Ðiều 1311:
(1) Giáo Hội có quyền lợi bẩm sinh và riêng biệt để câu thúc bằng chế tài hình sự những tín hữu phạm tội.
Ðiều 1312:
(1) Những chế tài hình sự trong Giáo Hội là:
1. những hình phạt điều trị hay vạ, được liệt kê ở các điều 1331-1335;
2. những hình phạt thục tội, nói ở điều 1336.
(2) Luật có thể thiết lập những hình phạt thục tội khác, tước người tín hữu mất một
thiện ích thiêng liêng hay trần thế nào đó; những hình phạt ấy phải phù hợp với mục
đích siêu nhiên của Giáo Hội.
(3) Ngoài ra, còn được xử dụng những biện pháp hình sự và các việc sám hối: biện
pháp hình sự cốt ý nhất là để phòng ngừa tội phạm; còn việc sám hối nhằm thay thế
hay gia tăng một hình phạt.
Ðiều 1313:
(1) Nếu luật thay đổi sau khi tội đã phạm, thì phải áp dụng luật nào
khoan hồng hơn cho phạm nhân.
(2) Nếu một luật sau hủy bỏ một luật trước, hay ít là hủy bỏ hình phạt, thì hình phạt
bị đình chỉ tức khắc.
Ðiều 1314: Nói chung, hình phạt là hậu kết (ferendae sententiae), nghĩa là chỉ ràng buộc phạm nhân sau khi đã tuyên án; còn hình phạt là tiền kết (latae sententiae), nghĩa là đương nhiên mắc hình phạt do chính việc phạm tội, khi nào luật pháp hay mệnh lệnh đã ấn định rõ ràng như vậy.
Ðiều 1315:
(1) Người có quyền lập pháp thì cũng có thể lập ra hình luật. Ngoài ra,
người ấy cũng có thể dùng luật riêng để thêm một hình phạt cân xứng vào một luật của
Thiên Chúa hay một luật Giáo Hội do thượng cấp ban hành, miễn là duy trì giới hạn
thẩm quyền của mình về lý do lãnh thổ hay nhân sự.
(2) Chính luật pháp có thể xác định hình phạt, hay để tùy cho thẩm phán xét đoán
theo sự khôn ngoan.
(3) Luật địa phương có thể thêm những hình phạt khác vào các hình phạt đã được
luật phổ quát ấn định cho vài tội phạm; tuy nhiên, chỉ được làm như vậy khi có sự cần
thiết rất trầm trọng. Nếu luật phổ quát ngăm đe một hình phạt không nhất định hay
nhiệm ý, thì luật địa phương có thể thay thế vào đó một hình phạt xác định hay bó
buộc.
Ðiều 1316: Các Giám Mục giáo phận phải liệu sao để trong một xứ sở hay một miền, các luật hình, nếu cần phải ban hành, được đồng nhất với nhau.
Ðiều 1317: Chỉ nên thiết lập hình phạt khi thật sự cần thiết để bảo vệ kỷ luật Giáo Hội một cách thích hợp hơn. Nhưng luật địa phương không thể thiết lập hình phạt trục xuất khỏi hàng giáo sĩ.
Ðiều 1318: Nhà lập pháp chỉ nên ngăm đe hình phạt tiền kết, khi phải chống lại vài tội phạm đặc biệt cố tình phạm, mà hoặc chúng có thể gây gương xấu lớn, hay không thể phạt hữu hiệu bằng hình phạt hậu kết. Ngoài ra, chỉ nên thiết lập các vạ, nhất là vạ tuyệt thông, một cách hết sức hạn chế và dành cho những tội khá nặng mà thôi.
Ðiều 1319:
(1) Kẻ nào, do quyền cai quản, có thể đặt ra những mệnh lệnh ở tòa
ngoài, thì cũng có thể dùng mệnh lệnh để ngăm đe một hình phạt nhất định, ngoại trừ
những hình phạt thục tội chung thân.
(2) Chỉ nên ra một mệnh lệnh hình sự sau khi đã cân nhắc chính chắn và tuân giữ
những gì đã ấn định ở các điều 1317 và 1318 về luật địa phương.
Ðiều 1320: Trong những lãnh vực mà các tu sĩ phải tùy thuộc Bản Quyền sở tại, thì họ cũng có thể bị Bản Quyền ấy câu thúc bằng hình phạt.
