Ðiều 515:
(1) Giáo xứ là một cộng đoàn tín hữu được thiết lập cách bền vững ở
trong Giáo Hội địa phương, và việc săn sóc mục vụ được ủy thác cho Cha Sở làm chủ
chăn riêng, dưới quyền của Giám Mục giáo phận.
(2) Chỉ duy có Giám Mục giáo phận có quyền thành lập, giải tán hoặc thay đổi các
giáo xứ; tuy nhiên ngài không nên thành lập, giải tán hoặc thay đổi một cách đáng kể
các giáo xứ mà không tham khảo ý kiến Hội Ðồng Linh Mục.
(3) Một khi đã được thành lập hợp lệ, giáo xứ đương nhiên được hưởng tính cách
pháp nhân theo luật.
Ðiều 516:
(1) Trừ khi luật quy định cách khác, chuẩn giáo xứ cũng được đồng hóa
với giáo xứ. Chuẩn giáo xứ là một cộng đoàn tín hữu ở trong Giáo Hội địa phương
được ủy thác cho một tư tế như là chủ chăn riêng, nhưng vì hoàn cảnh đặc biệt chưa
được thiết lập thành giáo xứ.
(2) Ở đâu các cộng đoàn không thể thành lập thành giáo xứ hay chuẩn giáo xứ
được, thì Giám Mục giáo phận phải dự liệu việc săn sóc mục vụ cho họ bằng cách
khác.
Ðiều 517:
(1) Ở đâu hoàn cảnh đòi hỏi, việc săn sóc mục vụ của một giáo xứ hoặc
của nhiều giáo xứ một trật có thể ủy thác cách liên đới cho nhiều tư tế, miễn là một
người trong họ phải là trưởng ban điều hành việc săn sóc mục vụ; vị này hướng dẫn
công việc hoạt động chung và chịu trách nhiệm trước Giám Mục.
(2) Nếu vì thiếu các linh mục, Giám Mục giáo phận xét thấy cần phải ủy thác sự
tham gia thi hành công tác mục vụ cho một phó tế hoặc cho một người nào khác không
có chức linh mục, hoặc cho một cộng đoàn, thì ngài cần phải đặt một linh mục có quyền
hành và năng ân dành cho một Cha Sở để lo điều hành việc săn sóc mục vụ.
Ðiều 518: Theo luật chung, giáo xứ phải có tính cách tòng thổ, nghĩa là bao gồm tất cả các tín hữu thuộc một địa sở nhất định; tuy nhiên ở đâu thấy thuận lợi, cũng có thể thiết lập các giáo xứ tòng nhân xét vì ly do lễ điển, ngôn ngữ, quốc tịch của các tín hữu thuộc về một lãnh thổ hay kể cả vì một lý do nào khác.
Ðiều 519: Cha Sở là chủ chăn riêng của giáo xứ đã được giao phó, và thi hành việc săn sóc mục vụ của cộng đoàn được ủy thác dưới quyền của Giám Mục giáo phận, vì được gọi thông phần với Giám Mục vào tác vụ của Ðức Kitô, ngõ hầu chu tất nhiệm vụ giảng dạy, thánh hóa và quản trị đối với cộng đoàn ấy, với sự cộng tác của các linh mục khác hoặc với các phó tế và cả sự hợp lực của các giáo dân, theo quy tắc luật định.
Ðiều 520:
(1) Một pháp nhân không thể làm Cha Sở; tuy nhiên Giám Mục giáo
phận, chứ Giám Quản giáo phận không được phép, với sự đồng ý của Bề Trên có thẩm
quyền, có thể ủy thác một giáo xứ cho một Dòng Tu Giáo Sĩ hoặc cho một Tu Ðoàn
Tông Ðồ Giáo Sĩ, kể cả bằng việc thiết lập giáo xứ trong chính nguyện đường của
Dòng Tu hay của Tu Ðoàn, với điều kiện là một linh mục phải là Cha Sở hay trưởng
ban điều hành theo điều 517 triệt 1, nếu việc săn sóc mục vụ được ủy thác cách liên
đới cho nhiều linh mục.
(2) Việc ủy thác giáo xứ nói ở triệt 1 có thể là vĩnh viễn hoặc chỉ trong một thời gian
nhất định; trong cả hai trường hợp, cần phải làm một hợp đồng bằng giấy tờ giữa Giám
Mục giáo phận và các Bề Trên có thẩm quyền của Dòng Tu hoặc của Tu Ðoàn; trong tờ
hợp đồng ấy, ngoài những điều khác, cần phải xác định rõ ràng và chi tiết công tác phải
thi hành, nhân sự lãnh trách vụ và vấn đề tài chánh.
Ðiều 521:
(1) Ðể một người có thể được bổ nhiệm cách hữu hiệu làm Cha Sở, cần
phải đã chịu chức linh mục.
