Ðiều 573:
(1) Ðời sống tận hiến qua việc tuyên giữ các lời khuyên Phúc Âm là một
lối sống bền vững, nhờ đó các tín hữu theo sát Ðức Kitô, dưới tác động của Thánh
Linh, tự hiến hoàn toàn cho Thiên Chúa như Ðấng đáng mến yêu tột bậc, ngõ hầu, một
khi đã hiến thân, với một danh nghĩa mới và đặc biệt, cho việc tôn vinh Thiên Chúa, cho
việc kiến thiết Giáo Hội và cho phần rỗi thế giới, họ nhắm tới đức ái hoàn thiện trong
việc phục vụ nước Chúa, và trở thành dấu chỉ rực rỡ trong Giáo Hội tiên báo vinh
quang trên trời.
(2) Các tín hữu được tự do chấp nhận lối sống ấy trong các hội dòng tận hiến đã
được nhà chức trách có thẩm quyền của Giáo Hội thiết lập theo giáo luật, bằng việc
tuyên giữ các lời khuyên Phúc Âm khiết tịnh, khó nghèo, và vâng lời, nhờ lời khấn hay
các mối dây ràng buộc khác. Những người ấy kết hợp với Giáo Hội và mầu nhiệm Giáo
Hội cách đặc biệt do đức ái mà các lời khuyên này đưa tới.
Ðiều 574:
(1) Hàng ngũ của những người tuyên giữ các lời khuyên Phúc Âm trong
các hội dòng tận hiến thuộc về sức sống và sự thánh thiện của Giáo Hội; do đó cần
được hết mọi người trong Giáo Hội nâng đỡ và cổ võ.
(2) Thiên Chúa kêu gọi đặc biệt một số tín hữu vào hàng ngũ ấy, để họ hưởng nhờ
hồng ân đặc biệt trong đời sống Giáo Hội và giúp ích cho sứ mạng cứu rỗi của Giáo
Hội, theo mục tiêu và tinh thần của hội dòng.
Ðiều 575: Các lời khuyên Phúc Âm, dựa trên giáo huấn và gương mẫu của Ðức Kitô như vị Tôn Sư, là hồng ân của Chúa ban và Giáo Hội lĩnh nhận từ Ðức Kitô và, nhờ ơn Người, Giáo Hội luôn luôn bảo toàn.
Ðiều 576: Nhà chức trách có thẩm quyền trong Giáo Hội có nhiệm vụ giải thích các lời khuyên Phúc Âm, điều hành việc thi hành chúng qua các luật lệ, và thiết lập các lối sống bền vững bằng việc phê chuẩn theo giáo luật, cũng như lo liệu, trong phạm vi của mình, để các hội dòng tăng trưởng và phát triển theo tinh thần của sáng lập viên và theo các truyền thống lành mạnh.
Ðiều 577: Trong Giáo Hội có rất nhiều hội dòng tận hiến với những linh ân khác nhau tùy theo ơn sủng được ban cho họ; thực vậy, họ theo sát Ðức Kitô hoặc khi Ngài cầu nguyện, hoặc khi Ngài loan báo Nước Chúa, hoặc khi Ngài thi ân cho nhân loại, hoặc sống giữa người đời, nhưng luôn luôn làm theo ý của Chúa Cha.
Ðiều 578: Tất cả moị người phải trung thành duy trì chủ tâm và ý định của các vị sáng lập đã được nhà chức trách có thẩm quyền của Giáo Hội châu phê, về bản chất, mục đích, tinh thần và đặc tính của mỗi hội dòng, cũng như về những truyền thống lành mạnh và tất cả những gì cấu tạo nên gia sản của hội dòng.
Ðiều 579: Trong lãnh thổ của mình, các Giám Mục giáo phận có thể thành lập các hội dòng tận hiến bằng nghị định hợp thức, miễn là sau khi đã bàn hỏi ý kiến của Tòa Thánh.
Ðiều 580: Việc kết nạp một hội dòng tận hiến với một hội dòng khác được dành cho nhà chức trách có thẩm quyền của hội dòng đứng kết nạp. Việc kết nạp luôn luôn phải duy trì sự tự trị của hội dòng được kết nạp.
Ðiều 581: Việc phân chia tu hội thành từng phân chi dưới bất cứ danh xưng nào, việc thành lập các phân chi, sát nhập, hoặc thay đổi cương giới của các phân chi đã thành lập, đều thuộc về thẩm quyền của nhà chức trách của hội dòng, chiếu theo quy tắc của hiến pháp.
Ðiều 582: Tòa Thánh dùng quyền sát nhập hay thống nhất các hội dòng tận hiến. Việc liên kết hay liên minh các hội dòng cũng được dành cho Tòa Thánh.
