Ðiều 330: Cũng như, do Thiên Chúa đã thiết định, Thánh Phêrô và các Tông Ðồ khác đã tạo thành một tập đoàn, thì Ðức Thánh Cha, kế vị Phêrô, và các Giám Mục, kế vị các Tông Ðồ cũng liên kết lại với nhau cách tương tự như vậy.
Ðiều 331: Giám Mục của Giáo Hội Roma, nơi Ngài được duy trì nhiệm vụ mà Thiên Chúa đã trao cách đặc biệt cho Phêrô, người đứng đầu trong các Tông Ðồ, và phải được chuyển tiếp cho các người kế vị Ngài, là thủ lãnh của tập đoàn Giám Mục, Ðại diện Ðức Kitô và Chủ chăn của toàn thể Giáo Hội trên trần gian. Vì thế, do uy lực của nhiệm vụ, Ngài có quyền thông thường tối cao, sung mãn, trực tiếp và phổ quát trong Giáo Hội, và Ngài luôn luôn có thể tự do hành sử quyền ấy.
Ðiều 332:
(1) Ðức Thánh Cha nhận lãnh quyền sung mãn và tối cao trong Giáo Hội
do sự bầu cử hợp lệ mà Ngài đã chấp nhận cùng với sự tấn phong Giám Mục. Vì thế,
ai được đắc cử vào chức Giáo Hoàng mà đã có chức Giám Mục, thì lãnh quyền nói trên
ngay chính lúc chấp nhận. Còn nếu người đắc cử không có chức Giám Mục, thì lập tức
phải được truyền chức Giám Mục.
(2) Nếu xảy ra trường hợp Ðức Thánh Cha từ chức, thì để được hữu hiệu, sự từ
chức phải được tự do và được bày tỏ cách hợp thức nhưng không cần được ai chấp
nhận.
Ðiều 333:
(1) Ðức Thánh Cha, do uy lực của nhiệm vụ, có quyền hành không
những trên toàn thể Giáo Hội, mà còn có quyền tối thượng trên tất cả các Giáo Hội địa
phương và các hợp đoàn Giáo Hội địa phương. Quyền tối thượng ấy tăng cường và
bảo vệ quyền riêng biệt, thông thường và trực tiếp mà các Giám Mục nắm giữ trong các
Giáo Hội địa phương được giao phó cho các Ngài coi sóc.
(2) Trong khi thi hành nhiệm vụ Chủ Chăn tối cao của Giáo Hội, Ðức Thánh Cha
luôn luôn thông hợp với các Giám Mục khác và kể cả với toàn thể Giáo Hội. Tuy nhiên,
việc quyết định phương cách, hoặc đơn phương hoặc tập đoàn, để thi hành nhiệm vụ,
tùy theo nhu cầu của Giáo Hội, là quyền của Ngài.
(3) Không thể kháng cáo hoặc thượng tố chống lại một án văn hay nghị định của
Ðức Thánh Cha.
Ðiều 334: Trong khi thi hành nhiệm vụ, Ðức Thánh Cha được hỗ trợ bởi các Giám Mục; các vị có thể cộng tác với Ðức Thánh Cha bằng nhiều phương cách khác nhau, một trong những phương cách đó là Thượng Hội Nghị Giám Mục. Ngoài ra, Ngài còn được sự giúp đỡ của các Hồng Y, các nhân vật khác và các định chế khác nhau, theo nhu cầu của mọi thời đại. Tất cả các nhân vật và các định chế ấy lo chu toàn trách vụ đã giao phó nhằm thiện ích của tất cả các Giáo Hội nhân danh và với quyền hành của Giáo Hoàng, theo những quy tắc luật định.
Ðiều 335: Trong khi Tòa Thánh trống tòa hoặc bị hoàn toàn cản trở, thì không được thay đổi gì trong sự quản trị Giáo Hội phổ quát; nhưng phải tuân hành những luật lệ đặc biệt đã dự liệu cho những hoàn cảnh ấy.