(2) Ngoài ra, người đó phải trổi vượt về đạo lý lành mạnh, tác phong đứng đắn, có
nhiệt tâm với các linh hồn và những nhân đức khác, cũng như những đức tính mà luật
hoặc phổ quát hoặc địa phương đòi hỏi để săn sóc một giáo xứ cụ thể.
(3) Ðể bổ nhiệm người nào vào chức vụ Cha Sở, cần phải biết rõ về khả năng của
người đó, theo cách thức Giám Mục giáo phận ấn định, kể cả nhờ việc khảo hạch.
Ðiều 522: Cha Sở cần được hưởng tính cách lâu bền, và vì thế cần được bổ nhiệm với thời gian vô hạn định; Giám Mục giáo phận chỉ có thể bổ nhiệm Cha Sở cho một thời gian hữu hạn, nếu Hội Ðồng Giám Mục đã chấp nhận điều đó qua một nghị quyết.
Ðiều 523: Ðừng kể quy định của điều 682 triệt 1, việc chỉ định giữ chức vụ Cha Sở thuộc thẩm quyền của Giám Mục giáo phận, qua việc tự ý trao phó; trừ khi có người nào được hưởng quyền đề cử hoặc bầu cử.
Ðiều 524: Giám Mục giáo phận, sau khi đã cân nhắc tất cả mọi hoàn cảnh, phải ủy thác giáo xứ đang khuyết vị cho người mà ngài nhận thấy có đủ khả năng chu toàn việc săn sóc giáo xứ, và phải tránh mọi thiên vị cá nhân; để thẩm định về khả năng, ngài hãy tham khảo ý kiến Cha quản hạt và xúc tiến việc thăm dò thích hợp bằng cách tham khảo ý kiến, nếu có thể được, của vài linh mục cũng như giáo dân.
Ðiều 525: Trong lúc trống tòa hoặc cản tòa thì Giám Quản giáo phận hoặc người nào tạm thời quản trị giáo phận được quyền: 1. thiết lập hoặc phê chuẩn những linh mục đã được đề cử hoặc bầu cử hợp lệ cho một giáo xứ; 2. bổ nhiệm các Cha Sở, nếu sự trống tòa hay cản tòa đã kéo dài quá một năm.
Ðiều 526:
(1) Mỗi Cha Sở chỉ phải giữ việc săn sóc một giáo xứ; tuy nhiên, nếu vì
thiếu các linh mục hoặc vì hoàn cảnh nào khác, một Cha Sở có thể được ủy thác săn
sóc nhiều giáo xứ gần kề nhau.
(2) Trong mỗi giáo xứ chỉ được có một Cha Sở hoặc một vị điều hành theo quy tắc
của điều 517 triệt 1; mọi thói quen trái nghịch cần phải bị bài bác và mọi đặc ân phản
nghịch cần phải bị thâu hồi.
Ðiều 527:
(1) Ai đã được tiến cử để giữ việc săn sóc mục vụ cho một giáo xứ, thì
nhận lãnh trách vụ và có nghĩa vụ thi hành kể từ lúc tựu chức.
(2) Bản Quyền sở tại hoặc một Linh Mục được ngài ủy quyền dẫn Cha Sở đến tựu
chức, dựa theo thể thức được chấp nhận do luật địa phương, hoặc do tục lệ hợp pháp.
Tuy nhiên khi có lý do chính đáng, Bản Quyền ấy có thể miễn chuẩn thể thức đó; trong
trường hợp ấy, việc cáo tri sự miễn chuẩn cho giáo xứ có giá trị như sự tựu chức.
(3) Bản Quyền sở tại sẽ ấn định thời hạn mà Cha Sở phải tựu chức; nếu thời hạn đã
trôi qua vô ích không tại một ngăn trở chính đáng, thì có thể tuyên bố giáo xứ khuyết vị.
Ðiều 528:
(1) Cha Sở có bổn phận dự liệu để Lời Chúa được rao truyền cách toàn
vẹn cho mọi người đang cư ngụ trong giáo xứ; vì thế phải lo giảng dạy các giáo dân về
các chân lý Ðức Tin, nhất là nhờ việc giảng lễ trong các ngày Chúa Nhật và các ngày Lễ Buộc, và nhờ việc dạy đạo lý; ủng hộ giúp đỡ những Chương trình nhằm cổ động
tinh thần Phúc Âm kể cả trong lãnh vực công bình xã hội; cần phải để ý cách riêng tới
việc giáo dục công giáo cho thiếu nhi và thanh niên; cố gắng, bằng mọi phương tiện có
thể, cùng với sự hợp tác của các tín hữu, để sứ điệp Phúc Âm được đạt đến với cả
những người đã lơ là việc giữ đạo hoặc không tuyên xưng Ðức Tin chân thật nữa.