Ðiều 1321:
(1) Không ai bị trừng phạt, nếu việc vi phạm luật pháp hay mệnh lệnh
bên ngoài không thể quy trách nặng do gian ý hay do lỗi lầm.
(2) Ai cố tình vi phạm luật pháp hay mệnh lệnh sẽ bị phạt theo như luật pháp hay
mệnh lệnh đã ấn định. Nhưng ai vi phạm vì thiếu sự cẩn thận cần thiết sẽ không bị
phạt, trừ khi luật pháp hay mệnh lệnh quy định cách khác.
(3) Một khi đã có sự vi phạm bên ngoài, thì sự quy trách được suy đoán, trừ khi đã
rõ cách nào khác.
Ðiều 1322: Những người thường xuyên thiếu xử dụng trí khôn, thì dù khi vi phạm luật pháp hay mệnh lệnh họ có vẻ lành mạnh, cũng được kể là không có khả năng phạm tội.
Ðiều 1323: Những người sau đây không bị phạt khi họ vi phạm một luật hay một mệnh lệnh:
1. kẻ chưa đủ mười sáu tuổi trọn;
2. không biết mình vi phạm luật pháp hay mệnh lệnh; sự không biết ấy không phải
tại lỗi của mình. Sự vô ý và lầm lẫn được đồng hóa với sự không biết;
3. hành động do một áp lực thể lý hay do trường hợp ngẫu nhiên không thể đề
phòng, hay nếu đã đề phòng nhưng cũng không tránh được;
4. bị cưỡng bách hành động vì sợ hãi trầm trọng tuy chỉ có tính cách tương đối, hay
vì nhu cầu thúc đẩy, hay vì tránh một hiểm họa; miễn là hành vi ấy không xấu tự bản
tính hay không gây nguy hại đến các linh hồn;
5. hành động để phòng vệ chính đáng, để chống lại một người xâm kích mình hay
người khác cách bất công, tuy phải giữ sự chừng mực tương xứng;
6. thiếu xử dụng trí khôn, miễn là duy trì những quy định ở các điều 1324, triệt 1, số
2, và 1325;
7. tưởng nghĩ cách ngay tình rằng mình đã ở một trong các trường hợp nói ở các số
4 hay 5;
Ðiều 1324:
(1) Kẻ phạm pháp không được miễn khỏi thụ hình. Tuy nhiên, hình phạt do luật pháp hay mệnh lệnh ấn định có thể được giảm khinh hay được thay thế bằng
một việc sám hối, nếu tội phạm đã xảy ra:
1. do người chỉ xử dụng trí khôn cách bất toàn;
2. do người không xử dụng trí khôn do sự say rượu hay sự thác loạn tinh thần
tương tự vì lỗi của mình;
3. do người hành động do một cơn nóng giận, tuy dù nó không lấn áp và cản trở lý
trí suy tính và ý chí ưng thuận, miễn là chính sự nóng giận ấy không phải cố tình kích
thích và nuôi dưỡng;
4. do vị thành niên đã đủ mười sáu tuổi;
5. do người bị cưỡng bách vì sợ hãi trầm trọng tuy chỉ có tính cách tương đối, hoặc
vì nhu cầu thúc đẩy, vì tránh một hiểm họa, nếu tội phạm tự bản tính là xấu hay gây
nguy hại đến các linh hồn;
6. do người hành động vì phòng vệ chính đáng chống lại kẻ xâm kích mình hay
người khác cách bất công, nhưng đã không giữ chừng mực tương xứng;
7. do người phản ứng lại kẻ khiêu khích trầm trọng và bất công;
8. do người vì lầm lẫn tại lỗi mình, tưởng rằng mình đang ở một trong những trường
hợp nói ở điều 1323, các số 4 hay số 5;
9. do người, không tại lỗi mình mà không biết có một hình phạt kèm theo luật pháp
hay mệnh lệnh;
10. do người hành động mà không thể hoàn toàn chịu trách nhiệm, tuy dù trách
nhiệm này vẫn còn nặng.
(2) Thẩm phán có thể xử sự cách tương tự như thế nếu có những trường hợp giảm
khinh cho sự trầm trọng của tội phạm.