Ðiều 336: Tập Ðoàn Giám Mục gồm bởi Ðức Thánh Cha làm thủ lãnh và các thành phần là các Giám Mục đã được cung hiến bằng bí tích và duy trì sự hiệp thông theo phẩm trật với thủ lãnh và với tất cả các phần tử của tập đoàn. Trong tập đoàn Giám Mục đoàn thể các Tông Ðồ được bền bỉ mãi mãi. Tập đoàn Giám Mục, hợp nhất với thủ lãnh và không bao giờ được thiếu thủ lãnh, cũng là chủ thể của quyền bính tối cao và sung mãn trong toàn thể Giáo Hội.
Ðiều 337:
(1) Tập đoàn Giám Mục hành sử cách long trọng quyền hành trong toàn
thể Giáo Hội ở Công Ðồng hoàn vũ.
(2) Quyền ấy cũng được hành sử qua một hành động chung của các Giám Mục tản
mác khắp thế giới; hành động đó hoặc do Ðức Thánh Cha thúc đẩy hoặc được Ngài tự
do chấp thuận, nhờ đó trở nên một hành động thực sự của tập đoàn.
(3) Tùy theo nhu cầu của Giáo Hội, Ðức Thánh Cha có quyền lựa chọn và cổ võ các
cách thức, nhờ đó tập đoàn Giám Mục có thể thi hành nhiệm vụ của mình với tính cách
tập đoàn đối với toàn thể Giáo Hội.
Ðiều 338:
(1) Duy một mình Ðức Thánh Cha có quyền triệu tập Công Ðồng hoàn
vũ, đích thân hoặc nhờ người khác chủ tọa, di chuyển, đình hoãn, giải tán Công Ðồng,
và phê chuẩn các sắc luật của Công Ðồng hoàn vũ.
(2) Ðức Thánh Cha có thẩm quyền ấn định những vấn đề sẽ bàn luận trong Công
Ðồng và thiết lập điều lệ phải giữ trong Công Ðồng; các nghị phụ của Công Ðồng có thể thêm nhiều vấn đề khác vào những vấn đề đã do Ðức Thánh Cha đề xướng, nhưng
phải được chính Ðức Thánh Cha phê chuẩn.
Ðiều 339:
(1) Tất cả và chỉ có các Giám Mục thành viên của tập đoàn Giám Mục
mới có quyền lợi và nghĩa vụ tham dự Công Ðồng hoàn vũ với quyền biểu quyết.
(2) Ngoài ra, những người khác không có chức Giám Mục, có thể được mời đến
tham dự Công Ðồng Chung do quyền bính tối cao trong Giáo Hội, và chính quyền bính
ấy sẽ chỉ định vai trò của họ trong Công Ðồng.
Ðiều 340: Nếu xảy ra trường hợp Tòa Thánh trống tòa trong thời gian họp Công Ðồng thì chiếu theo luật, Công Ðồng bị gián đoạn cho tới khi Tân Giáo Hoàng truyền lệnh tiếp tục hoặc giải tán.
Ðiều 341:
(1) Mọi quyết nghị của Công Ðồng Chung chỉ có hiệu lực bó buộc khi đã
được Ðức Thánh Cha cùng với các nghị phụ Công Ðồng phê chuẩn, và sau đó được
Ðức Thánh Cha công bố nhận và ra lệnh ban hành.
(2) Cũng cần phải có sự công nhận và ban hành như trên để có hiệu lực bó buộc
các quyết nghị do tập đoàn Giám Mục đề ra, do một hành động thực sự tập đoàn theo
cách thức nào khác do Ðức Thánh Cha thúc đẩy hay được Ngài tự do chấp nhận.
Ðiều 342: Thượng Hội Nghị Giám Mục là một đại hội gồm các Giám Mục được tuyển chọn từ nhiều miền khác nhau trên thế giới, tụ họp lại vào những thời kỳ được ấn định, để cổ võ sự hiệp nhất chặt chẽ giữa Ðức Thánh Cha với các Giám Mục, và để giúp ý kiến cho Ðức Thánh Cha trong việc bảo vệ và tăng tiến Ðức Tin và phong hóa, và trong việc duy trì và củng cố kỷ luật Giáo Hội; ngoài ra, còn để nghiên cứu các vấn đề liên quan tới hoạt động của Giáo Hội trong thế giới.
