Ðiều 641: Việc thu nhận các tuyển sinh thuộc thẩm quyền của các Bề Trên cao cấp, chiếu theo các quy tắc của luật riêng.
Ðiều 642: Các Bề Trên hãy cẩn thận ý tứ, chỉ nên thu nhận những ai đã đủ tuổi cần thiết, có sức khỏe, tính nết thích hợp, các đức tính đầy đủ của kẻ trưởng thành hầu có thể theo đuổi nếp sống tu trì riêng biệt của dòng. Nếu cần, việc chứng minh sức khỏa, tính nết và sự trưởng thành có thể nhờ đến các chuyên viên, miễn là giữ các quy tắc của điều 220.
Ðiều 643:
(1) Việc thâu nhận những người sau đây sẽ vô hiệu:
1. ai chưa tới mười bảy tuổi trọn;
2. người đã lập gia đình, bao lâu giá thú còn hiệu lực;
3. kẻ hiện đang bị ràng buộc với một hội dòng tận hiến hay tu đoàn tông đồ, đừng
kể trường hợp dự liệu ở điều 684;
4. kẻ vào dòng vì vũ lực, sợ hãi trầm trọng hay lường gạt; hoặc kẻ nào mà Bề Trên
phải nhận cũng với tình trạng tương tự;
5. kẻ giấu diếm việc mình đã gia nhập một hội dòng tận hiến hay một tu đoàn tông
đồ.
(2) Luật riêng có thể thiết lập các ngăn trở khác của việc thu nhận, kể cả chi phối sự hữu hiệu, hoặc đặt thêm các điều kiện khác.
Ðiều 644: Các Bề Trên không được thu nhận làm tập sinh: các giáo sĩ giáo phận trước khi hỏi ý Bản Quyền riêng của đương sự; hoặc những người mắc nợ nần không trả nổi.
Ðiều 645:
(1) Các tuyển sinh, trước khi được nhận vào năm tập, cần phải xuất trình
giấy chứng nhận đã lãnh bí tích rửa tội và thêm sức, cũng như chứng nhận tình trạng
thong dong.
(2) Nếu tuyển sinh là giáo sĩ, hoặc đã được thu nhận vào một hội dòng tận hiến
khác, hay một tu đoàn tông đồ hoặc chủng viện, thì cần thêm giấy chứng nhận của Bản
Quyền sở tại liên hệ hoặc của Bề Trên cao cấp của hội dòng, tu đoàn hay của giám đốc
chủng việc.
(3) Luật riêng có thể đòi hỏi các tài liệu khác chứng minh tuyển sinh có khả năng và
không mắc ngăn trở.
(4) Nếu thấy là cần, các Bề Trên cũng có thể thu thập tin tức cách khác, cho dù phải
giữ kín.
Ðiều 646: Mục tiêu của năm tập, khởi đầu của đời sống trong dòng, là để các tập sinh hiểu rõ hơn ơn gọi thiên triệu, cách riêng ơn gọi đặc biệt của dòng, thử nghiệm lối sống của dòng, rèn luyện lòng trí của mình theo tinh thần của dòng, cũng như được trắc nghiệm về ý định và khả năng của mình.
Ðiều 647:
(1) Việc thành lập, di chuyển và giải tán tập viện phải được thực hiện do
nghị định, bằng giấy tờ, của Bề Trên tổng quyền với sự thỏa thuận của hội đồng cố
vấn.
(2) Ðể được hữu hiệu, năm tập phải được thực hiện trong một nhà được chỉ định
cách hợp lệ để làm tập viện. Trong trường hợp đặc biệt và ngoại lệ, Bề Trên tổng
quyền, với sự thỏa thuận của hội đồng cố vấn, có thể cho phép một tuyển sinh qua năm
tập tại một nhà khác của dòng, dưới sự điều khiển của một tu sĩ từng trải, giữ vai trò
giám tập.
(3) Bề Trên cao cấp có thể cho phép đoàn tập sinh lưu trú một thời gian tại một nhà
khác của dòng do chính vị ấy chỉ định.
Ðiều 648:
(1) Ðể được hữu hiệu, năm tập phải kéo dài mười hai tháng trong chính
cộng đồng tập viện, trừ trường hợp quy định ở điều 647, triệt 3.
(2) Ðể kiện toàn việc huấn luyện các tập sinh, hiến pháp có thể quy định thêm thời
gian nói ở triệt 1, một hay nhiều thời gian thực tập tông đồ ngoài cộng đồng tập viện.
(3) Năm tập không được kéo dài quá hai năm.
Ðiều 649:
(1) Ðừng kể những quy tắc của các điều 647, triệt 3 và 648, triệt 2, sự
vắng mặt khỏi tập viện quá ba tháng, dù liên tục hay cách quãng, sẽ làm năm tập vô
hiệu. Sự vắng mặt quá mười lăm ngày phải được bù lại.