(3) Trong những trường hợp nói ở triệt 1, can phạm không bị mắc hình phạt tiền kết.
Ðiều 1325: Sự không biết, dù chủ tâm hoặc do sự lười biếng hay giả đò, sẽ không bao giờ được xét đến khi áp dụng những quy định của các điều 1323 và 1324. Cũng vậy, sẽ không được xét đến sự say rượu hay các thứ thác loạn tinh thần khác nếu cố ý dàn ra để phạm tội hay để chữa mình, và sự nóng giận được cố ý kích thích hay nuôi dưỡng.
Ðiều 1326:
(1) Thẩm phán có thể tuyên hình phạt nặng hơn hình phạt mà luật hay mệnh lệnh đã ấn định khi nào:
1. một người sau khi bị kết án hay tuyên bố hình phạt rồi mà vẫn tiếp tục phạm tội,
đến nỗi do các hoàn cảnh có thể ước đoán cách khôn ngoan rằng người ấy ngoan cố
không chịu bỏ ác ý;
2. người được đặt vào một chức vị, hay người lạm dụng quyền bính hay chức vụ để
phạm tội;
3. trong trường hợp hình phạt đã được đặt ra cho tội phạm cố tình, phạm nhân tiên
liệu biến cố sẽ xảy ra nhưng đã bỏ qua không chịu đề phòng để tránh, theo như bất cứ
người nào cẩn thận đều phải làm.
4. Trong trường hợp nói ở triệt 1, nếu hình phạt ấn định là tiền kết, thì có thể thêm
vào một hình phạt khác hay một việc sám hối.
Ðiều 1327: Ngoài những trường hợp nói ở các điều 1323-1326, luật địa phương có thể ấn định những trường hợp khác miễn trừ, giảm khinh, gia trọng, hoặc bằng một quy tắc chung hay dành cho từng tội phạm. Cũng thế, một mệnh lệnh có thể ấn định những trường hợp miễn trừ, giảm khinh hay gia trọng hình phạt do chính mệnh lệnh đặt ra.
Ðiều 1328:
(1) Người đã làm hay bỏ một hành vi để phạm tội nhưng không hoàn
thành tội phạm được ngoài ý muốn, thì không bị hình phạt ấn định cho tội phạm đã
hoàn thành, trừ khi luật pháp hay mệnh lệnh ấn định cách khác.
(2) Nhưng nếu những hành vi hoặc sự thiếu sót tự bản tính đưa đến sự thực hiện tội
phạm, thì thủ phạm có thể phải chịu một việc sám hối hay một biện pháp hình sự, trừ
khi đương sự tự ý từ bỏ thực hiện tội phạm mà mình đã bắt đầu. Tuy nhiên, nếu sau đó
có xảy ra một gương xấu hay thiệt hại nặng hay một nguy cơ nào, thì dù thủ phạm đã
tự ý từ bỏ, đương sự cũng có thể bị phạt bằng một hình phạt xứng đáng, nhưng nhẹ
hơn hình phạt ấn định cho tội phạm đã hoàn thành.
Ðiều 1329:
(1) Những người đồng lõa tham gia vào tội phạm và không được minh
thị đề cập đến trong luật hay mệnh lệnh, thì nếu chính phạm bị trừng phạt bằng hình
phạt hậu kết, họ sẽ cũng chịu hình phạt như vậy hay những hình phạt khác nặng tương
đương hoặc nhẹ hơn.
(2) Khi có hình phạt tiền kết gắn với tội phạm, thì những đồng lõa không được luật
hay mệnh lệnh đề cập đến, cũng phải chịu hình phạt ấy trong trường hợp nếu không có
sự tham gia của họ thì tội đã không xảy ra và hình phạt tự bản chất có thể áp dụng cho
họ; còn không, họ có thể bị phạt với hình phạt hậu kết.
Ðiều 1330: Một tội phạm hệ tại việc tuyên bố hay sự bộc lộ ý muốn, học thuyết hay kiến thức, thì không kể là đã hoàn thành nếu không ai nhận thức lời tuyên bố hay sự bộc lộ ấy.