Ðiều 583: Trong các hội dòng tận hiến không được thay đổi các yếu tố đã được Tòa Thánh châu phê khi không có phép Tòa Thánh.
Ðiều 584: Tòa Thánh là thẩm quyền duy nhất có quyền giải tán một hội dòng. Tòa Thánh cũng dành quyền định đoạt về tài sản của hội dòng ấy.
Ðiều 585: Việc giải tán một phân chi của hội dòng thì thuộc thẩm quyền của nhà chức trách của chính hội dòng.
Ðiều 586:
(1) Giáo Luật nhìn nhận cho mỗi hội dòng được hưởng một sự tự trị
chính đáng về nếp sống, nhất là trong việc cai trị, nhờ đó họ được hưởng một kỷ luật
riêng trong Hội Thánh và có thể bảo tồn nguyên vẹn gia sản riêng đã nói ở điều 587.
(2) Bản Quyền địa phương có bổn phận tôn trọng và bảo đảm sự tự trị ấy.
Ðiều 587:
(1) Ðể bảo vệ ơn kêu gọi và chân tướng của mỗi hội dòng cách trung
thành hơn, bộ luật nền tảng hay hiến pháp của bất cứ hội dòng nào cũng cần phải chứa
đựng những quy tắc nền tảng về việc cai trị hội dòng và kỷ luật của các phần tử, việc
thu nhận và huấn luyện các phần tử, cũng như đối tượng riêng của các mối ràng buộc
thánh, thêm vào những gì mà điều 578 đã ấn định phải duy trì.
(2) Bộ luật vừa nói phải được nhà chức trách có thẩm quyền của Giáo Hội phê
chuẩn, và chỉ có thể được thay đổi khi được thẩm quyền ấy thỏa thuận.
(3) Trong bộ luật ấy cần phải dung hợp khéo léo các yếu tố thiêng liêng với các yếu
tố pháp lý; nhưng không nên gia tăng các quy tắc khi không cần thiết.
(4) Các quy tắc khác, do nhà chức trách có thẩm quyền của hội dòng quy định, sẽ
được thu thập cẩn thận trong các bộ luật khác. Các bộ luật này có thể được tùy nghi
duyệt lại và thích ứng cho hợp với những đòi hỏi của nơi chốn và thời thế.
Ðiều 588:
(1) Hàng ngũ đời tận hiến, tự bản chất, không phải là giáo sĩ cũng chẳng
phải là giáo dân.
(2) Một hội dòng được gọi là "giáo sĩ" khi nào, chiếu theo mục tiêu hay ý định mà vị
sáng lập nhằm tới, hoặc chiếu theo truyền thống hợp lệ, hội dòng được đặt dưới sự
điều khiển của các giáo sĩ, đảm nhận việc thi hành chức thánh, và được nhà chức trách
Giáo Hội nhìn nhận như vậy.
(3) Một hội dòng được gọi là "giáo dân" khi được nhà chức trách Giáo Hội nhìn nhận
như vậy. Dựa theo bản chất, đặc tính và mục tiêu của mình, hội dòng có một nhiệm vụ
riêng - đã được xác định bởi vị sáng lập hay bởi truyền thống hợp lệ - theo đó không
bao hàm việc thi hành chức thánh.
Ðiều 589: Hội dòng tận hiến được coi là thuộc luật giáo hoàng nếu được Tòa Thánh thành lập hay phê chuẩn do nghị định hợp thức. Hội dòng tận hiến được coi là thuộc luật giáo phận, nếu được Giám Mục giáo phận thành lập và chưa nhận được nghị định phê chuẩn của Tòa Thánh.
Ðiều 590:
(1) Các hội dòng tận hiến, xét vì đã đặc biệt dâng mình phục vụ Thiên
Chúa và toàn thể Giáo Hội, nên phải phục tùng nhà chức trách tối cao của Giáo Hội
một cách riêng biệt.
(2) Mỗi phần tử của các hội dòng có nghĩa vụ vâng lời Ðức Thánh Cha như bề trên
tối cao, kể cả chiếu theo mối ràng buộc thánh của đức vâng lời.
Ðiều 591: Ðể lo liệu thiện ích của hội dòng và các nhu cầu của việc tông đồ cách hoàn hảo hơn, Ðức Thánh Cha, chiếu theo quyền tối thượng trên toàn Giáo Hội và xét đến lợi ích chung, có thể miễn trừ các hội dòng tận hiến khỏi quyền cai trị của các Bản Quyền sở tại, và đặt họ trực tiếp tùy thuộc một mình ngài hay một nhà chức trách khác trong Giáo Hội.