(2) Với phép của Bề Trên cao cấp, việc khấn lần đầu có thể dời lên trước, nhưng
không được quá mười lăm ngày.
Ðiều 650:
(1) Mục đích của năm tập đòi hỏi các tập sinh phải được huấn luyện dưới
sự điều khiển của một giám sư, dựa theo chương trình huấn luyện mà luật riêng đã
định.
(2) Việc điều hành các tập sinh dành riêng hoàn toàn cho giám sư, dưới quyền hành
của các Bề Trên cao cấp.
Ðiều 651:
(1) Giám tập phải là phần tử của dòng, đã khấn trọn đời và được chỉ định
hợp lệ.
(2) Nếu cần, có thể đặt thêm các phụ tác giám sư. Những người phụ tác tùy thuộc
giám sư trong việc điều khiển tập viện và chương trình huấn luyện.
(3) Những người đảm trách việc huấn luyện tập sinh phải là những phần tử đã được
chuẩn bị chu đáo, và không phải bận bịu với các công tác khác, ngõ hầu có thể chu
toàn phận sự cách bền vững và có hiệu quả.
Ðiều 652:
(1) Giám tập và các vị phụ tá có nhiệm vụ nhận định và trắc nghiệm ơn
gọi của các tập sinh; rèn luyện họ dần dần để sống đời trọn lành theo bản chất của
dòng.
(2) Các tập sinh phải được hướng dẫn để phát huy các đức tính nhân bản và Kytô
giáo. Họ cần được đưa vào đường trọn lành sung mãn nhờ việc cầu nguyện và từ bỏ
mình. Họ cần được chỉ bảo cách chiêm ngắm mầu nhiệm cứu chuộc, đọc và suy gẫm
Kinh Thánh. Họ cần được chuẩn bị vào sự thờ phượng Chúa trong phụng vụ. Họ cần
được học hỏi về đời sống tận hiến cho Thiên Chúa và cho nhân loại trong Ðức Kitô qua
các lời khuyên Phúc Âm. Họ cần được dạy dỗ về đặc tính, tinh thần, mục đích, kỷ luật,
lịch sử, đời sống của dòng, và cần được thấm nhuần lòng yêu mến Giáo Hội cùng các
vị Chủ Chăn Giáo Hội.
(3) Các tập sinh, ý thức trách nhiệm của mình, hãy cộng tác tích cực với giám sư để
đáp lại ơn Chúa gọi một cách trung thành.
(4) Về phía mỗi phần tử của dòng, họ hãy tìm cách hợp tác vào việc huấn luyện tập
sinh bằng gương mẫu đời sống và bằng lời cầu nguyện.
(5) Năm tập, theo như điều 648, triệt 1 đã định, phải được dành riêng cho việc huấn
luyện. Vì vậy các tập sinh không nên bận rộn với việc học hành và các công tác nào
khác không giúp trực tiếp vào việc huấn luyện ấy.
Ðiều 653:
(1) Tập sinh có thể tự do bỏ dòng. Nhà chức trách có thẩm quyền trong
dòng cũng có thể loại bỏ tập sinh.
(2) Khi mãn thời gian tập, tập sinh sẽ được thâu nhận khấn tạm nếu được xét thấy
là có khả năng; còn không, thì sẽ bị loại. Nếu còn hoài nghi về khả năng, Bề Trên cao
cấp có thể kéo dài thời gian thử luyện, dựa theo luật riêng, nhưng không được quá sáu
tháng.
Ðiều 654: Do việc tuyên khấn, các phần tử khấn hứa công khai giữ ba lời khuyên Phúc Âm. Họ được tận hiến cho Chúa qua tác vụ của Giáo Hội, được gia nhập vào dòng, với những quyền lợi và nghĩa vụ do luật định.
Ðiều 655: Việc khấn tạm phải được thực hiện trong kỳ hạn mà luật riêng ấn định, không dưới ba năm và không trên sáu năm.
Ðiều 656: Ðể việc khấn tạm được hữu hiệu, thì cần:
1. người khấn đã được ít là mười tám tuổi trọn;
2. năm tập hữu hiệu;
3. được thu nhận cách thong dong và hợp luật do Bề Trên có thẩm quyền, với ý kiến
của hội đồng cố vấn;
4. phát biểu ra ngoài, và không bị ảnh hưởng của vũ lực, sợ hãi trầm trọng hay
lường gạt;
5. được Bề Trên hợp pháp, hoặc đích thân hoặc nhờ người khác, tiếp nhận.
Ðiều 657:
(1) Khi đã mãn kỳ hạn khấn, tu sĩ nào tự ý xin và được xét thấy có khả
năng thì sẽ được nhận lặp lại lời khấn hoặc khấn trọn đời. Nếu không thì phải bỏ dòng.