Ðiều 1331:
(1) Người mắc vạ tuyệt thông bị cấm:
1. không được tham phần bằng bất cứ cách nào như thừa tác viên vào việc cử hành Hy Tế Thánh Thể, hay vào các lễ nghi phụng tự nào khác;
2. không được cử hành các bí tích hay á bí tích, và lãnh nhận các bí tích;
3. không được hành sử chức vụ, tác vụ, hay bất cứ nhiệm vụ nào, hay thi hành các
hành vi cai trị.
(2) Sau khi vạ tuyệt thông đã bị tuyên kết hay tuyên bố, phạm nhân:
1. muốn hành động nghịch lại quy định ở triệt 1, số 1, thời phải bị trục xuất, haylễ
nghi phụng vụ phải đình chỉ, trừ khi có một lý do hệ trọng cản lại;
2. thi hành vô hiệu những hành vi cai trị mà chiếu theo quy tắc ở triệt 1, số 3, đương
sự không được phép làm;
3. bị cấm hưởng dụng các đặc ân được ban cấp trước đây;
4. không được lãnh nhận cách hữu hiệu một chức vị, chức vụ hay nhiệm vụ nào
khác trong Giáo Hội;
5. không được chiếm hữu cho mình các lợi lộc của bất cứ chức vị, chức vụ hay
nhiệm vụ, hưu bổng nào mà đương sự đã có trong Giáo Hội.
Ðiều 1332: Người mắc vạ cấm chế thì bị ràng buộc bởi những lệnh cấm nói ở điều 1331, triệt 1, số 1 và 2. Sau khi vạ cấm chế đã tuyên kết hay tuyên bố, thì phải tuân giữ quy định ở điều 1331, triệt 2, số 1.
Ðiều 1333:
(1) Vạ huyền chức chỉ có thể chi phối giáo sĩ; người mắc vạ này bị cấm:
1. hoặc tất cả hay vài hành vi của quyền thánh chức;
2. hoặc tất cả hay vài hành vi của quyền cai trị;
3. thi hành tất cả hay vài quyền lợi và nghĩa vụ gắn liền với một chức vụ.
(2) Trong luật pháp hay mệnh lệnh có thể ấn định rằng, sau khi án văn tuyên kết hay
tuyên bố, người bị huyền chức không thể ban hành hữu hiệu quyết định cai trị.
(3) Sự ngăn cấm chẳng bao giờ chi phối:
1. những chức vụ hay quyền cai trị nào không lệ thuộc vào quyền hành của Bề Trên thiết lập hình phạt;
2. quyền cư ngụ, nếu phạm nhân đã có chỗ ở chiếu theo chức vụ
3. quyền quản trị những tài sản gắn liền với chức vụ của người bị huyền chức, nếu
là hình phạt tiền kết.
(4) Sự huyền chức nào ngăn cấm lãnh nhận lợi lộc, lương, hưu bổng, hay các thứ khác, thì cũng bao hàm nghĩa vụ phải hoàn lại mọi thứ đã lãnh nhận bất hợp pháp, cả khi vì ngay tình.
Ðiều 1334:
(1) Trong tầm mức được ấn định bởi điều luật trên đây, lãnh vực của vạ
huyền chức sẽ được xác định do chính luật hay mệnh lệnh, hoặc do án văn hay nghị
định tuyên kết.
(2) Luật, chứ không phải mệnh lệnh, có thể ấn định một hình phạt huyền chức tiền
kết, mà không thêm sự xác định hay giới hạn nào khác; trong trường hợp ấy, hình phạt
sẽ có tất cả moị hiệu quả kê khai ở điều 1333, triệt 1.
Ðiều 1335: Nếu một vạ cấm cử hành các Bí Tích hay Á Bí Tích hay cấm thi hành một hành vi cai trị, thì lệnh cấm được đình chỉ mỗi khi cần phải giúp người tín hữu đang trong tình trạng nguy tử. Ngoài ra, nếu hình phạt tiền kết chưa được công bố, lệnh cấm cũng còn được đình chỉ mỗi khi có người tín hữu xin lãnh Bí Tích hay Á Bí Tích, hay hành vi cai trị; người tín hữu được phép xin như thế khi có bất cứ lý do chính đáng nào.