Ðiều 592:
(1) Ðể cổ võ sự thông hiệp giữa các hội dòng với Tòa Thánh cách hoàn
hảo hơn, tất cả các Bề Trên tổng quyền phải gửi cho Tòa Thánh một bản tường trình
sơ lược về tình hình và đời sống hội dòng, theo cách thức và thời hạn do chính Tòa
Thánh định.
(2) Các Bề Trên của mỗi hội dòng hãy cổ động để các văn kiện Tòa Thánh liên can
đến các phần tử được ủy thác cho họ được am tường, và họ hãy theo dõi việc tuân
hành các văn kiện ấy.
Ðiều 593: Các hội dòng thuộc luật giáo hoàng tùy thuộc trực tiếp và duy nhất vào quyền Tòa Thánh trong việc cai trị nội bộ và kỷ luật, tuy vẫn tôn trọng điều 586.
Ðiều 594: Các hội dòng thuộc luật giáo phận được đặt dưới sự chăm sóc đặc biệt của Giám Mục giáo phận, tuy vẫn tôn trọng điều 586.
Ðiều 595:
(1) Giám Mục của trụ sở chính có thẩm quyền châu phê hiến pháp, chuẩn
y các sự thay đổi đã được du nhập cách hợp lệ, ngoại trừ những điều mà Tòa Thánh
đã đặt tay vào; Giám Mục cũng có thẩm quyền giải quyết những vấn đề hệ trọng liên
can tới toàn thể hội dòng song vượt quá quyền hạn của nhà chức trách nội bộ. Tuy
nhiên, nếu hội dòng đã bành trướng qua nhiều giáo phận, thì Giám Mục của trụ sở
chính phải bàn hỏi các Giám Mục giáo phận khác nữa.
(2) Trong trường hợp riêng biệt, Giám Mục giáo phận có thể miễn chuẩn hiến pháp.
Ðiều 596:
(1) Các Bề Trên và các đại hội của các hội dòng được hưởng quyền
hành trên các phần tử; quyền hành ấy do luật phổ quát và hiến pháp xác định.
(2) Ngoài ra, trong các dòng tu giáo sĩ theo luật giáo hoàng, các Bề Trên được
hưởng quyền cai trị của Giáo Hội, ở tòa ngoài cũng như tòa trong.
(3) Ðối với quyền hành nói ở triệt 1, sẽ áp dụng các quy định của các điều 131, 133,
và 137-144.
Ðiều 597:
(1) Hết mọi người công giáo, có ý ngay, hội đủ các đức tính do luật phổ
quát và luật riêng đòi hỏi, không vướng mắc các ngăn trở, có thể được thu nhận vào
một hội dòng tận hiến.
(2) Không ai được thâu nhận mà không được chuẩn bị thích đáng.
Ðiều 598:
(1) Mỗi hội dòng phải quy định trong hiến pháp cách thức tuân giữ các lời
khuyên Phúc Âm khiết tịnh, khó nghèo, và vâng lời, trong lối sống của mình, chiếu theo
đặc tính và cứu cánh riêng.
(2) Tất cả các phần tử không những phải tuân giữ trung thành và toàn vẹn các lời
khuyên Phúc Âm, mà còn phải uốn nắn đời mình hợp với luật riêng của hội dòng, và
như vậy cố gắng đạt tới sự trọn lành của hàng ngũ mình.
Ðiều 599: Lời khuyên Phúc Âm khiết tịnh chấp nhận vì Nước Trời, xét vì là dấu chỉ của thế giới tương lai và nguồn mạch phong nhiêu trù phú trong một con tim không chia sẻ, bao hàm nghĩa vụ tiết chế hoàn toàn trong sự độc thân.
Ðiều 600: Lời khuyên Phúc Âm khó nghèo để bắt chước Ðức Kitô, Ðấng tuy giàu sang nhưng đã trở nên nghèo vì chúng ta, ngoài một nếp sống nghèo cả về thực chất lẫn tinh thần, cần cù và thanh đạm, không dính bén tài sản thế tục, còn mang kèm theo sự lệ thuộc và hạn chế trong việc xử dụng và định đoạt tài sản, chiếu theo quy tắc của luật riêng của từng hội dòng.
Ðiều 601: Lời khuyên Phúc Âm vâng lời, được chấp nhận trong tinh thần tin yêu để theo Ðức Kitô vâng lời cho đến chết, bó buộc ý chí phải tùng phục các Bề Trên hợp pháp, khi họ thay mặt Thiên Chúa truyền khiến hợp theo hiến pháp riêng.