(2) Tuy nhiên, nếu thấy tiện, Bề Trên có thẩm quyền, tùy theo luật riêng, có thể kéo
dài thời gian khấn tạm, với điều kiện là tất cả thời gian mà một phần tử bị ràng buộc bởi
lời khấn tạm không được quá chín năm.
(3) Việc tuyên khấn vĩnh viễn có thể dời lên trước kỳ hạn khi có lý do chính đáng,
nhưng không được quá ba tháng.
Ðiều 658: Ðừng kể các điều kiện đã nói ở các điều 656, số 3, 4 và 5, cùng các điều
kiện khác mà luật riêng thêm vào, thì, để việc tuyên khấn vĩnh viễn được hữu hiệu, cần
người khấn:
1. đã được ít là hai mươi mốt tuổi trọn;
2. đã tuyên khấn tạm thời ít là ba năm, miễn là không phương hại đến điều 657, triệt
3.
Ðiều 659:
(1) Sau khi đã tuyên khấn lần đầu, việc huấn luyện tất cả các phần tử
trong mỗi dòng phải được tiếp tục, nhằm giúp họ sống đời tu riêng của dòng cách sung
mãn hơn và chu toàn sứ mạng của dòng cách hoàn hảo hơn.
(2) Bởi vậy, luật riêng phải ấn định chương trình và thời hạn của việc huấn luyện ấy,
xét theo các nhu cầu của Giáo Hội, và các điều kiện của nhân loại và thời cuộc, theo
như mục đích và đặc tính của dòng đòi hỏi.
(3) Việc huấn luyện các phần tử chuẩn bị lãnh chức thánh được chi phối bởi
chương trình học vấn riêng của dòng.
Ðiều 660:
(1) Sự huấn luyện phải có hệ thống, thích hợp với trình độ của các phần
tử, bao gồm lãnh vực thiêng liêng và tông đồ, đạo lý và thực hành. Nếu thấy tiện, có thể
lấy các bằng cấp đạo và đời.
(2) Trong suốt thời gian huấn luyện này, đừng nên trao cho các phần tử những chức
vụ và công tác nào làm ngăn trở việc huấn luyện.
Ðiều 661: Các tu sĩ hãy chăm chỉ tiếp tục việc huấn luyện thiêng liêng, đạo lý và thực hành trong suốt cuộc đời. Các Bề Trên hãy cung cấp cho họ các phương tiện và thời giờ cần thiết cho việc ấy.
Ðiều 662: Các tu sĩ hãy đặt mẫu mực tối cao của đời sống nơi việc theo dõi Ðức Kitô, như đã được đề ra trong Phúc Âm và diễn tả trong hiến pháp của dòng mình.
Ðiều 663:
(1) Sự chiêm ngắm các thực tại thần linh và sự kết hợp liên lỉ với Thiên
Chúa phải là nhiệm vụ đầu tiên và chính yếu của hết mọi tu sĩ.
(2) Các phần tử hãy cố gắng hết sức để hàng ngày tham dự lễ Misa, lĩnh nhận Mình
Thánh Chúa và thờ lạy chính Thiên Chúa hiện diện trong bí tích Thánh Thể.
(3) Họ hãy để dành thời giờ cho việc đọc Sách Thánh và tâm nguyện; cử hành xứng
đáng phụng vụ giờ kinh theo quy định của luật riêng -- đừng kể nghĩa vụ của các giáo sĩ
đã nói ở điều 276, triệt 2 số 3 --; và thực hành các việc đạo đức khác.
(4) Ðối với Ðức Trinh Nữ Mẹ Thiên Chúa, gương mẫu và Người che chở đời sống
tận hiến, họ hãy tỏ lòng sùng kính đặc biệt, kể cả bằng việc đọc kinh Mân Côi.
(5) Họ hãy trung thành giữ việc cấm phòng hàng năm.
Ðiều 664: Các tu sĩ hãy ra sức hoán cải nội tâm về với Chúa, xét mình hằng ngày và năng lĩnh bí tích thống hối.
Ðiều 665:
(1) Các tu sĩ hãy ở nhà dòng của mình và giữ đời sống chung. Họ không
được vắng nhà nếu không có phép của Bề Trên. Nếu phải vắng nhà lâu ngày, thì Bề
Trên cao cấp, với sự thỏa thuận của hội đồng cố vấn và với lý do chính đáng, có thể
cho phép một phần tử sống ngoài nhà của dòng, nhưng không quá một năm, trừ khi vì
lý do chữa bệnh, học hành hay hoạt động tông đồ nhân danh dòng.