(2) Cha Sở cố gắng để Bí Tích Thánh Thể trở nên trung tâm của cộng đoàn giáo xứ;
làm sao cho mọi tín hữu được nuôi sống nhờ việc cử hành sốt sắng các bí tích, cách
riêng là thường xuyên lãnh nhận Bí Tích Thánh Thể và Bí Tích Thống Hối; ngoài ra,
hãy cố gắng hướng dẫn các tín hữu biết cầu nguyện, kể cả việc cầu nguyện trong các
gia đình, và biết tham dự cách có ý thức và tích cực vào việc phụng vụ, mà chính Cha
Sở phải là người lo điều hành trong giáo xứ mình, dưới quyền của Giám Mục giáo
phận, và phải canh chừng đừng để xẩy ra những lạm dụng.
Ðiều 529:
(1) Ðể siêng năng chu toàn chức vụ chủ chăn, Cha Sở hãy tìm cách hiểu
biết mọi tín hữu đã ủy thác cho mình săn sóc; vì thế cần đi thăm viếng các gia đình, san
sẻ những lo lắng, ưu tư nhất là tang tóc của các tín hữu, và để an ủi họ trong Chúa;
nếu họ có lỗi lầm gì, thì phải sửa bảo họ cách khôn khéo; đối với những bệnh nhân
nhất là những người gần chết, hãy dốc hết tình bác ái với họ, tăng cường sức lực cho
họ bằng các Bí Tích và phó thác linh hồn họ cho Thiên Chúa; hãy đặc biệt ân cần theo
sát những người nghèo khổ, bệnh tật, những người cô đơn, những người bị lưu đầy và
tất cả những người đang trải qua những sự khó khăn đặc biệt; cũng phải để ý lo cho
các đôi vợ chồng và những người làm cha mẹ được nâng đỡ trong sự chu tất mọi phận
sự riêng của họ và cổ võ sự tăng trưởng đời sống Kitô giáo trong gia đình.
(2) Cha Sở hãy nhận biết và thúc giục mọi tín hữu giáo dân góp phần riêng của họ
vào sứ mệnh của Giáo Hội, bằng cách cổ động các Hiệp Hội nhằm các mục tiêu tôn
giáo. Hãy cộng tác với Giám Mục của mình và với Linh Mục đoàn của giáo phận, và
làm sao cho các tín hữu duy trì sự hiệp thông trong giáo xứ và chính họ tự cảm thấy họ
vừa là phần tử của giáo phận vừa là phần tử của Giáo Hội phổ quát, và để họ dự phần
cũng như nâng đỡ mọi hoạt động nhằm làm gia tăng sự thông hiệp ấy.
Ðiều 530: Những trách vụ đã được ủy thác đặc biệt cho Cha Sở là:
1. ban Bí Tích Rửa Tội;
2. ban Bí Tích Thêm Sức cho những người đang trong lúc nguy tử, theo quy tắc của
điều 883 số 3;
3. ban của Ăn Ðàng và Bí Tích Xức Dầu, tuy vẫn tôn trọng quy tắc của điều 1003
triệt 2 và 3; và ban Phép Lành Tòa Thánh cho các bệnh nhân;
4. chứng giám Hôn Phối và làm phép cưới;
5. cử hành lễ nghi an táng;
6. làm phép Giếng Rửa Tội trong mùa Phục Sinh, chủ sự các cuộc rước ngoài thánh
đường, và việc ban phép lành trọng thể ngoài thánh đường;
7. cử hành thánh lễ cách trọng thể hơn trong các ngày Chúa Nhật và trong các ngày
Lễ Buộc.
Ðiều 531: Cho dù một người nào khác đã thi hành chức vụ thuộc giáo xứ, tất cả mọi thứ dâng cúng của các tín hữu trong dịp ấy đều phải bỏ vào quỹ của giáo xứ, trừ khi đối với những đóng góp tự nguyện, ý định của người dâng đã rõ cách nào khác. Giám Mục giáo phận, sau khi đã tham khảo ý kiến của Hội Ðồng Linh Mục, phải ban hành những quy tắc dự liệu về các dâng cúng ấy được dành cho ai cũng như về thù lao cho các giáo sĩ được hưởng khi thi hành chức vụ đó.
Ðiều 532: Trong tất cả mọi hành vi pháp lý, Cha Sở là người đại diện của giáo xứ chiếu theo quy tắc luật định; ngài phải lo để mọi tài sản của giáo xứ được quản lý theo quy tắc của các điều 1281-1288.
Ðiều 533:
(1) Cha Sở có bổn phận phải cư trú trong nhà xứ gần thánh đường; tuy
nhiên, trong những trường hợp đặc biệt vì lý do chính đáng, Bản Quyền sở tại có thể
cho phép Cha Sở trọ ở nơi khác, nhất là ở trong nhà chung dành cho nhiều linh mục,
miễn là phải dự liệu sao để các nhiệm vụ thuộc giáo xứ được chu toàn cách chu đáo và
đắc lực.
(2) Trừ khi có lý do nào hệ trọng, Cha Sở mỗi năm được phép vắng mặt khỏi giáo
xứ để đi nghỉ trong thời kỳ tối đa là một tháng liên tục hay gián đoạn; thời gian đi nghỉ
này không bao gồm những ngày mà Cha Sở phải dự cuộc tĩnh tâm mỗi năm một lần.