Ðiều 602: Ðời sống huynh đệ, với đặc điểm riêng thích hợp với mỗi hội dòng, nhờ đó các phần tử được kết hợp trong Ðức Kitô dường như trong một gia đình đặc biệt, cần được xác định cách nào để trở nên một sự hỗ trợ cho tất cả các phần tử trong việc chu toàn ơn gọi của mỗi người. Do sự thông hiệp huynh đệ, được đâm rễ và xây dựng trên Ðức ái, các phần tử phải trở nên gương mẫu của sự hòa giải đại đồng trong Ðức Kitô.
Ðiều 603:
(1) Ngoài những hội dòng tận hiến ra, Giáo Hội còn nhìn nhận đời sống
ẩn tu, trong đó các tín hữu dâng mình để ngợi khen Thiên Chúa và lo phần rỗi của thế giới qua việc tách biệt hơn khỏi trần thế, giữ thinh lặng cô tịch, cầu nguyện liên lỉ và
hãm mình.
(2) Một ẩn sĩ được luật nhìn nhận như kẻ dâng mình cho Chúa trong đời tận hiến
nếu họ công khai tuyên giữ ba lời khuyên Phúc Âm, bằng lời khấn hay dây ràng buộc
nào khác, trong tay Giám Mục giáo phận và tuân theo một chương trình sinh sống dưới
sự hướng dẫn của Giám Mục.
Ðiều 604:
(1) Tương tự với những hình thức đời tận hiến là hàng các trinh nữ, tức
những người tuyên bố ý định theo sát Ðức Kitô, được đức Giám Mục giáo phận cung
hiến cho Thiên Chúa theo nghi thức phụng vụ được chuẩn y; họ kết hôn cách thần bí
với Ðức Kitô Con Thiên Chúa và dâng mình phục vụ Giáo Hội.
(2) Các trinh nữ có thể lập hội để nhờ sự trợ giúp lẫn nhau, họ thực hiện ý định của
họ cách trung thành hơn và chu toàn việc phục vụ Giáo Hội hợp với hàng ngũ của
mình.
Ðiều 605: Tòa Thánh dành riêng cho mình việc châu phê các hình thức mới của đời tận hiến. Tuy vậy các Giám Mục giáo phận hãy ra sức nhận định các hồng ân mới của đời tận hiến mà Chúa Thánh Thần ban cho Giáo Hội, và giúp đỡ những người khởi xướng để họ thực hiện các ý định cách mỹ mãn, và bảo vệ họ bằng những quy chế thích hợp, nhất là bằng cách áp dụng các quy tắc tổng quát chứa đựng trong phần này.
Ðiều 606: Những gì đã định về các hội dòng và các phần tử của họ đều có giá trị ngang nhau cho cả hai phái nam nữ, trừ khi đã rõ cách nào khác do mạch văn hay do bản chất sự việc.
Ðiều 607:
(1) Ðời sống tu trì, xét vì là sự hiến dâng hoàn toàn bản thân, biểu lộ
trong Giáo Hội cuộc kết hôn huyền diệu mà Thiên Chúa đã thiết lập như dấu chỉ của
đời sau. Như vậy tu sĩ hoàn tất sự trao hiến toàn vẹn tựa như hy lễ dâng cho Thiên
Chúa, nhờ đó tất cả cuộc đời của họ trở nên việc liên lỉ thờ phượng Thiên Chúa trong
đức ái.
(2) Dòng tu là một hội xã trong đó các phần tử tuyên giữ các lời khấn công khai, trọn
đời hay tạm thời, nhưng lặp lại khi mãn hạn tùy theo luật riêng, và sống chung đời
huynh đệ.
(3) Việc các tu sĩ làm chứng công khai cho Ðức Kitô và cho Giáo Hội bao hàm sự xa
cách thế tục, theo một hình thức riêng thích hợp với đặc tính và mục tiêu của mỗi dòng.
Ðiều 608: Cộng đồng tu sĩ phải ở trong một nhà được thành lập hợp lệ, dưới quyền của Bề Trên được chỉ định theo quy tắc của luật. Mỗi nhà phải có ít là một nguyện đường, tại đó cử hành và lưu trữ Thánh Thể như trung tâm đích thực của cộng đồng.
Ðiều 609:
(1) Các nhà của các dòng được thành lập do nhà chức trách có thẩm
quyền chiếu theo hiến pháp, sau khi đã được Ðức Giám Mục giáo phận thỏa thuận
bằng giấy tờ.
(2) Ðể thành lập một nữ đan viện, cần có thêm phép của Tòa Thánh.
Ðiều 610:
(1) Khi thành lập các nhà dòng, cần để ý đến ích lợi của Giáo Hội và của
dòng tu, và phải bảo đảm tất cả những gì cần thiết để các phần tử có thể sống đời tu
thích đáng, đúng với mục đích riêng và tinh thần của dòng.