(2) Các Bề Trên hãy ân cần tìm kiếm phần tử nào vắng nhà cách bất hợp pháp với
chủ ý thoát khỏi quyền hành Bề Trên; Bề Trên hãy giúp đỡ họ trở về và bền đỗ với ơn
gọi của mình.
Ðiều 666: Trong việc xử dụng các phương tiện truyền thông xã hội, các tu sĩ phải giữ sự thận trọng cần thiết, tránh những gì có hại đến ơn gọi riêng và nguy hiểm cho đức khiết tịnh của người tận hiến.
Ðiều 667:
(1) Trong tất cả mọi nhà dòng phải giữ nội vi, do luật riêng ấn định phù
hợp với đặc tính và sứ mạng của dòng. Luôn luôn phải dành riêng một vài phần của
nhà chỉ cho các phần tử.
(2) Luật nội vi phải được giữ ngặt hơn trong các đan viện sống đời chiêm niệm.
đối với cả dân luật.
(2) Họ cần có phép Bề Trên có thẩm quyền, chiếu theo quy tắc của luật riêng, để
thay đổi các định đoạt nói trên khi có lý do chính đáng, cũng như để thi hành bất kỳ
hành vi nào trong phạm vi tài sản.
(3) Bất cứ vật gì tu sĩ thủ đắc do công lao riêng hoặc với danh nghĩa của dòng thì
thủ đắc cho dòng. Những gì tu sĩ nhận được bằng bất cứ cách nào với danh nghĩa hưu
bổng, trợ cấp và bảo hiểm thì được thủ đắc cho dòng, trừ khi luật riêng ấn định cách
khác.
(4) Kẻ nào phải khước từ hoàn toàn các tài sản chiếu theo bản chất của dòng, thì
phải làm sự khước từ ấy trước khi khấn vĩnh viễn, với hiệu lực kể từ ngày khấn. Nếu có
thể được, việc từ khước nên làm theo thể thức có giá trị trước dân luật.
Ðiều này cũng áp dụng với người nào ước ao khước từ toàn phần hay bán phần các tài sản khi khấn
vĩnh viễn, chiếu theo luật riêng, với phép của Bề Trên tổng quyền.
(5) Người nào do lời khấn đã khước từ hoàn toàn các tài sản chiếu theo bản chất
của dòng thì mất khả năng thủ đắc và sở hữu; do đó các hành vi làm ngược lại lời khấn
khó nghèo sẽ vô hiệu. Những gì thủ đắc sau khi đã khước từ đều thuộc về dòng, dựa
trên các quy tắc của luật riêng.
Ðiều 669:
(1) Như dấu chỉ của sự tận hiến và làm chứng cho sự khó nghèo, các tu
sĩ phải mặc tu phục của dòng, theo hình thức quy định trong luật riêng.
(2) Nếu dòng không có tu phục riêng, thì các tu sĩ giáo sĩ sẽ mặc y phục giáo sĩ theo
quy tắc của điều 284.
Ðiều 670: Dòng phải cung cấp cho các phần tử hết mọi phương tiện cần thiết, chiếu theo hiến pháp, để đạt tới mục đích của ơn gọi.
Ðiều 671: Các tu sĩ không nên nhận lãnh các phận sự và chức vụ ngoài dòng khi không có phép của Bề Trên hợp pháp.
Ðiều 672: Các tu sĩ bị ràng buộc bởi các quy định của các điều 277, 285, 286, 287,
và 289. Ngoài ra, các tu sĩ giáo sĩ còn phải giữ các quy định của điều 279, triệt
2. Trong
các dòng giáo dân thuộc luật giáo hoàng, các Bề Trên cao cấp có thể ban phép nói ở
điều 285, triệt 4.
Ðiều 673: Hoạt động tông đồ của các tu sĩ tiên vàn hệ tại việc chứng tá của đời tận hiến. Họ có bổn phận hun đúc đời sống chứng tá nhờ lời cầu nguyện và việc đền tội.
Ðiều 674: Các dòng sống đời thuần túy chiêm niệm luôn luôn giữ một phần cao trọng trong nhiệm thể của Ðức Kitô; bởi vì họ dâng lên Thiên Chúa hy lễ ngợi khen tuyệt vời; họ trang điểm dân Chúa với những hoa trái trù phú của sự thánh thiện; họ thúc đẩy dân Chúa bằng gương sáng và làm nó phát triển nhờ sự phong nhiêu tông đồ kín nhiệm của mình. Vì lẽ ấy, dù nhu cầu hoạt động tông đồ thật là khẩn cấp, nhưng các phần tử của các dòng ấy không thể được gọi hoạt động hợp tác vào các công việc mục vụ khác.
Ðiều 675:
(1) Hoạt động tông đồ làm nên phần cốt yếu của các dòng chuyên biệt
tông đồ. Vì vậy toàn thể đời sống của các phần tử phải được thấm nhuần tinh thần tông
đồ, và toàn thể hoạt động tông đồ phải được chất chứa tinh thần tu trì.