Tuy nhiên, để có thể vắng mặt khỏi giáo xứ quá một tuần lễ, Cha Sở buộc phải báo cho
Bản Quyền sở tại biết.
(3) Giám Mục giáo phận có bổn phận ban hành những quy tắc để trong thời gian
Cha Sở vắng mặt, việc săn sóc giáo xứ sẽ được bảo đảm bởi một tư tế với những năng
ân cần thiết.
Ðiều 534:
(1) Sau khi đã nhận giáo xứ, Cha Sở có nghĩa vụ phải dâng thánh lễ cho
đoàn dân đã ủy thác cho mình vào các ngày Chúa Nhật và lễ buộc trong giáo phận; ai
bị ngăn trở hợp lệ thì phải nhờ một người khác dâng lễ thay trong chính các ngày đó
hoặc chính mình dâng lễ vào các ngày khác.
(2) Cha Sở nào lo săn sóc nhiều giáo xứ thì chỉ buộc dâng một thánh lễ cho tất cả
đoàn dân đã ủy thác cho ngài vào những ngày nói ở triệt 1.
(3) Cha Sở nào không chu toàn nghĩa vụ nói ở các triệt 1 và 2, thì ngài phải lo dâng
thánh lễ cho dân sớm hết sức, tất cả số lễ mà ngài đã bỏ sót.
Ðiều 535:
(1) Trong mỗi giáo xứ phải có các sổ sách hàng xứ, tức là Sổ Rửa Tội,
Sổ Hôn Phối, Sổ An Táng và các Sổ khác mà Hội Ðồng Giám Mục hoặc Giám Mục giáo
phận đã quy định; Cha Sở phải lo ghi chép các Sổ Sách đó cách kỹ lưỡng và giữ gìn
cẩn thận.
(2) Trong Sổ Rửa Tội phải ghi chú thêm cả việc Thêm Sức và tất cả những gì liên
hệ tới tình trạng giáo luật của các tín hữu vì lý do Hôn Phối, trừ quy định của điều 1133,
vì lý do dưỡng tử cũng như sự lĩnh chức thánh, khấn trọn đời trong Dòng Tu và sự thay
đổi lễ điển; tất cả những ghi chú đó luôn luôn phải được ghi lại trong chứng thư đã chịu
phép Rửa Tội.
(3) Mỗi giáo xứ phải có triện ấn riêng; các chứng thư về tình trạng giáo luật của các
tín hữu, cũng như tất cả các văn kiện có thể có giá trị pháp lý đều phải được ký nhận
bởi Cha Sở hoặc người được ủy quyền và mang triện của giáo xứ.
(4) Mỗi giáo xứ phải có Công Hàm hoặc Văn Khố trong đó lưu trữ các Sổ Sách của
giáo xứ, cùng với các văn thư của các Giám Mục và các tài liệu khác cần được bảo tồn
vì nhu cầu hoặc vì lợi ích; tất cả các Sổ Sách và các tài liệu đó cần được kiểm soát bởi
Giám Mục giáo phận hoặc người được ủy quyền trong lúc kinh lý hoặc trong thời gian
nào khác thuận tiện. Cha Sở phải đề phòng đừng để cho tất cả các Sổ Sách đó lọt vào
tay người ngoại cuộc.
(5) Những Sổ Sách lâu đời của giáo xứ cũng phải lo lưu giữ cẩn thận, chiếu theo
các quy định của luật địa phương.
Ðiều 536:
(1) Nếu Giám Mục giáo phận xét là thuận lợi, sau khi đã tham khảo ý kiến
của Hội Ðồng Linh Mục, thì trong mỗi giáo xứ nên thành lập Hội Ðồng Mục Vụ, do Cha
Sở chủ tọa, và trong đó các tín hữu cùng với những người chiếu theo chức vụ tham gia
vào việc săn sóc mục vụ trong giáo xứ cùng đóng góp sự cộng tác của mình vào việc
cổ võ sinh hoạt mục vụ.
(2) Hội Ðồng Mục Vụ chỉ có quyền tư vấn, và được điều hành theo các quy tắc do
Giám Mục giáo phận đã ấn định.
Ðiều 537: Mỗi giáo xứ phải có Hội Ðồng Kinh Tế được điều hành bởi luật phổ quát và bởi các quy tắc do Giám Mục giáo phận ban hành; trong Hội Ðồng ấy, các tín hữu được tuyển chọn theo các quy tắc vừa nói, giúp Cha Sở trong việc quản lý mọi tài sản của giáo xứ, tuy vẫn tôn trọng quy định của điều 532.
Ðiều 538:
(1) Cha Sở mãn chức vụ vì bị bãi chức hoặc thuyên chuyển do Giám Mục
giáo phận chiếu theo quy tắc của luật; vì sự tự ý từ chức có lý do chính đáng, và để được hữu hiệu, đơn xin từ chức phải được Giám Mục chấp nhận; kể cả vì hết hạn kỳ
nếu Cha Sở đã được bổ nhiệm với thời hạn nhất định chiếu theo các quy định của luật
địa phương nói ở điều 522.