Ðiều 1336:
(1) Hình phạt thục tội có thể chi phối phạm nhân suốt đời hay trong một
thời gian hạn định hay vô hạn định. Ngoài một số hình phạt khác mà pháp luật có thể
thiết lập, hình phạt thục tội gồm những thứ sau đây:
1. cấm chỉ hay bắt buộc lưu trú tại một nơi hay một lãnh thổ nhất định;
2. tước mọi quyền hành, chức vụ, nhiệm vụ, quyền lợi, đặc ân, năng quyền, ân huệ,
danh hiệu, phù hiệu, dù chỉ là thuần túy danh dự;
3. cấm thi hành những điều kê khai ở số 2, hoặc cấm thi hành các điều ấy ở một nơi
hay ngoài một nơi nhất định; sự ngăn cấm này không bao giờ được gắn với hình phạt
vô hiệu hóa;
4. thuyên chuyển có tính cách hình sự đến một chức vụ khác;
5. trục xuất khỏi hàng giáo sĩ.
(2) Chỉ có thể phạt tiền kết những hình phạt thục tội kê khai ở triệt 1, số 3.
Ðiều 1337:
(1) Sự cấm lưu trú tại một nơi hay một lãnh thổ nào đó có thể áp dụng
cho cả giáo sĩ lẫn tu sĩ; còn sự buộc lưu trú có thể áp dụng cho các giáo sĩ triều và,
trong giới hạn của hiến pháp, cho các tu sĩ.
(2) Ðể tuyên kết một mệnh lệnh buộc lưu trú tại một nơi hay một lãnh thổ nhất định,
cần có sự thỏa thuận của Bản Quyền của nơi ấy, trừ khi nơi ấy đã có một nhà dành cho
các giáo sĩ không thuộc giáo phận để đền tội hay sửa mình.
Ðiều 1338:
(1) Những sự tước đoạt và cấm chỉ kê khai ở điều 1336, triệt 1, số 2 và
3, không bao giờ áp dụng cho những quyền hành, chức vụ, nhiệm vụ, quyền lợi, đặc
ân, năng quyền, ân huệ, danh hiệu, phù hiệu không lệ thuộc vào quyền hành của Bề
Trên thiết lập hình phạt.
(2) Không thể nào tước đoạt quyền thánh chức, nhưng chỉ cấm thi hành quyền ấy
hay một vài hành vi của quyền ấy; cũng vậy, không thể tước đoạt bằng cấp đại học.
(3) Ðể áp dụng những điều cấm chỉ đã kê khai ở điều 1336, triệt 1, số 3, phải giữ
quy tắc dành cho các vạ nói ở điều 1335.
Ðiều 1339:
(1) Khi một người ở trong dịp sắp sửa phạm tội, hay do một cuộc điều
tra, người ấy rất bị nghi ngờ đã phạm tội, thì Bản Quyền có thể đích thân hay nhờ
người khác cảnh cáo.
(2) Người nào mà hạnh kiểm gây gương xấu, hoặc gây xáo trộn trật tự cách trầm
trọng, thì Bản Quyền cũng có thể khiển trách theo cách thức thích ứng với những điều
kiện riêng biệt của đương sự và sự kiện.
(3) Cần phải luôn luôn lập bằng chứng của việc cảnh cáo hay khiển trách, ít là bằng
một tài liệu được giữ trong văn khố mật của giáo phủ.
Ðiều 1340:
(1) Việc sám hối có thể bị cưỡng bách ở tòa ngoài, hệ tại việc thi hành
vài công tác đạo đức, phụng tự hay bác ái.
(2) Không bao giờ được cưỡng bách phải làm việc sám hối công khai vì một sự vi
phạm kín đáo.
(3) Bản Quyền có thể theo sự khôn ngoan của mình mà thêm các việc sám hối vào
biện pháp hình sự cảnh cáo hay khiển trách.
Ðiều 1341: Bản Quyền chỉ nên phát động tố tụng tư pháp hay hành chánh để tuyên kết hay tuyên bố hình phạt khi nhận thấy việc răn bảo huynh đệ, sự khiển trách, cũng như những đường lối khác theo lòng ưu tư mục vụ không thể sửa chữa được gương xấu, tái lập công bình và cải hóa phạm nhân.