Ðiều 343: Thượng Hội Nghị Giám Mục có thẩm quyền bàn thảo tất cả các vấn đề đã đề ra và bày tỏ ý kiến của mình, nhưng không có thẩm quyền để biểu quyết hay ban hành nghị quyết về các vấn đề đó; trừ những trường hợp nhất định, khi Ðức Thánh Cha cho Thượng Hội Nghị được quyền biểu quyết; lúc ấy, Ðức Thánh Cha có quyền phê chuẩn các quyết định của Thượng Hội Nghị.
Ðiều 344: Thượng Hội Nghị Giám Mục phục tùng trực tiếp quyền bính của Ðức
Thánh Cha. Thẩm quyền của Ngài là:
1. triệu tập Thượng Hội Nghị mỗi khi thấy thuận lợi, và chỉ định nơi hội họp;
2. phê chuẩn việc bầu cử những thành viên nào mà theo quy luật riêng cần được
bầu, và chỉ định cùng bổ nhiệm các thành viên khác;
3. ấn định đề tài của những vấn đề sẽ thảo luận, vào thời gian xứng hợp, trước khi
Thượng Hội Nghị khai họp, theo quy luật riêng;
4. hoạch định chương trình nghị sự;
5. đích thân hay nhờ những người khác chủ tọa Thượng Hội Nghị;
6. bế mạc, di chuyển, đình chỉ và giải tán Thượng Hội Nghị.
Ðiều 345: Thượng Hội Nghị Giám Mục có thể nhóm họp hoặc là trong Ðại Hội chung, thông thường hay bất thường, trong đó bàn thảo về những công việc liên hệ trực tiếp tới lợi ích của toàn thể Giáo Hội; hoặc là trong đại hội đặc biệt, trong đó bàn thảo những công việc liên hệ trực tiếp tới một hoặc nhiều miền nhất định.
Ðiều 346:
(1) Khi nhóm họp Ðại Hội Chung thông thường, Thượng Hội Nghị Giám
Mục gồm đại đa số phần tử là các Giám Mục đã được các Hội Ðồng Giám Mục chọn
cho từng Ðại Hội, chiếu theo thể thức được ấn định do luật riêng của Thượng Hội Nghị;
một số khác được chính luật chỉ định; một số nữa được Ðức Thánh Cha trực tiếp bổ
nhiệm; thêm vào đó là vài phần tử khác thuộc Dòng Tu Giáo Sĩ được lựa chọn theo quy
tắc của luật riêng.
(2) Khi nhóm họp Ðại Hội Chung bất thường để bàn về những vấn đề đòi hỏi một
giải pháp mau lẹ, Thượng Hội Nghị Giám Mục gồm đa số các phần tử là các Giám Mục
được chỉ định do luật riêng của Thượng Hội Nghị chiếu theo chức vụ đương đảm
nhiệm; một số khác do Ðức Thánh Cha trực tiếp bổ nhiệm; thêm vào đó là vài phần tử
thuộc Dòng Tu Giáo Sĩ được lựa chọn theo đúng như quy tắc của luật riêng.
(3) Khi nhóm họp Ðại Hội đặc biệt, Thượng Hội Nghị gồm các phần tử được lựa
chọn từ những miền mà vì đó mà Thượng Hội Nghị được triệu tập, chiếu theo quy tắc
của luật riêng điều hành Thượng Hội Nghị.
Ðiều 347:
(1) Khi Ðại Hội của Thượng Hội Nghị Giám Mục đã được Ðức Thánh Cha
bế mạc, thì chức vụ đã giao phó cho các Giám Mục và cho các phần tử khác trong
Thượng Hội Nghị cũng chấm dứt.
(2) Nếu Tòa Thánh trống tòa sau khi đã triệu tập Thượng Hội Nghị hoặc đang khi
họp, thì chiếu luật, Ðại Hội của Thượng Hội Nghị bị đình hoãn; cũng vậy, các chức vụ
đã giao phó cho các phần tử trong Thượng Hội Nghị cũng bị đình chỉ, cho đến khi Tân
Giáo Hoàng quyết định hoặc giải tán hoặc tiếp tục Ðại Hội.
Ðiều 348:
(1) Thượng Hội Nghị Giám Mục có một văn phòng thường trực dưới sự
điều khiển của một Tổng Thư Ký được Ðức Thánh Cha bổ nhiệm; để giúp đỡ Tổng Thư
Ký, có một Hội Ðồng Văn Phòng gồm bởi các Giám Mục, trong số đó, một vài vị được
chính Thượng Hội Nghị lựa chọn theo quy luật riêng, một số khác được Ðức Thánh
Cha bổ nhiệm; chức vụ của tất cả những người này chấm dứt khi bắt đầu nhóm Ðại Hội
mới.