(2) Việc bãi chức của một Cha Sở phần tử của Dòng Tu hoặc đã nhập tịch vào một
Tu Ðoàn được chi phối bởi các quy tắc của điều 682 triệt 2.
(3) Khi đã được bảy mươi lăm tuổi trọn, Cha Sở được yêu cầu đệ đơn từ chức lên
Giám Mục giáo phận; chính Giám Mục cứu xét mọi hoàn cảnh về cá nhân và nơi chốn
và sẽ quyết định chấp nhận hoặc khoan giãn việc từ chức. Giám Mục giáo phận phải
dự liệu việc cấp dưỡng và nhà ở xứng hợp cho người đã từ chức, dựa theo các quy tắc
do Hội Ðồng Giám Mục đã định.
Ðiều 539: Khi giáo xứ khuyết vị hoặc khi Cha Sở bị ngăn cản không thể thi hành nhiệm vụ mục vụ trong giáo xứ vì bị giam tù, quản thúc hoặc phát lưu, vô năng lực hoặc sức khỏe sa sút, hoặc vì những lý do nào khác, Giám Mục giáo phận phải chỉ định sớm hết sức một Giám Quản giáo xứ, tức là một tư tế thay thế Cha Sở theo quy tắc của điều 540.
Ðiều 540:
(1) Giám Quản giáo xứ buộc phải thi hành các nghĩa vụ và được hưởng
những quyền lợi cũng như Cha Sở, trừ khi Giám Mục giáo phận ấn định thể khác.
(2) Giám Quản giáo xứ không được phép làm điều gì có thể làm thương tổn đến
quyền lợi của Cha Sở hoặc có thể làm thiệt hại cho tài sản của giáo xứ.
(3) Sau khi đã hoàn tất chức vụ, Giám Quản giáo xứ phải thanh toán sổ sách với
Cha Sở.
Ðiều 541:
(1) Trong lúc giáo xứ khuyết vị và cũng như khi Cha Sở bị ngăn cản thi
hành nhiệm vụ mục vụ, trước khi Giám Quản được đặt lên, thì việc quản trị tạm thời
giáo xứ sẽ do cha phó đảm nhiệm; nếu có nhiều cha phó, thì cha phó nào được bổ
nhiệm trước hết; và nếu không có cha phó, thì do Cha Sở nào được luật địa phương
chỉ định.
(2) Ai lo quản trị giáo xứ theo quy tắc triệt 1 nói trên đây, phải lập tức báo tin cho
Bản Quyền sở tại biết về việc giáo xứ khuyết vị.
Ðiều 542: Các tư tế, theo quy tắc của điều 517 triệt 1, được ủy thác liên đới săn sóc
mục vụ cho một giáo xứ hoặc cho nhiều giáo xứ một trật thì:
1. cần phải có đủ mọi tư cách như nói ở điều 521;
2. được bổ nhiệm hoặc được thiết lập theo quy tắc của những điều 522 và 524;
3. chỉ đảm nhiệm việc săn sóc mục vụ kể từ lúc tựu chức; trưởng ban điều hành
được dẫn tới tựu chức chiếu theo quy tắc của điều 527 triệt 2; còn đối với các linh mục
khác thì việc tuyên thệ Ðức Tin cách hợp lệ sẽ thay thế lễ nghi tựu chức.
Ðiều 543:
(1) Nếu nhiều tư tế được ủy thác cách liên đới việc săn sóc mục vụ cho
một giáo xứ hoặc cho nhiều giáo xứ khác nhau một trật, thì mỗi người, theo sự phân
phối do họ ấn định, buộc phải chu toàn mọi nhiệm vụ và mọi trách vụ của Cha Sở theo
các điều luật 528, 529 và 530; năng ân chứng giám Hôn Phối và mọi quyền hành miễn
chuẩn mà luật định đã dành cho Cha Sở thì cũng thuộc thẩm quyền của tất cả các vị,
nhưng các vị cần phải thi hành dưới sự điều khiển của trưởng ban điều hành.
(2) Tất cả các tư tế thuộc nhóm:
1. buộc phải giữ luật về cư trú;
2. đồng ý với nhau đặt ra thứ tự mà mỗi người trong ban phải dâng Thánh Lễ cho
đoàn dân chiếu theo quy tắc của điều 534;
3. trong các công việc pháp lý, chỉ duy có trưởng ban điều hành giữ vai trò đại diện
cho một giáo xứ hoặc cho nhiều giáo xứ đã ủy thác cho nhóm.
Ðiều 544: Khi một linh mục thuộc nhóm nói ở điều 517 triệt 1 hoặc trưởng ban điều hành của nhóm mãn chức, cũng như khi một người trong nhóm trở thành bất lực để thi hành nhiệm vụ mục vụ, thì giáo xứ hoặc các giáo xứ đã ủy thác cho cả nhóm săn sóc không trở thành khuyết vị; tuy nhiên, Giám Mục giáo phận phải bổ nhiệm một trưởng ban điều hành khác; và bao lâu Giám Mục chưa bổ nhiệm trưởng ban thì linh mục nào trong nhóm được bổ nhiệm trước hết sẽ giữ chức vụ đó.