Ðiều 1342:
(1) Mỗi khi có những lý do chính đáng làm cản trở tố tụng tư pháp, thì có
thể tuyên kết hay tuyên bố hình phạt bằng nghị định ngoại tư pháp. Những biện pháp
hình sự và việc sám hối có thể được áp dụng bằng nghị định trong bất cứ trường hợp
nào.
(2) Không thể bị tuyên kết hay tuyên bố bằng một nghị định những hình phạt chung
thân và những hình phạt nào mà luật pháp hay mệnh lệnh đã cấm áp dụng bằng nghị
định.
(3) Những gì mà luật pháp hay mệnh lệnh nói về thẩm phán có liên quan đến việc
tuyên kết hay tuyên bố hình phạt, thì cũng phải được áp dụng cho Bề Trên khi phải
tuyên kết hay tuyên bố hình phạt bằng nghị định ngoại tư pháp, trừ khi đã rõ cách khác
hay chỉ là những quy định liên quan đến thủ tục.
Ðiều 1343: Nếu luật pháp hay mệnh lệnh cho thẩm phán quyền áp dụng hay không áp dụng hình phạt, thì thẩm phán cũng có thể, tùy theo lương tâm và khôn ngoan, tiết giảm hình phạt hay thay vào đó bằng một việc sám hối.
Ðiều 1344: Mặc dù luật pháp có dùng những từ ngữ có tính cách truyền khiến, nhưng thẩm phán vẫn có thể, tùy theo lương tâm và sự khôn ngoan:
1. hoãn lại việc tuyên kết đến một thời gian thích hợp hơn, nếu thấy rằng sự trừng
phạt phạm nhân ngay tức thời sẽ gây những tai hại lớn hơn;
2. miễn tuyên kết, hay tuyên kết bằng một hình phạt nhẹ hơn, hay bắt làm việc sám
hối, nếu phạm nhân đã cải thiện và sửa chữa gương xấu, hoặc nếu phạm nhân đã bị
chính quyền dân sự phạt vừa phải hoặc dự đoán rằng đương sự sẽ bị phạt như vậy;
3. đình chỉ nghĩa vụ thi hành một hình phạt thục tội, nếu phạm nhân lần đầu tiên
phạm tội sau khi đã sống đời liêm chính, và nếu không cần phải sửa chữa gương xấu
gấp. Tuy nhiên, nếu trong thời hạn được thẩm phán ấn định, phạm nhân tái phạm, thì
đương sự phải lãnh chịu hình phạt của cả hại tội phạm, trừ khi nào, trong khoảng thời
gian ấy đã phát lưu thời hiệu đối với tố quyền hình sự về tội phạm thứ nhất.
Ðiều 1345: Khi phạm nhân chỉ xử dụng trí khôn cách bất toàn, hoặc đã phạm tội vì sợ hãi, hoặc vì thiết bách, hoặc vì đam mê thúc đẩy, hay khi say rượu hoặc do sự rối loạn tinh thần tương tự nào khác, thì thẩm phán cũng có thể miễn không tuyên một hình phạt nào hết nếu nhận thấy có thể dùng cách thức khác tốt hơn để cải thiện can phạm.
Ðiều 1346: Mỗi khi phạm nhân phạm nhiều tội, và các hình phạt hậu kết chồng chất có vẻ khắc nghiệt, thì thẩm phán được quyền theo sự định đoạt khôn ngoan của mình mà điều giảm các hình phạt trong những giới hạn công minh.
Ðiều 1347:
(1) Không thể tuyên kết cách hữu hiệu một vạ, nếu trước đó phạm nhân
đã không được khuyến cáo ít là một lần để chấm dứt sự cố chấp, và được dành một
thời gian xứng hợp để hối cải.
(2) Có thể kể như phạm nhân đã chấm dứt sự cố chấp khi đương sự đã thật lòng
hối hận về tội phạm, và ngoài ra đã sửa chữa cách xứng hợp các thiệt hại và gương
xấu, hoặc ít là nghiêm chỉnh hứa sẽ sửa chữa.
Ðiều 1348: Khi một phạm nhân được miễn tố hay không bị tuyên hình phạt, thì Bản Quyền có thể lo liệu lợi ích cho đương sự hay cho công ích bằng những lời khuyến cáo hay những đường lối khác chiếu theo lòng ưu tư mục vụ, hoặc nếu cần, bằng những biện pháp hình sự.