(2) Ngoài ra, vào mỗi Ðại Hội của Thượng Hội Nghị Giám Mục sẽ bổ nhiệm một
hoặc nhiều thư ký đặc biệt, do Ðức Thánh Cha chỉ định; những người này chỉ ở lại
chức vụ đã giao phó cho tới khi Ðại Hội của Thượng Hội Nghị kết thúc.
Ðiều 349: Các Hồng Y lập thành một tập đoàn riêng biệt, với thẩm quyền bầu cử Ðức Thánh Cha chiếu theo quy luật riêng; ngoài ra, các Hồng Y còn giúp Ðức Thánh Cha, hoặc cách tập đoàn mỗi khi các ngài được triệu tập để cùng xét những vấn đề hệ trọng, hoặc là với tính cách cá nhân tức là nhờ các nhiệm vụ khác nhau mà các ngài đang đảm nhiệm để giúp Ðức Thánh Cha trong việc quản trị thường nhật Giáo Hội phổ quát.
Ðiều 350:
(1) Tập đoàn Hồng Y chia thành ba đẳng: đẳng Giám Mục, gồm các Hồng
Y được Ðức Thánh Cha chỉ định một tước hiệu của một giáo phận ngoại ô, cũng như
các Thượng Phụ Ðông Phương được nhập vào Hồng Y Ðoàn; đẳng linh mục và đẳng
phó tế.
(2) Mỗi Hồng Y thuộc đẳng linh mục và đẳng phó tế được Ðức Thánh Cha chỉ định
cho một thánh đường tước linh mục hay phó tế trong thành phố Roma.
(3) Thượng Phụ Ðông Phương được nhập Hồng Y Ðoàn vẫn giữ nguyên tước hiệu
của Tòa Thượng Phụ.
(4) Hồng Y niên trưởng giữ tước hiệu Giáo Phận Ostia, đồng thời vẫn giữ nguyên
tước hiệu của một giáo phận khác đã có trước.
(5) Tuy vẫn giữ nguyên thứ tự đẳng cấp và thứ tự theo ngày tiến cử, do sự thỉnh
nguyện trình bày trong Mật Hội và được Ðức Thánh Cha phê chuẩn, các Hồng Y đẳng
linh mục có thể chuyển qua một thánh đường tước linh mục khác; Hồng Y đẳng phó tế
cũng có thể chuyển qua một thánh đường tước phó tế khác, và nếu đã ở trọn mười
năm trong đẳng phó tế, thì có thể được chuyển qua đẳng linh mục.
(6) Một Hồng Y đẳng phó tế được chuyển qua đẳng linh mục, sẽ giữ thứ tự ưu tiên
trên tất cả các Hồng Y đẳng linh mục nào gia nhập Hồng Y Ðoàn sau ngài.
Ðiều 351:
(1) Ðể tiến cử làm Hồng Y, Ðức Thánh Cha sẽ tự do chọn lựa những
người thuộc nam giới, ít ra có chức linh mục, trổi vượt về đạo lý, tác phong, đạo đức và
khôn ngoan trong cách xử sự công việc; tuy nhiên, những ai chưa là Giám Mục, cần
được thụ phong Giám Mục.
(2) Các Hồng Y được tấn phong do một nghị định của Ðức Thánh Cha được công
bố trước Hồng Y Ðoàn; kể từ lúc công bố, các ngài buộc giữ các nghĩa vụ và được
hưởng mọi quyền lợi do luật đã ấn định.
(3) Tuy nhiên, ai được tiến cử làm Hồng Y, được Ðức Thánh Cha loan báo, nhưng
không tiết lộ danh tánh (in pectore), thì trong thời gian này, vị đó không bị ràng buộc bởi
nghĩa vụ nào và không được hưởng quyền lợi riêng nào của các Hồng Y. Sau khi danh
tánh được Ðức Thánh Cha công bố, vị đó có mọi nghĩa vụ và được hưởng mọi quyền
lợi, nhưng đối với thứ tự ưu tiên, sẽ tính từ ngày được tiến cử.