Ðiều 545:
(1) Mỗi khi xét thấy cần thiết hay thuận lợi cho việc săn sóc mục vụ tốt
đẹp của một giáo xứ, thì ngoài Cha Sở ra, có thể đặt một hoặc nhiều cha phó như cộng
sự viên của Cha Sở và san sẻ mọi nỗi lo âu với Cha Sở, đồng tâm nhất trí và dưới
quyền của Cha Sở để thi hành nhiệm vụ mục vụ.
(2) Một cha phó có thể được đặt hoặc để lo toàn thể tác vụ mục vụ trong một giáo
xứ hay một phần nhất định của giáo xứ hay một nhóm tín hữu nào đó thuộc giáo xứ,
hoặc để đảm trách một tác vụ đặc định trong nhiều giáo xứ khác nhau một trật.
Ðiều 546: Ðể một người có thể được bổ nhiệm cách hữu hiệu làm cha phó, thì cần đương sự đã lãnh chức linh mục.
Ðiều 547: Giám Mục giáo phận được tự do bổ nhiệm cha phó, sau khi bàn hỏi ý kiến, nếu thấy tiện, với Cha Sở hoặc với các Cha Sở của những giáo xứ mà cha phó được cử tới, và cả với cha Quản Hạt, đừng kể quy định của điều 682 triệt 1.
Ðiều 548:
(1) Mọi nghĩa vụ và mọi quyền lợi của cha phó được xác định bởi những
điều luật của Chương này, và bởi quy chế của giáo phận và văn thư bổ nhiệm của Giám
Mục giáo phận, và nhất là do ủy nhiệm của Cha Sở.
(2) Nếu văn thư bổ nhiệm của Giám Mục không quy định minh thị cách nào khác,
cha phó, chiếu theo chức vụ, có nghĩa vụ giúp Cha Sở trong toàn thể tác vụ thuộc giáo
xứ, ngoại trừ việc dâng thánh lễ cho dân, và có nghĩa vụ thay thế Cha Sở nếu trường
hợp xảy ra, theo quy tắc luật định.
(3) Cha phó phải thường xuyên báo cáo cho Cha Sở biết mọi Chương trình mục vụ
đã hoạch định hoặc đang tiến hành, ngõ hầu Cha Sở và cha phó hoặc các cha phó sẽ
cùng hợp lực với nhau để dự liệu việc săn sóc mục vụ cho giáo xứ, mà họ đồng lãnh
trách nhiệm.
Ðiều 549: Khi Cha Sở vắng mặt, nếu Giám Mục giáo phận không dự liệu cách nào khác theo quy tắc điều 533 triệt 3 và nếu không đặt Giám Quản giáo xứ, thì phải giữ những quy định của điều 541 triệt 1; trong trường hợp ấy, cha phó cũng có tất cả mọi nghĩa vụ của Cha Sở, trừ việc dâng thánh lễ cho dân.
Ðiều 550:
(1) Cha phó buộc phải cư trú trong giáo xứ, hoặc trong một trong các giáo
xứ nếu đương sự được đặt làm phó cho nhiều giáo xứ. Tuy nhiên, khi có lý do chính
đáng, Bản Quyền sở tại có thể cho phép cha phó cư trú nơi khác nhất là trong nhà
chung dành cho các linh mục, miễn sao việc chu toàn các nhiệm vụ mục vụ không vì
thế mà bị thiệt thòi.
(2) Ở đâu có thể, Bản Quyền sở tại nên lo liệu để Cha Sở và các cha phó thực hành
thói quen sống chung với nhau cách nào đó trong nhà xứ.
(3) Về thời gian đi nghỉ, cha phó cũng được hưởng quyền lợi giống như Cha Sở.
Ðiều 551: Ðối với những của dâng cúng mà các tín hữu dành cho cha phó trong khi thi hành tác vụ mục vụ, thì phải tuân giữ các quy định của điều 531.
Ðiều 552: Khi có lý do chính đáng, cha phó có thể bị Giám Mục giáo phận hoặc Giám Quản giáo phận bãi chức, miễn là tôn trọng quy định của điều 682 triệt 2.
Ðiều 553:
(1) Cha Quản Hạt, cũng gọi là Niên Trưởng hoặc Tổng Linh Mục hoặc
một danh xưng nào khác, là một tư tế được đặt làm đầu một Giáo Hạt.
(2) Nếu luật địa phương không ấn định cách khác, thì Cha Quản Hạt do Giám Mục
giáo phận bổ nhiệm; tùy theo sự nhận định khôn ngoan, ngài nên tham khảo ý kiến các
linh mục hiện đang thi hành tác vụ trong Giáo Hạt.