Ðiều 1349: Nếu hình phạt các tính cách không xác định, và nếu luật pháp không dự trù cách nào khác, thì thẩm phán không nên tuyên phạt bằng những hình phạt nặng hơn, nhất là bằng vạ, trừ khi trường hợp hệ trọng đòi hỏi. Tuy nhiên, thẩm phán không được tuyên phạt bằng những hình phạt chung thân.
Ðiều 1350:
(1) Khi tuyên hình phạt cho một giáo sĩ, luôn luôn phải dự liệu sao cho
họ không thiếu những gì cần thiết để sinh sống cách xứng đáng, đừng kể khi đương sự
bị khai trừ khỏi hàng giáo sĩ.
(2) Tuy nhiên, nếu một người lâm vào tình trạng túng thiếu do hình phạt khai trừ
khỏi hàng giáo sĩ, thì Bản Quyền phải lo liệu cho đương sự bằng một cách thức nào
hoàn hảo có thể được.
Ðiều 1351: Hình phạt chi phối phạm nhân ở mọi nơi, cả khi người ấn định hay tuyên kết hình phạt đã hết quyền, nếu không minh thị dự liệu cách khác.
Ðiều 1352:
(1) Nếu hình phạt cấm lãnh nhận bí tích hay á bí tích, thì sự cấm ấy
được đình chỉ trong suốt thời gian phạm nhân ở trong tình trạng nguy tử.
(2) Khi một hình phạt tiền kết chưa được tuyên bố hay chưa được bộc lộ tại nơi can
phạm đang sống, thì sự bó buộc tuân giữ hình phạt được đình chỉ hoàn toàn hay một
phần, nếu phạm nhân không thể nào tuân giữ mà khỏi nguy cơ gây gương xấu trầm
trọng hay bị mất thanh danh.
Ðiều 1353: Sự kháng cáo hay thượng tố chống các án văn tư pháp hay các nghị định tuyên kết hay tuyên bố hình phạt, có hiệu lực đình chỉ.
Ðiều 1354:
(1) Ngoài những người được kê khai ở các điều 1355-1356, tất cả
những ai có quyền chuẩn miễn một luật có kèm theo hình phạt hoặc giải miễn một
mệnh lệnh ngăm đe một hình phạt, đều có quyền tha hình phạt ấy.
(2) Ngoài ra, luật pháp hay mệnh lệnh thiết lập một hình phạt cũng có thể cấp cho
những người khác quyền tha hình phạt ấy.
(3) Nếu Tòa Thánh dành riêng cho mình hay dành cho người khác quyền tha hình
phạt, sự dành riêng phải được giải thích theo nghĩa hẹp.
Ðiều 1355:
(1) Những người sau đây có thể tha hình phạt do luật pháp thiết lập, sau khi hình phạt đã được tuyên kết hay tuyên bố, miễn là hình phạt không được dành cho Tòa Thánh:
1. Bản Quyền đã phát động thủ tục tư pháp để tuyên kết hay tuyên bố hình phạt,
hay đã đích thân hoặc nhờ người khác tuyên kết hay tuyên bố hình phạt bằng nghị
định;
2. Bản Quyền sở tại ở nơi can phạm đang ở, sau khi đã tham khảo Bản Quyền nói
ở số 1, trừ khi vì trường hợp ngoại thường không thể tham khảo được.
(2) Hình phạt tiền kết do luật ấn định nhưng chưa được tuyên bố, nếu không dành riêng cho Tòa Thánh, thì có thể được Bản Quyền tha cho những người thuộc quyền mình và cho những người đang ở trong lãnh thổ mình hay đã phạm tội tại đó; tất cả các Giám Mục đều có thể tha chúng, nhưng chỉ trong chính lúc ban bí tích giải tội.
Ðiều 1356:
(1) Những người sau đây có thể tha hình phạt hậu kết hay tiền kết được thiết lập bởi một mệnh lệnh không phải do Tòa Thánh ban hành:
1. Bản Quyền sở tại ở nơi can phạm đang ở;
2. nếu hình phạt đã bị tuyên kết hay tuyên bố, thì cả Bản Quyền đã phát động thủ
tục tư pháp để tuyên kết hay tuyên bố hình phạt, hay đã đích thân hoặc nhờ người
khác tuyên kết hay tuyên bố hình phạt bằng nghị định.