Ðiều 352:
(1) Hồng Y niên trưởng đứng đầu Hồng Y Ðoàn, và khi bị ngăn trở, sẽ
được thay thế bởi Hồng Y phó niên trưởng. Hồng Y niên trưởng hoặc Hồng Y phó niên
trưởng không có một quyền hành cai quản nào trên các Hồng Y khác, nhưng đều được
coi là Người đứng đầu trong số những người bình quyền.
(2) Khi chức vụ niên trưởng khuyết vị, thì tất cả và chỉ duy các Hồng Y với đẳng
Giám Mục, dưới sự chủ tọa của Hồng Y phó niên trưởng, nếu có mặt, hoặc của người
cao niên hơn trong số các Hồng Y, chọn một vị trong đẳng của mình làm niên trưởng
Hồng Y Ðoàn; các ngài thông báo danh tánh vị đó lên Ðức Thánh Cha, để ngài phê
chuẩn người đắc cử.
(3) Phó niên trưởng cũng được bầu theo thể thức nói ở triệt 2, dưới sự chủ tọa của
niên trưởng; cũng chính Ðức Thánh Cha sẽ phê chuẩn việc bầu cử phó niên trưởng.
(4) Hồng Y niên trưởng và phó niên trưởng, nếu chưa có cư sở trong thành phố
Roma, thì các ngài sẽ thủ đắc cư sở tại đó.
Ðiều 353:
(1) Các Hồng Y, với tính cách tập đoàn, giúp đỡ vị Chủ Chăn tối cao của
Giáo Hội, nhất là trong Mật Hội trong đó các Hồng Y tụ họp theo lệnh của Ðức Thánh
Cha và dưới quyền chủ tọa của Ngài. Mật Hội có thể nhóm phiên họp thông thường
hoặc bất thường.
(2) Trong Mật Hội thông thường, ít là tất cả Hồng Y hiện đang có mặt tại Roma
được triệu tập để tham khảo về một số công việc hệ trọng nhưng thường xảy ra, hoặc
để thực hiện vài hành động có tính cách trang trọng.
(3) Trong Mật Hội bất thường, họp mỗi khi nhu cầu đặc biệt của Giáo Hội hoặc tầm
quan trọng của vấn đề đòi hỏi, thì tất cả các Hồng Y sẽ được triệu tập.
(4) Chỉ có Mật Hội thông thường, trong đó cử hành vài thể thức trang trọng, mới có
thể trở thành công khai, nghĩa là, ngoài các Hồng Y, còn có sự tham dự của các Giám
Chức, các đại diện ngoại giao của chính quyền và một số những người khác được mời
tới.
Ðiều 354: Các Hồng Y đứng đầu các Bộ và các cơ quan thường trực của giáo triều Roma và trong thành Vatican, được yêu cầu từ chức khi đã tới 75 tuổi. Việc từ chức sẽ đệ lên Ðức Thánh Cha và Ngài sẽ dự liệu sau khi đã cân nhắc tất cả mọi hoàn cảnh.
Ðiều 355:
(1) Hồng Y niên trưởng có thẩm quyền truyền chức Giám Mục cho người
được bầu làm Giáo Hoàng, nếu người đắc cử chưa lãnh chức Giám Mục. Trong trường
hợp vị niên trưởng bị ngăn trở, thì quyền ấy thuộc về Hồng Y phó niên trưởng, và nếu
vị này cũng bị ngăn trở, thì thuộc về Hồng Y cao niên nhất thuộc đẳng Giám Mục.
(2) Hồng Y trưởng đẳng phó tế công bố danh tánh vị đắc cử Giáo Hoàng; ngoài ra,
Ngài thay mặt Ðức Thánh Cha để trao dây "Pallium" cho các Tổng Giám Mục hoặc cho
các Ðại Diện của các vị ấy.
Ðiều 356: Các Hồng Y có nghĩa vụ cộng tác đắc lực với Ðức Thánh Cha. Vì thế, các Hồng Y đảm trách bất cứ chức vụ nào trong Giáo Triều, nếu không phải là Giám Mục giáo phận, thì buộc phải cư trú tại Roma. Các Hồng Y coi sóc một giáo phận nào như Giám Mục giáo phận, thì phải về Roma mỗi khi Ðức Thánh Cha triệu tập.