(2) Hoạt động tông đồ phải luôn luôn bắt nguồn từ việc kết hợp mật thiết với Chúa
và củng cố, hun đúc việc kết hợp ấy.
(3) Hoạt động tông đồ cần được thực hiện nhân danh và với sự ủy nhiệm của Giáo
Hội, cũng như trong sự thông hiệp với Giáo Hội.
Ðiều 676: Các dòng giáo dân, dù nam hay nữ, tham gia vào nhiệm vụ mục vụ của Giáo Hội và phục vụ nhân loại bằng nhiều cách khác nhau qua những công tác từ thiện về phần thiêng liêng hay thể xác. Vì vậy họ hãy trung thành duy trì ơn gọi riêng của họ.
Ðiều 677:
(1) Các Bề Trên và các phần tử hãy trung thành duy trì sứ mạng và các
công tác riêng của dòng. Tuy nhiên, họ hãy biết thích ứng chúng các khôn ngoan chiếu
theo nhu cầu của thời thế và địa phương, kể cả bằng việc xử dụng các phương tiện
mới mẻ và thích ứng.
(2) Các dòng nào có các hiệp hội giáo dân được kết nạp, thì hãy giúp đỡ họ cách
chuyên cần đặc biệt, để họ được thấm nhuần tinh thần tinh túy của dòng.
giáo phận, nếu Bề Trên cao cấp đã được thông
báo mà không chịu áp dụng biện pháp. Tuy nhiên phải lập tức trình sự việc lên Tòa
Thánh.
Ðiều 680: Giữa các dòng khác nhau và giữa các dòng với giáo sĩ triều, cần phải cổ võ sự hợp tác có tổ chức, cũng như sự phối hợp tất cả các công tác và hoạt động tông đồ dưới sự lãnh đạo của Giám Mục giáo phận, tuy phải tôn trọng đặc tính, mục đích của mỗi dòng và luật thành lập cơ sở.
Ðiều 681:
(1) Các công tác được Giám Mục giáo phận ủy thác cho các tu sĩ thì ở
dưới quyền hành và sự chỉ đạo của Giám Mục ấy, tuy phải duy trì quyền của các Bề
Trên của các tu sĩ theo quy tắc của điều 678, các triệt 2 và 3.
(2) Trong những trường hợp ấy, phải ký hợp đồng giữa Giám Mục giáo phận với Bề
Trên có thẩm quyền trong dòng. Trong hợp đồng ấy, đừng kể các khoản khác, cần phải
xác định cách minh thị và tỉ mỉ những công tác, và chế độ tài sản.
Ðiều 682:
(1) Khi phải trao một giáo vụ trong giáo phận cho một tu sĩ, thì chính
Giám Mục là vị bổ nhiệm, sau khi có sự đề cử hay ít là đồng ý của Bề Trên có thẩm
quyền.
(2) Tu sĩ nói trên có thể bị bãi chức đã được trao phó hoặc tùy ý của nhà chức trách
đã ủy thác chức vụ sau khi đã báo cho Bề Trên của tu sĩ, hoặc tùy ý Bề Trên sau khi đã
báo cho kẻ ủy thác, mà không cần có bên kia thỏa thuận.
Ðiều 683:
(1) Trong thời gian kinh lý mục vụ hay trong trường hợp cần thiết, Giám
Mục giáo phận có thể, tự mình hay nhờ người khác, thanh tra các nhà thờ và nhà
nguyện có giáo dân thường xuyên lui tới, các học đường và các cơ sở khác có tính
cách tôn giáo và bác ái về tinh thần hay vật chất đã được ủy thác cho các tu sĩ. Nhưng
Giám Mục không được thanh tra các học đường chỉ dành riêng cho các học sinh của
dòng.
(2) Nếu nhận thấy có lạm dụng nào, và sau khi đã khuyến cáo Bề Trên dòng mà
không có kết quả, thì Giám Mục có thể dùng quyền hành của mình để đối phó.
Ðiều 684:
(1) Một phần tử đã khấn vĩnh viễn không thể chuyển từ dòng mình sang
dòng khác nếu không có phép của Bề Trên tổng quyền của hai dòng với sự thỏa thuận
của hội đồng cố vấn của mỗi vị.
(2) Sau khi đã được thử luyện một thời gian ít là ba năm, đương sự có thể được
nhận khấn vĩnh viễn trong dòng mới. Nếu đương sự không muốn khấn hay không được
các Bề Trên có thẩm quyền chấp nhận cho khấn, thì phải trở về dòng cũ, đừng kể khi
đã nhận được đặc quyền hồi tục.