Ðiều 554:
(1) Chức vụ Cha Quản Hạt không được gắn liền với chức vụ Cha Sở của
một giáo xứ nào nhất định; Giám Mục hãy lựa chọn tư tế nào mà ngài nhận xét thấy có
khả năng, sau khi ngài đã thẩm định mọi hoàn cảnh về nơi chốn và thời thế.
(2) Cha Quản Hạt được bổ nhiệm với thời hạn nhất định, do luật địa phương xác
định.
(3) Tùy theo sự quyết định khôn ngoan, Giám Mục giáo phận có thể tự do bãi chức
Cha Quản Hạt khi có lý do chính đáng.
Ðiều 555:
(1) Cha Quản Hạt, ngoài những năng ân mà luật địa phương đã dành cho ngài cách hợp lệ, có nghĩa vụ và quyền lợi:
1. cổ võ và phối hợp hoạt động mục vụ chung trong Giáo Hạt;
2. lo liệu để các giáo sĩ trong hạt sống xứng đáng với bậc mình, và siêng năng chu
toàn mọi nghĩa vụ của mình;
3. dự liệu mọi nghi lễ tôn giáo được cử hành theo đúng mọi quy định của Phụng Vụ;
để ý đến việc trang hoàng và sự sạch sẽ trong các thánh đường và các đồ thánh, nhất
là trong việc cử hành Thánh Lễ và trong việc lưu trữ Thánh Thể; trông coi về việc ghi
chép và lưu trữ các sổ sách nhà xứ, về việc quản lý chu đáo mọi tài sản của Giáo Hội;
sau cùng, về sự bảo trì cẩn thận các nhà xứ.
(2) Trong Giáo Hạt đã ủy thác, Cha Quản Hạt phải:
1. làm sao để các giáo sĩ, theo những quy định của luật địa phương, đi tham dự vào
những thời kỳ đã định, các khóa học, các lớp hội thảo về Thần Học hoặc những buổi
thuyết trình chiếu theo quy tắc của điều 279 triệt 2;
2. phải lo để giúp đỡ các linh mục trong Hạt về mặt thiêng liêng, và phải tỏ ra ân cần
đối với các linh mục hiện đang gặp phải những hoàn cảnh khó khăn hoặc đang bị dày
vò về nhiều vấn đề.
(3) Cha Quản Hạt phải lo để các Cha Sở thuộc Hạt mà mình biết là hiện bị đau
nặng, sẽ không bị thiếu thốn về phương diện tinh thần cũng như vật chất, và lo cho việc
an táng các Cha Sở được cử hành xứng đáng; cũng phải dự liệu để khi Cha Sở lâm
bệnh hoặc qua đời, thì mọi sổ sách, mọi tài liệu, mọi đồ vật thánh và tất cả những gì
khác thuộc về thánh đường không bị hư hại hoặc mất mát.
(4) Cha Quản Hạt có bổn phận thăm viếng tất cả các giáo xứ thuộc Hạt của mình
theo thể thức mà Giám Mục giáo phận đã ấn định.
Ðiều 556: Các Quản Ðốc nhà thờ được hiểu ở đây là các tư tế được ủy thác săn sóc một nhà thờ để cử hành lễ nghi ở đó. Nhà thờ ấy không thuộc giáo xứ, cũng không thuộc Hội Kinh Sĩ, cũng không phải phụ thuộc vào tu viện của Dòng Tu hay Tu Ðoàn Tông Ðồ.
Ðiều 557:
(1) Quản Ðốc nhà thờ sẽ do Giám Mục giáo phận tự do bổ nhiệm, miễn là
tôn trọng quyền bầu cử hoặc đề cử mà người nào đó đã có cách hợp lệ; trong trường
hợp này, Giám Mục giáo phận có quyền phê chuẩn hoặc thiết lập.
(2) Cho dù nhà thờ thuộc một dòng tu giáo sĩ theo luật Giáo Hoàng, thì Giám Mục
giáo phận vẫn có thẩm quyền thiết lập Quản Ðốc nhà thờ do Bề Trên đề cử.
(3) Giám Ðốc của chủng viện hoặc của trường học do các giáo sĩ điều hành sẽ làm
Quản Ðốc của một nhà thờ gắn liền với chủng viện hoặc với trường học ấy, trừ khi
Giám Mục giáo phận định thể khác.
Ðiều 558: Ngoại trừ điều 262, Quản Ðốc không được phép thi hành trong nhà thờ đã ủy thác cho mình những trách vụ giáo xứ nói ở điều 530 số 1-6, nếu không có sự đồng ý của Cha Sở hoặc sự ủy quyền của Cha Sở nếu sự việc đòi hỏi.
Ðiều 559: Trong nhà thờ đã ủy thác cho mình, Quản Ðốc có thể thi hành mọi nghi lễ phụng vụ kể cả một cách trọng thể, miễn là giữ những luật lệ thành lập hợp lệ và miễn là, theo thẩm định của Bản Quyền sở tại, không làm thiệt hại gì cho tác vụ của giáo xứ.
