợp. Nhưng án từ sẽ mất hiệu lực nếu trong hạn kỳ thất hiệu do thẩm phán
ấn định, người thụ ủy không đệ trình ủy nhiệm thư cách hợp thức.
Ðiều 1485: Nếu không có ủy nhiệm thư đặc biệt, người thụ ủy không thể thi hành cách hữu hiệu sự từ khước tố quyền, sự tiến hành vụ kiện hay các hành vi tư pháp; cũng như không thể điều đình, thỏa hiệp, dàn xếp trọng tài, và nói chung những vấn đề mà luật pháp đòi phải có ủy nhiệm thư đặc biệt.
Ðiều 1486:
(1) Ðể việc triệu hồi người thụ ủy và luật sư có hiệu lực, cần phải thông
báo cho họ biết; nếu sự đối tụng đã bắt đầu, phải thông báo sự triệu hồi cho cả thẩm
phán và đương sự đối phương biết nữa.
(2) Sau khi phán quyết được ban hành, quyền lợi và nghĩa vụ kháng cáo vẫn thuộc
về người thụ ủy, miễn là người chủ ủy không phản đối.
Ðiều 1487: Khi có lý do hệ trọng, người thụ ủy cũng như luật sư có thể bị bãi chức do án lệnh của thẩm phán ban hành chiểu chức vụ, hay do đương sự yêu cầu.
Ðiều 1488:
(1) Cấm người thụ ủy và luật sư mua quyền lợi đang tranh tụng, hoặc
thỏa hiệp để đòi thù lao quá mức hay để chia phần đồ vật đang tương tranh. Sự thỏa
hiệp như thế, nếu có, sẽ vô hiệu, và họ có thể bị thẩm phán phạt tiền. Ngoài ra, luật sư
có thể bị huyền chức và nếu tái phạm, có thể bị Giám Mục chủ tịch tòa án khai trừ khỏi
danh sách các luật sư.
(2) Cũng bị phạt như thế, những luật sư và những người thụ ủy nào, bằng cách gian
lận luật pháp, rút các vụ án khỏi tòa án có thẩm quyền để cho các tòa án khác phán xử
có lợi hơn.
Ðiều 1489: Luật sư và người thụ ủy nào, vì lý do quà cáp hay lời hứa hẹn, hay vì bất cứ lý do gì mà phản bội bổn phận của mình, sẽ bị đình chỉ thi hành quyền bảo trợ, và bị phạt tiền hay những hình phạt khác tương xứng.
Ðiều 1490: Nếu có thể được, trong mỗi tòa án nên có những người bảo trợ cố định do chính tòa án trả lương để giữ chức vụ luật sư và người thụ ủy, nhất là trong những vụ hôn phối, để các đương sự, nếu thích, có thể chọn họ.
Ðiều 1491: Mọi quyền lợi đều được bảo vệ không những bởi tố quyền mà còn bởi khước biện nữa, trừ khi minh thị dự liệu khác.
Ðiều 1492:
(1) Mọi tố quyền đều bị tiêu diệt bởi thời hiệu theo quy tắc của luật pháp
hay bởi cách thức hợp lệ khác, trừ những tố quyền về thân trạng thì không bao giờ bị
tiêu diệt.
(2) Ðừng kể quy định ở điều 1462, khước biện luôn luôn có thể được viện dẫn, bởi
vì nó có tính cách vĩnh viễn.
Ðiều 1493: Nguyên đơn có thể đồng thời khởi tố một người bằng nhiều tố quyền khác nhau về chính một vấn đề hay về nhiều vấn đề, miễn là các tố quyền không được tương phản nhau và không vượt quá thẩm quyền của tòa án mà nguyên đơn nại đến.
Ðiều 1494:
(1) Bị đơn có thể lập tố quyền phản tố, trước cùng một thẩm phán và
trong cùng một vụ kiện, để chống lại nguyên đơn vì vấn đề liên quan đến tố quyền
chính của vụ kiện, hoặc để nguyên đơn rút lại hay giảm thiểu yêu sách.
(2) Sự phản tố chống lại một phản tố sẽ không được chấp nhận.
Ðiều 1495: Tố quyền phản tố phải được đệ trình lên thẩm phán tại nơi đã nạp tố quyền đầu tiên, cho dù thẩm phán ấy chỉ được ủy nhiệm để xử một vụ án mà thôi, hay là vô thẩm quyền tương đối vì lý do nào khác.
Ðiều 1496:
(1) Người nào chứng minh được, bằng những luận cứ hữu lý, rằng mình
có quyền trên một sự vật nào đó mà kẻ khác đang cầm giữ, và nếu sự vật ấy không
được trả lại cho mình giữ gìn thì họ sẽ bị thiệt hại nặng, người đó có quyền được thẩm
phán cho cung thác sự vật ấy.
(2) Trong những hoàn cảnh tương tợ, người ấy có thể xin ngăn cản một người khác
hành sử quyền lợi.
Ðiều 1497:
(1) Sự cung thác một sự vật cũng được chấp nhận để bảo hiểm một trái
khoản, miễn là quyền trái chủ được chứng minh đầy đủ.
(2) Sự cung thác cũng có thể nới rộng đến các tài sản của trái hộ đang ở trong tay
những người đệ tam với bất cứ danh nghĩa nào, cũng như đến các trái khoản của trái
hộ.
Ðiều 1498: Không bao giờ được quyết định cung thác một sự vật và ngăn cản hành sử một quyền lợi, nếu sự thiệt hại đang lo ngại có thể bồi thường được bằng cách khác, và nếu có một bảo chứng đủ sễ có thể bồi thường được.
Ðiều 1499: Thẩm phán có thể bắt buộc người được phép cung thác một sự vật hay ngăn cản thi hành một quyền lợi, phải nạp một bảo chứng trước để bồi thường những thiệt hại trong trường hợp người ấy không chứng minh được quyền lợi của mình.
Ðiều 1500: Về bản tính và giá trị của tố quyền chấp hữu, phải tuân giữ những quy định của dân luật địa phương ở nơi tọa lạc sự vật mà sự chấp hữu đang tương tranh.