(3) Ðể một tu sĩ thuộc một đan viện tự trị có thể chuyển sang một đan viện tự trị
thuộc cùng một dòng hay cùng liên hiệp hay liên minh, thì điều kiện cần và đủ là sự
thỏa thuận của Bề Trên cao cấp của cả hai đan viện và của công hội đan viện muốn
nhận, đừng kể khi luật riêng quy định thêm các điều kiện khác. Nhưng không đòi hỏi
phải khấn lại.
(4) Luật riêng phải xác định thời kỳ và cách thức thử luyện mà một người phải trải
qua trước khi khấn trong dòng mới.
(5) Sự di chuyển sang một tu hội đời hay sang một tu đoàn tông đồ, hoặc từ hai nơi
đó sang một dòng, cần phải có phép của Tòa Thánh.
Ðiều 685:
(1) Cho đến khi được khấn trong dòng mới, các quyền lợi và nghĩa vụ mà
đương sự có trong dòng cũ bị đình chỉ; còn các lời khấn thì vẫn có hiệu lực. Tuy nhiên,
kể từ lúc bắt đầu thử luyện, đương sự buộc phải tuân hành luật riêng của dòng mới.
(2) Do việc khấn trong dòng mới, đương sự được sát nhập vào dòng mới; từ lúc ấy,
chấm dứt các lời khấn, quyền lợi và nghĩa vụ trước đây.
Ðiều 686:
(1) Bề Trên tổng quyền, với sự thỏa thuận của hội đồng cố vấn, khi có lý
do trầm trọng, có thể cho phép một tu sĩ đã khấn vĩnh viễn được xuất viện, nhưng
không quá ba năm; nếu là giáo sĩ, cần có sự thỏa thuận của Bản Quyền sở tại nơi
đương sự phải lưu trú. Việc triển hạn đặc quyền xuất viện hay ban một đặc quyền quá
ba năm được dành riêng cho Tòa Thánh, hoặc cho Giám Mục giáo phận nếu là dòng
giáo phận.
(2) Ðối với các nữ đan tu, việc ban đặc quyền xuất viện được dành riêng cho một
mình Tòa Thánh.
(3) Theo lời yêu cầu của Bề Trên tổng quyền với sự thỏa thuận của hội đồng cố
vấn, sự xuất viện có thể bị cưỡng bách do Tòa Thánh, nếu là tu sĩ thuộc dòng giáo
hoàng, hay do Giám Mục giáo phận, nếu tu sĩ thuộc dòng giáo phận; nhưng cần phải có
lý do trầm trọng và phải bảo vệ lẽ phải và bác ái.
Ðiều 687: Các phần tử xuất viện được coi như không bị ràng buộc bởi những nghĩa vụ bất khả kham với hoàn cảnh sinh sống mới. Ðương sự phải tùy thuộc sự coi sóc của các Bề Trên dòng của mình, và kể cả của Bản Quyền sở tại, nhất là khi đương sự là giáo sĩ. Ðương sự có thể mặc y phục của dòng, trừ khi trong đặc quyền đã định cách khác. Nhưng đương sự không có quyền bầu cử và ứng cử.
Ðiều 688:
(1) Kẻ muốn ra khỏi dòng khi mãn hạn khấn, có thể bỏ dòng.
(2) Trong thời gian khấn tạm thời, vì lý do trầm trọng xin rời bỏ dòng, thì Bề Trên
tổng quyền, với sự thỏa thuận của hội đồng cố vấn, có thể ban đặc quyền bỏ dòng, nếu
là dòng thuộc luật giáo hoàng. Trong các dòng thuộc luật giáo phận và trong các đan
viện tự trị nói ở điều 615, đặc quyền bỏ dòng, để được hữu hiệu, cần được châu phê
bởi Giám Mục của nhà mà đương sự được bổ nhiệm.
Ðiều 689:
(1) Khi một phần tử đã mãn hạn khấn tạm thời, nếu có lý do chính đáng,
thì Bề Trên cao cấp có thẩm quyền, sau khi đã bàn với hội đồng cố vấn, có thể loại bỏ
đương sự, không cho khấn tiếp.
(2) Tật bệnh thể chất hay tâm linh, cho dù mắc phải sau khi khấn, khiến cho đương
sự không có khả năng sống trong dòng, theo sự thẩm định của các chuyên viên, làm
thành nguyên nhân để đương sự không được lặp lại lời khấn hay tuyên khấn vĩnh viễn,
miễn là bệnh ấy không mắc phải do sự chểnh mảng của dòng hay do một công tác làm
trong dòng.
(3) Tuy nhiên, nếu trong thời kỳ khấn tạm, tu sĩ đâm ra mất trí, thì cho dù không có
khả năng để tuyên lời khấn mới, song đương sự không thể bị trục xuất khỏi dòng.