(2) Không nên lập một nhà dòng nếu không thể dự trù được các nhu cầu của các
phần tử sẽ được chu cấp tương xứng.
Ðiều 611: Sự thỏa thuận của Giám Mục giáo phận cho lập một nhà dòng bao hàm
quyền lợi:
1. được sống theo đặc tính và mục đích riêng của dòng;
2. được thi hành các công tác riêng của dòng hợp với quy tắc của luật, tuy phải tôn
trọng các điều kiện đặt ra trong sự thỏa thuận;
3. đối với dòng giáo sĩ, được có một nhà thờ, miễn là giữ quy định của điều 1215
triệt 3, và được thi hành các tác vụ chức thánh, hợp với các điều luật định.
Ðiều 612: Cần phải có sự thỏa thuận của Giám Mục giáo phận khi nhà dòng được xử dụng vào một hoạt động tông đồ khác với hoạt động đã định khi lập nhà. Nhưng sự thỏa thuận ấy không cần nếu sự thay đổi chỉ liên hệ tới tổ chức và kỷ luật nội bộ, miễn là tôn trọng các luật lệ của việc thành lập.
Ðiều 613:
(1) Nhà dòng của các Kinh Sĩ và đan sĩ ở dưới sự cai quản và săn sóc
của Bề trên riêng được gọi là "tự trị" (sui juris), trừ khi hiến pháp ấn định cách khác.
(2) Theo luật, Bề Trên của một nhà "tự trị" được coi là Bề Trên Cao Cấp.
Ðiều 614: Các nữ đan viện được kết nạp với một dòng nam thì vẫn duy trì cách sống và cai quản riêng chiếu theo hiến pháp. Các quyền lợi và nghĩa vụ hỗ tương cần được xác định thế nào để việc kết hợp có thể mang lại thiện ích thiêng liêng cho đôi bên.
Ðiều 615: Giám Mục giáo phận được ủy thác trông coi đặc biệt, chiếu theo quy tắc của luật, đan viện tự trị nào mà ngoài Bề Trên riêng, họ không còn Bề Trên cấp cao nào khác, và cũng không được kết hợp với một dòng nam, vì đó mà Bề Trên của dòng nam được hưởng trên đan viện một quyền hành thực sự, được xác định trong hiến pháp.
Ðiều 616:
(1) Một nhà dòng đã được lập hợp lệ có thể bị giải tán do Bề Trên tổng
quyền theo quy tắc hiến pháp, sau khi đã bàn hỏi Giám Mục giáo phận. Các tài sản của
nhà bị giải tán sẽ do luật riêng dự liệu, với điều kiện là phải tôn trọng ý muốn của các
người sáng lập và dâng cúng, cũng như các quyền lợi thủ đắc hợp lệ.
(2) Tòa Thánh dành quyền giải tán nhà duy nhất của dòng. Trong trường hợp này,
Tòa Thánh cũng dành quyền định đoạt tài sản của nhà ấy.
(3) Sự giải tán một đan viện tự trị nói ở điều 613, là việc thuộc thẩm quyền của tổng
hội, trừ khi hiến pháp định cách khác.
(4) Sự giải tán một nữ đan viện tự trị là việc thuộc quyền của Tòa Thánh, tuy phải
tuân theo các quy tắc hiến pháp trong vấn đề tài sản.
Ðiều 617: Các Bề Trên thi hành nhiệm vụ của mình và hành sử quyền hành chiếu theo quy tắc của luật phổ quát và luật riêng.
Ðiều 618: Trong tinh thần phục vụ, các Bề Trên hãy hành sử quyền hành đã lãnh nhận từ Thiên Chúa qua tác vụ của Giáo Hội. Vì vậy, các vị hãy tỏ ra ngoan ngoãn với ý Chúa trong khi chu toàn nhiệm vụ, cai trị các người thuộc quyền như những người con của Chúa, biết tôn trọng nhân vị của các người ấy qua việc xúc tiến sự vâng lời tự nguyện, vui lòng lắng nghe họ và cổ xúy sáng kiến của họ nhằm thiện ích của dòng và của Giáo Hội, tuy vẫn duy trì quyền của Bề Trên quyết định và truyền khiến điều gì phải làm.