(2) Trước khi tha hình phạt, cần phải tham khảo tác giả của mệnh lệnh, trừ khi vì trường hợp ngoại thường không thể tham khảo được.
Ðiều 1357:
(1) Ðừng kể những gì đã quy định ở các điều 508 và 976, cha giải tội có
quyền tha ở tòa trong, lúc ban bí tích, vạ tuyệt thông tiền kết hay cấm chế chưa tuyên
bố, nếu hối nhân khổ sở vì phải thường xuyên ở trong tình trạng tội nặng suốt thời gian
cần thiết để Bề Trên có thẩm quyền định liệu.
(2) Khi ban sự xá giải, cha giải tội phải buộc hối nhân, nếu không tuân thì sẽ mắc vạ
lại, phải thượng cầu trong vòng một tháng lên Bề Trên có thẩm quyền hay một linh mục
có năng quyền, và phải theo quyết định của Ngài; tạm thời, cha giải tội phải ra việc đền
tội tương xứng và, nếu cần, đòi sửa chữa gương xấu và thiệt hại. Sự thượng cầu có
thể được thực hiện qua cha giải tội, những không nói tên của hối nhân.
(3) Những người đã được giải vạ đã tuyên kết hay tuyên bố hay dành cho Tòa
Thánh dựa theo quy tắc của điều 976, thì cũng bị buộc nặng phải thượng cầu sau khi
họ đã được bình phục.
Ðiều 1358:
(1) Vạ sẽ không được tha nếu can phạm không từ bỏ sự cố chấp, chiếu
theo quy tắc của điều 1347, triệt 2; nhưng khi đương sự đã từ bỏ sự cố chấp thì không
được khước từ việc tha vạ.
(2) Kẻ đã tha vạ, có thể áp dụng những biện pháp nói ở điều 1348, hay cũng có thể
bắt làm một việc sám hối.
Ðiều 1359: Nếu một người bị mắc nhiều hình phạt, sự tha chỉ có giá trị đối với những hình phạt nào được nói tới rõ ràng. Tuy nhiên, một sự tha tổng quát sẽ hủy bỏ tất cả các hình phạt, trừ ra những hình phạt nào phạm nhân vì gian ý đã làm thinh không kể ra trong đơn thỉnh nguyện.
Ðiều 1360: Sự tha hình phạt sẽ vô hiệu nếu bị thúc ép do sợ hãi trầm trọng.
Ðiều 1361:
(1) Sự tha hình phạt có thể thực hiện kể cả đối với một người vắng mặt,
hay với điều kiện.
(2) Sự tha ở tòa ngoài phải được làm bằng giấy tờ, trừ khi có lý do hệ trọng khuyên
làm cách khác.
(3) Phải liệu sao cho đơn xin tha hình phạt hay chính việc tha không bị tiết lộ, trừ khi
điều ấy có ích lợi để bảo vệ thanh danh cho phạm nhân, hoặc cần thiết để sửa chữa
gương xấu.
Ðiều 1362:
(1) Tố quyền hình sự bị thời tiêu sau ba năm, trừ khi liên can đến:
1. những tội phạm dành cho Bộ Ðạo Lý Ðức Tin;
2. tố quyền đối với các tội phạm nói ở các điều 1394, 1395, 1397, 1398; đối với các
tội ấy, thời hiệu là năm năm;
3. những tội phạm không bị luật chung trừng phạt, nếu luật địa phương đã ấn định
một hạn kỳ khác cho thời hiệu.
(2) Thời hiệu khởi lưu kể từ ngày phạm tội, hoặc kể từ ngày tội phạm chấm dứt, nếu là tội phạm liên tục hay thường xuyên.
Ðiều 1363:
(1) Tố quyền chấp hành án hình sẽ bị thời tiêu, nếu trong thời hạn nói ở
điều 1362, tính từ ngày án văn kết án trở thành vấn đề quyết tụng, án lệnh chấp hành
của thẩm phán nói ở điều 1651, không được cáo tri cho phạm nhân.
(2) Luật này cũng được áp dụng, với những điều chỉnh cần thiết, trong trường hợp
hình phạt được tuyên kết bằng nghị định ngoại tư pháp.