Ðiều 690:
(1) Kẻ nào, sau khi mãn năm tập hay hết hạn khấn, đã ra khỏi dòng cách
hợp lệ, thì có thể được thu nhận trở lại mà không buộc phải làm lại năm tập, do phép
của Bề Trên tổng quyền với sự thỏa thuận của hội đồng cố vấn. Nhưng Bề Trên tổng
quyền sẽ chỉ định một thời gian thử luyện thích hợp trước khi khấn tạm và khấn vĩnh
viễn, dựa theo quy tắc của các điều 655 và 657.
(2) Bề Trên đan viện tự trị cùng với hội đồng cố vấn cũng có năng quyền như vậy.
Ðiều 691:
(1) Ai đã khấn vĩnh viễn thì không được xin đặc quyền ra khỏi dòng khi
không có lý do rất trầm trọng đã suy xét trước mặt Chúa. Ðương sự sẽ đệ đơn lên Bề
Trên tổng quyền; vị này sẽ chuyển đơn lên nhà chức trách có thẩm quyền, kèm theo ý
kiến riêng của mình và của hội đồng cố vấn.
(2) Việc ban đặc quyền nói trên được dành riêng cho Tòa Thánh đối với các dòng
thuộc luật giáo hoàng; đối với các dòng thuộc luật giáo phận, thì đặc quyền cũng có thể
ban do Giám Mục của giáo phận nơi tọa lạc của nhà tu sĩ được bổ nhiệm.
Ðiều 692: Ðặc quyền bỏ dòng, một khi đã được ban hợp lệ và thông tri cho đương sự, đương nhiên mang theo sự miễn chuẩn các lời khấn cũng như tất cả các nghĩa vụ phát xuất từ việc tuyên khấn, đừng kể khi đương sự bác bỏ đặc quyền ngay chính lúc được thông tri.
Ðiều 693: Nếu đương sự là giáo sĩ, thì đặc quyền không được ban trước khi tìm được một Giám Mục muốn nhận đương sự nhập tịch vào giáo phận hoặc ít là nhận thử nghiệm. Trong trường hợp được nhận thử nghiệm, thì mãn hạn năm năm, đương sự được đương nhiên nhập tịch vào giáo phận, trừ khi bị Giám Mục từ chối.
Ðiều 694:
(1) Các phần tử sau đây được kể như đương nhiên bị trục xuất:
1. kẻ đã lìa bỏ tỏ tường về đức tin Công Giáo;
2. kẻ đã kết hôn hoặc mưu toan kết hôn, dù là hôn nhân dân sự.
(2) Trong các trường hợp ấy, sau khi đã thu thập các bằng chứng, Bề Trên cao cấp
cùng với hội đồng cố vấn không phải chần chừ gì để tuyên bố sự kiện, ngõ hầu sự trục
xuất trở thành minh bạch theo pháp lý.
Ðiều 695:
(1) Một phần tử phải bị trục xuất do các trọng tội đã nói ở các điều 1397,
1398 và 1395; trừ khi nào đối với trọng tội nói ở điều 1395, triệt 2, Bề Trên xét thấy sự
trục xuất không cần thiết và đương sự có thể sửa mình, cũng như việc bồi thường và
sửa chữa gương mù có thể được thỏa mãn cách khác.
(2) Trong các trường hợp ấy, sau khi đã thu thập bằng chứng về sự kiện và sự quy
trách, Bề Trên cao cấp sẽ thông báo cho đương sự biết sự tố cáo và các bằng chứng;
cùng dành cho đương sự khả năng biện hộ. Tất cả hồ sơ cùng với chữ ký của Bề Trên
cao cấp và lục sự, và kèm theo các câu trả lời do đương sự viết và ký, sẽ được chuyển
lên Bề Trên tổng quyền.
Ðiều 696:
(1) Một phần tử cũng có thể bị loại vì các lý do khác, miễn là các lý do ấy
trầm trọng, xuất hiện ra ngoài, có thể quy trách và có thể chứng minh theo pháp lý, tỉ
như: thường xuyên chểnh mảng các nghĩa vụ của đời tận hiến; nhiều lần vi phạm các lời khấn; cố chấp bất tuân các chỉ thị hợp pháp của Bề Trên trong vấn đề can hệ; gây
gương mù trầm trọng phát sinh từ tác phong có lỗi của đương sự; cố chấp bênh đỡ hay
truyền bá các học thuyết đã bị kết án bởi quyền giáo huấn của Hội Thánh; công khai
tán trợ các ý thức hệ nhiễm mùi duy vật hay vô thần; vắng nhà bất hợp pháp -- theo
nghĩa đã nói ở điều 665, triệt 2 -- kéo dài 6 tháng; các lý do trầm trọng tương tự mà luật
riêng của dòng có thể đã xác định.