Ðiều 619: Các Bề Trên hãy tận tâm thi hành nhiệm vụ của mình, và cùng với các phần tử được giao phó, hãy tìm cách xây dựng trong Ðức Kitô một cộng đồng huynh đệ, trong đó mọi người tìm kiếm và yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự. Vì vậy các Bề Trên hãy nuôi dưỡng các phần tử với lương thực thường xuyên của lời Chúa và dẫn đưa họ tới cử hành phụng vụ. Các Bề Trên hãy làm gương cho họ về việc trau dồi nhân đức và tuân hành lề luật và truyền thống của Dòng; chu cấp tương xứng các nhu cầu của họ, săn sóc và viếng thăm các người bệnh, sửa trị các người ngỗ nghịch, an ủi những người nhút nhát, nhẫn nại với hết mọi người.
Ðiều 620: Bề Trên cao cấp là những Bề Trên cai trị toàn dòng, một tỉnh của dòng, hay một phần tương đương với tỉnh hay một nhà tự trị, cũng như các đại diện của Bề Trên ấy. Thêm vào đó là các Viện Phụ tổng quyền và các Bề Trên của hội dòng đan tu, tuy những vị này không có tất cả quyền hành mà luật chung dành cho các Bề Trên cao cấp.
Ðiều 621: Ðược gọi là tỉnh dòng, một tổng hợp gồm nhiều nhà với nhau, đặt dưới một Bề Trên, họp thành một phần trực tiếp của dòng, được nhà chức trách hợp pháp thành lập theo giáo luật.
Ðiều 622: Bề Trên tổng quyền có quyền hành trên mọi tỉnh dòng, nhà dòng và tu sĩ, chiếu theo luật. Các Bề Trên khác có quyền hành trong giới hạn của nhiệm vụ.
Ðiều 623: Ðể các phần tử có thể được đặt hay bầu cách hữu hiệu vào một nhiệm vụ, họ cần trải qua một thời gian thích đáng kể từ lúc khấn trọn đời hay vĩnh viễn. Thời gian ấy được ấn định do luật riêng hoặc, nếu là Bề Trên cao cấp, do hiến pháp.
Ðiều 624:
(1) Chức vụ Bề Trên phải được thiết lập với một nhiệm kỳ rõ rệt và thích
hợp, tùy theo bản chất và nhu cầu của dòng, trừ khi hiến pháp định cách khác về Bề
Trên tổng quyền và Bề Trên nhà tự trị.
(2) Luật riêng phải xác định các quy tắc thích hợp để các người làm Bề Trên, được
giao với nhiệm kỳ xác định, không ở trong chức vụ cai trị quá lâu mà không cách
quãng.
(3) Trong khi tại chức, họ có thể bị bãi chức và thuyên chuyển sang chức vụ khác vì
những lý do mà luật riêng đã định.
Ðiều 625:
(1) Bề Trên tổng quyền được chỉ định bằng việc bầu cử theo quy tắc của
hiến pháp.
(2) Việc bầu cử các Bề Trên đan viện tự trị nói ở điều 615 và các Bề Trên tổng
quyền của dòng thuộc luật giáo phận sẽ được chủ tọa bởi Giám Mục tại nơi trụ sở
chính.
(3) Các Bề Trên khác được thiết lập theo quy tắc của hiến pháp, bằng cách là nếu
họ được bầu, thì cần được phê chuẩn do Bề Trên cao cấp có thẩm quyền; nếu họ được
Bề Trên đặt, thì trước đó cần phải có sự thăm dò ý kiến cách xứng hợp.
Ðiều 626: Các Bề Trên khi trao chức vụ, và các phần tử khi bầu cử, phải giữ các quy tắc của luật phổ quát và luật riêng, và phải tránh hết mọi hình thức lạm dụng và thiên tư, và, không nhắm gì khác ngoài Thiên Chúa và thiện ích của dòng, họ hãy đặt hay bầu những người mà họ xét thấy trong Chúa thực là xứng đáng và có khả năng. Ngoài ra trong các cuộc bầu cử, họ hãy tránh việc vận động phiếu trực tiếp hay gián tiếp, cho mình hay cho người khác.
Ðiều 627:
(1) Theo quy tắc hiến pháp, các Bề Trên phải có hội đồng cố vấn riêng,
và Bề Trên hãy nhờ đến sự cộng tác của họ trong khi thi hành chức vụ.
(2) Ngoài những trường hợp luật chung đã định, luật riêng phải xác định những
trường hợp nào đòi hỏi sự thỏa thuận hay tham khảo để hành vi được hữu hiệu theo
quy tắc của điều 127.
Ðiều 628:
(1) Các Bề Trên nào được chỉ định vào nhiệm vụ kinh lý theo luật riêng
thì phải viếng thăm các nhà và các phần tử được giao phó cho họ, vào thời kỳ đã định
và chiếu theo các quy tắc của luật riêng.