Ðiều 560: Ở đâu xét thấy thuận lợi, Bản Quyền sở tại có thể truyền cho Quản Ðốc phải cử hành trong nhà thờ vài nghi lễ nhất định dành cho giáo dân, tuy dù thuộc trách vụ giáo xứ, cũng như phải mở cửa nhà thời cho một vài nhóm tín hữu tới đó để cử hành những nghi lễ Phụng Vụ.
Ðiều 561: Nếu không có phép của Quản Ðốc hoặc của một Bề Trên hợp lệ nào khác, không ai được phép cử hành Thánh Lễ, ban các Bí Tích hoặc thi hành các nghi lễ trong nhà thờ; sự cho phép này phải được cấp ban hoặc từ chối dựa theo quy tắc luật định.
Ðiều 562: Dưới quyền của Bản Quyền sở tại và tôn trọng mọi quy chế hợp lệ và những quyền lợi thủ đắc, Quản Ðốc nhà thờ buộc phải lo liệu để mọi nghi lễ thánh được cử hành xứng đáng trong nhà thờ theo đúng quy tắc Phụng Vụ và các quy định của các luật; để các trách vụ được thi hành chu đáo, để tài sản được quản lý cách chuyên cần, các đồ thánh và nơi thánh được bảo trì và trang hoàng, và đừng để xảy ra điều gì không thích hợp bằng bất cứ cách nào đối với nơi thánh và sự tôn kính phải có đối với nhà Chúa.
Ðiều 563: Khi có lý do chính đáng và tùy theo sự quyết định khôn ngoan của mình, Bản Quyền sở tại có thể bãi chức Quản Ðốc nhà thờ cho dù vị đó đã được bầu cử hoặc đã được đề cử bởi những người khác, miễn là tôn trọng quy định của điều 682 triệt 2.
Ðiều 564: Tuyên Úy là một tư tế được ủy thác việc săn sóc mục vụ cách thường xuyên, ít là một phần nào, của một cộng đoàn hoặc cho một nhóm tín hữu đặc biệt, và phải thi hành theo đúng quy tắc của luật phổ quát và luật địa phương.
Ðiều 565: Bản Quyền sở tại có quyền bổ nhiệm Tuyên Úy, cũng như có quyền thiết lập người đã được đề cử hoặc phê chuẩn người đã được bầu cử, trừ khi luật đã dự liệu cách khác hoặc người nào khác đã có quyền đặc biệt hợp lệ.
Ðiều 566:
(1) Tuyên Úy cần được cấp cho mọi năng ân mà công việc săn sóc mục
vụ đòi hỏi. Ngoài những năng ân đã được hưởng do luật địa phương hoặc do ủy nhiệm
đặc biệt. Tuyên Úy chiếu theo chức vụ, có năng ân giải tội cho các tín hữu đã ủy thác
cho ngài săn sóc, rao giảng Lời Chúa cho họ, ban của Ăn Ðàng và ban Bí Tích Xức
Dầu bệnh nhân, cũng như Bí Tích Thêm Sức cho những ai hiện đang trong tình trạng
nguy tử.
(2) Trong các bệnh viện, khám đường và trong các hành trình hàng hải, Tuyên Úy
còn được năng ân được giải các vạ tiền kết không dành riêng cho Tòa Thánh và chưa
tuyên bố, đừng kể quy định của điều 976; năng ân ấy chỉ được thi hành trong những
nơi vừa nói.
Ðiều 567:
(1) Bản Quyền sở tại không nên bổ nhiệm Tuyên Úy cho một Dòng Tu
giáo dân mà không tham khảo ý kiến của Bề Trên; Bề Trên có quyền đề cử một linh
mục, sau khi đã hội ý với cộng đoàn.
(2) Tuyên Úy có quyền cử hành hoặc điều khiển mọi nghi lễ Phụng Vụ; nhưng
không được phép can thiệp vào việc quản trị nội bộ của Dòng.
Ðiều 568: Ðối với những người vì điều kiện sinh sống không thể được hưởng sự săn sóc thông thường của các Cha Sở, chẳng hạn như những người di cư, lưu vong, tỵ nạn, du mục, thủy thủ, thì tùy mức độ có thể, nên đặt các Tuyên Úy để giúp họ.
Ðiều 569: Các Tuyên Úy của quân đội được chi phối bởi những luật đặc biệt.
Ðiều 570: Nếu là một nhà thờ không phải là giáo xứ gắn liền với trụ sở của một cộng đoàn hoặc của một nhóm, thì Tuyên Úy sẽ làm Quản Ðốc nhà thờ ấy, trừ khi việc săn sóc cộng đoàn hoặc nhà thờ đòi hỏi cách khác.
Ðiều 571: Trong khi thi hành nhiệm vụ mục vụ, Tuyên Úy cần duy trì sự phối hiệp đúng mức với Cha Sở.
Ðiều 572: Về việc bãi chức Tuyên Úy, phải tuân giữ quy định của điều 563.