(2) Trong những trường hợp nói ở điều 696, nếu Bề Trên cao cấp, sau khi đã bàn
với hội đồng cố vấn, xét rằng phải xúc tiến thủ tục trục xuất, thì:
1. hãy thu thập và bổ túc các bằng chứng;
2. khuyên bảo đương sự bằng giấy tờ hay trước mặt hai nhân chứng với lời cảnh
cảo minh thị sẽ tiến hành sự trục xuất nếu đương sự không sửa mình; đương sự cần
biết rõ nguyên nhân và được tự do biện hộ. Nếu lời khuyên bảo không có công hiệu, thì
trong khoảng cách ít là mười lăm ngày sau, phải lặp lại lời khuyên bảo.
3. nếu lời khuyên bảo lần sau cũng không có công hiệu mà Bề Trên cao cấp, cùng
với hội đồng cố vấn, nhận thấy rõ sự ngoan cố của đương sự cũng như những lời biện
hộ không đủ, thì, sau khi đã qua mười lăm ngày kể từ lời khuyên bảo thứ hai không có
hiệu quả, tất cả hồ sơ được gởi lên Bề Trên tổng quyền, với chữ ký của Bề Trên cao
cấp, của lục sự, cùng với những câu trả lời của đương sự và chữ ký của người ấy.
Ðiều 698: Trong tất cả mọi trường hợp nói ở điều 695 và 696, phải luôn luôn tôn trọng quyền lợi của đương sự được liên lạc thẳng với Bề Trên tổng quyền và trực tiếp trình bày với ngài các lời biện hộ.
Ðiều 699:
(1) Bề Trên tổng quyền, cùng với hội đồng cố vấn, sẽ tiến hành, cách tập
đoàn, việc cân nhắc cẩn thận các bằng cớ, lý chứng và biện hộ. Ðể thủ tục được hữu
hiệu, cần phải có ít là bốn nhân viên của hội đồng cố vấn. Qua việc bỏ thăm kín, nếu họ
quyết định trục xuất, thì sẽ thảo nghị định trục xuất. Nghị định này, để được hữu hiệu,
cần phải bao gồm, ít là sơ lược, các lý do về luật pháp cũng như về sự kiện.
(2) Trong những đan viện tự trị, nói ở điều 615, quyền quyết định việc trục xuất
thuộc Giám Mục giáo phận. Bề Trên phải đệ hồ sơ, được hội đồng cố vấn chấp thuận,
lên Giám Mục.
Ðiều 700: Nghị định trục xuất và hồ sơ phải được chuyển lên Tòa Thánh, và nghị định chỉ có hiệu lực khi được Tòa Thánh phê chuẩn. Nếu là dòng thuộc luật giáo phận, việc phê chuẩn thuộc quyền Giám Mục của giáo phận nơi tọa lạc nhà mà đương sự được bổ nhiệm. Ðể nghị định được hữu hiệu, cần phải nêu rõ quyền lợi của đương sự được thượng cầu lên nhà chức trách có thẩm quyền trong vòng mười ngày kể từ lúc nhận được thông trị. Việc thượng cầu có hậu quả đình chỉ.
Ðiều 701: Do sự trục xuất hợp lệ, đương nhiên chấm dứt các lời khấn cũng như các quyền lợi và nghĩa vụ phát sinh từ việc tuyên khấn. Tuy nhiên nếu đương sự là giáo sĩ, thì không được thi hành chức thánh cho đến khi nào tìm được một Giám Mục nhận họ vào giáo phận, sau một thời gian thử luyện theo quy tắc của điều 693, hoặc ít là cho phép họ thi hành chức thánh.
Ðiều 702:
(1) Ai đã ra khỏi dòng cách hợp lệ hoặc bị trục xuất khỏi dòng cách hợp
lệ, thì không được đòi hỏi gì nơi dòng về bất cứ công tác nào đã làm trong dòng.
(2) Tuy nhiên, dòng phải giữ lẽ phải và bác ái Phúc Âm đối với phần tử lìa bỏ dòng.
Ðiều 703: Trong trường hợp xảy ra gương mù trầm trọng bên ngoài hoặc trước một hiểm họa rất nguy hại cho dòng, thì một phần tử có thể bị đuổi ra khỏi nhà tức khắc, do Bề Trên cao cấp, hoặc do chính Bề Trên địa phương với sự thỏa thuận của hội đồng cố vấn, nếu có nguy hiểm do việc trì hoãn. Nếu cần, Bề Trên cao cấp sẽ lo liệu lập thủ tục trục xuất theo quy tắc pháp luật, hoặc trình nội vụ lên Tòa Thánh.
Ðiều 704: Về các phần tử lìa bỏ dòng vì bất cứ lý do nào, cần phải đề cập đến trong bản tường trình lên Tòa Thánh đã nói ở điều 592, triệt 1.