(2) Giám Mục giáo phận có quyền và nghĩa vụ kinh lý, kể cả về phần kỷ luật tu trì:
1. các đan viện tự trị nói ở điều 615;
2. mỗi nhà của dòng thuộc luật giáo phận ở trong lãnh thổ của ngài.
(3) Ðối với người kinh lý, các phần tử hãy tỏ ra lòng tín nhiệm; nếu được hỏi điều gì hợp pháp, thì phải trả lời theo sự thật và bác ái. Cấm không ai được làm cách nào để các phần tử thoát khỏi nghĩa vụ kinh lý, hoặc ngăn trở mục tiêu của việc kinh lý bằng cách nào khác.
Ðiều 629: Các Bề Trên phải cư ngụ trong nhà của mình và không được vắng nhà, trừ trường hợp đã được định bởi quy tắc của luật riêng.
Ðiều 630:
(1) Các Bề Trên hãy nhìn nhận cho các phần tử sự tự do thích đáng trong
việc lãnh bí tích thống hối và linh hướng, miễn là bảo toàn kỷ luật của dòng.
(2) Các Bề Trên, chiếu theo luật dòng, hãy lưu tâm sao cho có sẵn các vị giải tội cho
các phần tử, để họ có thể năng xưng tội.
(3) Trong các nữ đan viện, các nhà huấn luyện, các cộng đoàn đông tu sĩ không
giáo sĩ, thì nên có các vị giải tội thường xuyên do Bản Quyền sở tại phê chuẩn, sau khi
đã hỏi ý kiến của cộng đoàn. Tuy nhiên họ không buộc phải xưng tội với các vị ấy.
(4) Các Bề Trên đừng nên nghe các thuộc cấp xưng tội, trừ khi chính các phần tử tự
ý yêu cầu.
(5) Các phần tử hãy đến với các Bề Trên với lòng tin tưởng, và có thể thong dong
và tự ý cởi mở tâm hồn. Tuy nhiên cấm các Bề Trên không được bằng bất cứ cách nào
xui giục họ bày tỏ lương tâm cho mình.
Ðiều 631:
(1) Tổng hội giữ quyền bính tối cao trong dòng chiếu theo các quy tắc của
hiến pháp. Tổng hội cần được cấu tạo cách nào để có thể thay mặt toàn dòng, và như
vậy trở nên dấu chỉ thực sự của sự duy nhất trong bác ái. Tổng hội có nhiệm vụ chính
là: bảo vệ gia sản của dòng đã nói ở điều 578, và xúc tiến việc thích nghi và canh tân
hợp với gia sản ấy; bầu cử Bề Trên tổng quyền; bàn các vấn đề hệ trọng; cũng như
ban hành các quy tắc có tính cách bó buộc tất cả mọi phần tử.
(2) Hiến pháp phải xác định thành phần và phạm vi quyền hành của tổng hội. Luật
riêng cũng sẽ xác định rõ hơn thủ tục tiến hành của tổng hội, nhất là về các việc bầu cử
và cách nghị sự.
(3) Dựa theo các quy tắc đã định trong luật riêng, không những các tỉnh dòng và các
cộng đồng địa phương, mà cả mỗi phần tử đều có thể tự do gửi thỉnh nguyện và đề
nghị lên tổng hội.
Ðiều 632: Luật riêng phải xác định tỉ mỉ những gì thuộc thẩm quyền của các đại hội khác nhau hay những hiệp nghị tương tự của dòng, nghĩa là: về bản chất, quyền hạn, thành phần, cách tiến hành và thời gian cử hành chúng.
Ðiều 633:
(1) Các cơ quan tham luận hay cố vấn phải trung thành thi hành nhiệm vụ
đã được trao phó dựa trên quy tắc của luật phổ quát và luật riêng. Lại nữa, các cơ quan
ấy, tùy cách thức riêng, hãy biểu lộ mối quan tâm và tham gia của tất cả các phần tử
vào thiện ích chung của dòng hay của cộng đồng.
(2) Trong việc thành lập và xử dụng các phương tiện tham luận hay cố vấn ấy, cần
phải thận trọng khôn khéo. Sự điều hành các phương tiện ấy cũng phải phù hợp với
đặc tính và mục đích của dòng.
Ðiều 634:
(1) Các dòng, tỉnh và nhà, xét vì là các pháp nhân theo luật, có khả năng
thủ đắc, chấp hữu, quản trị và chuyển nhượng tài sản, trừ khi khả năng ấy đã bị loại trừ
hay hạn chế do chính hiến pháp.
(2) Tuy nhiên, phải tránh bất cứ hình thức xa hoa nào, cũng như tính cách vô độ
trong việc trục lợi và tích lũy tài sản.
Ðiều 635:
(1) Các tài sản của các dòng, xét vì là tài sản Giáo Hội, nên cũng được
chi phối bởi các quy định của quyển V về tài sản Giáo Hội, trừ khi đã minh thị dự liệu
cách khác.
(2) Tuy nhiên, mỗi dòng phải ấn định các quy tắc thích hợp về sự xử dụng và quản
trị tài sản, nhờ đó sự khó nghèo, hợp với đặc tính của dòng, được cổ võ, bảo vệ và
biểu lộ.
Ðiều 636:
(1) Trong mỗi dòng cũng như trong mỗi tỉnh có một Bề Trên cao cấp
đứng đầu, phải có một người quản lý khác biệt với Bề Trên cao cấp. Quản lý được bổ
nhiệm chiếu theo quy tắc hiến pháp, và điều hành việc quản trị tài sản dưới sự hướng
dẫn của Bề Trên liên hệ. Nếu có thể được, cả trong các cộng đồng địa phương cũng
nên có một quản lý khác biệt với Bề Trên địa phương.
(2) Vào thời kỳ và theo cách thức do luật riêng ấn định, các quản lý và các quản trị
viên khác phải trình sổ sách quản trị cho nhà chức trách có thẩm quyền.
Ðiều 637: Các đan viện tự trị nói ở điều 615 cần phải trình bày sổ sách lên Bản Quyền sở tại mỗi năm một lần. Ngoài ra Bản Quyền sở tại có quyền được thông tri về tình hình kinh tế của mỗi nhà dòng thuộc luật giáo phận.
Ðiều 638:
(1) Trong khuôn khổ của luật phổ quát, luật riêng có nhiệm vụ xác định
những hành vi nào vượt quá mục đích và thể thức của hành vi quản trị thông thường;
luật riêng cũng phải xác định những gì cần thiết để cho hành vi quản trị ngoại thường
có hiệu lực.
(2) Các chi tiêu và các hành vi quản trị thông thường có thể được thực hiện cách
hữu hiệu không những do các Bề Trên mà cả do các viên chức đã được luật riêng chỉ
định vào vai trò ấy, trong giới hạn nhiệm vụ của mình.
(3) Ðể được hữu hiệu, việc chuyển nhượng và bất cứ nghiệp vụ nào khiến cho điều
kiện tài sản của pháp nhân bị thiệt thòi, cần phải có phép bằng giấy tờ của Bề Trên có
thẩm quyền, với sự thỏa thuận của hội đồng cố vấn. Ngoài ra cần phải xin phép Tòa
Thánh nếu là một nghiệp vụ vượt quá số tiền đã được Tòa Thánh ấn định cho từng
vùng, hoặc nếu là các đồ vật đã biếu Giáo Hội nhằm thực thi một lời khấn, hoặc nếu là
các đồ vật quý giá vì giá trị nghệ thuật hay lịch sử.
(4) Ngoài ra, các đan viện tự trị nói ở điều 615 và các dòng thuộc luật giáo phận còn
cần sự thỏa thuận bằng giấy tờ của Bản Quyền sở tại nữa.
Ðiều 639:
(1) Nếu một pháp nhân mắc nợ và nghĩa vụ, cho dù đã có phép của Bề
Trên, thì pháp nhân ấy phải lãnh trách nhiệm.
(2) Nếu một phần tử mắc nợ và nghĩa vụ dựa trên tài sản riêng tư của mình với
phép Bề Trên, thì chính đương sự phải đích thân chịu trách nhiệm. Tuy nhiên, nếu
đương sự thực hiện một nghiệp vụ cho dòng do ủy nhiệm của Bề Trên, thì dòng chịu
trách nhiệm.
(3) Nếu một tu sĩ kết ước không có phép của Bề Trên, thì chính đương sự phải đích
thân lãnh trách nhiệm, chứ không phải pháp nhân.
(4) Tuy vậy, luôn luôn có thể xử dụng tố quyền để đòi lại người đã hưởng lợi lộc tài
sản nhờ việc kết ước.
(5) Các Bề Trên dòng hãy thận trọng đừng cho phép kết nợ: trừ khi biết chắc chắn
rằng với lợi tức thường xuyên, họ có thể trả tiền lời và hoàn lại số vốn trong thời hạn
không quá lâu, bằng cách trả dần.
Ðiều 640: Các dòng tu, chiếu theo hoàn cảnh địa phương, hãy cố gắng nêu cao chứng tá phần nào cách tập thể về bác ái và khó nghèo; tùy theo khả năng, họ hãy dùng tài sản để đóng góp vào nhu cầu của Giáo Hội và giúp đỡ người nghèo.