Ðiều 357:
(1) Các Hồng Y đã được chỉ định tước hiệu một thánh đường trong thành
hoặc một thánh đường ngoài thành, thì sau khi đã nhận tòa, nên cổ võ thiện ích cho
những giáo phận và các thánh đường đó bằng sự tư vấn và bảo trợ, nhưng không có
quyền quản trị nào trên các nơi đó cả, và không được can thiệp bằng bất cứ cách nào
vào các vấn đề liên quan tới việc quản lý các tài sản, kỷ luật hoặc dịch vụ của các thánh
đường.
(2) Xét về những gì liên quan đến bản thân, các Hồng Y cư trú ngoài thành Roma và
ngoài giáo phận riêng được miễn trừ khỏi quyền quản trị của Giám Mục giáo phận mà
các Ngài đang trú ngụ.
Ðiều 358: Hồng Y được Ðức Thánh Cha ủy thác chức vụ thay mặt Ngài trong dịp lễ trọng thể hoặc đại hội, với tư cách là đặc sứ "a latere", cũng như Hồng Y được Ðức Thánh Cha giao phó thi hành một chức vụ mục vụ nhất định như là phái viên đặc biệt của Ngài, thì chỉ có thẩm quyền trong giới hạn mà Ðức Thánh Cha đã ủy thác.
Ðiều 359: Trong lúc Tòa Thánh trống tòa, Hồng Y Ðoàn chỉ được hưởng quyền hành trong Giáo Hội, theo như luật riêng đã chỉ định.
Ðiều 360: Giáo triều Roma, nhờ đó Ðức Thánh Cha thường giải quyết mọi việc của Giáo Hội phổ quát, thi hành nhiệm vụ nhân danh và với quyền hành của chính Ngài để nhằm thiện ích và phục vụ các Giáo Hội. Giáo Triều Roma gồm Phủ Quốc Vụ Khanh, Hội Ðồng Ngoại Vụ của Giáo Hội, các Bộ, Tòa Án và những cơ quan khác, đã được luật riêng xác định về sự thành lập và thẩm quyền.
Ðiều 361: Trong Bộ Luật này, tiếng Tông Tòa hoặc Tòa Thánh không những được hiểu là Ðức Thánh Cha, mà cả Phủ Quốc Vụ Khanh, Hội Ðồng Ngoại Vụ của Giáo Hội và những cơ quan khác của Giáo Triều Roma nữa, trừ khi đã rõ cách nào khác theo bản chất hay văn mạch.
Ðiều 362: Ðức Thánh Cha có quyền bẩm sinh và độc lập để bổ nhiệm các Phái Viên và gửi họ tới các Giáo Hội địa phương ở tại các nước hay các miền khác nhau, hoặc đồng thời tới các quốc gia và các chính phủ; Ðức Thánh Cha cũng có quyền thuyên chuyển và triệu hồi họ, tuy phải tôn trọng các quy luật của quốc tế công pháp liên quan tới việc ủy phái và triệu hồi các Phái Viên đã được thiết lập bên cạnh các chính phủ.
Ðiều 363:
(1) Các Phái Viên của Ðức Thánh Cha lãnh nhiệm vụ làm đại diện cho
chính Ngài cách thường trực tại các Giáo Hội địa phương hoặc cũng tại các quốc gia
và chính phủ mà họ đã được cử tới.
(2) Tất cả những ai được cử vào Phái Bộ Tòa Thánh như là các đại diện hay là
quan sát viên ở các tổ chức quốc tế hoặc bên cạnh các hội nghị hay phiên nhóm, cũng
có tư cách thay mặt Tòa Thánh.
Ðiều 364: Nhiệm vụ chính yếu của Phái Viên Tòa Thánh là lo liệu để cho giây hợp
nhất giữa Tòa Thánh với các Giáo Hội địa phương mỗi ngày được thêm bền chặt và
đắc lực hơn. Vì thế, công tác của các Phái Viên của Ðức Thánh Cha trong khu vực lãnh
thổ của mình là:
1. thông tri cho Tòa Thánh về tình hình của các Giáo Hội địa phương, và về tất cả
những gì liên hệ tới chính đời sống của Giáo Hội và thiện ích của các linh hồn;
2. giúp đỡ các Giám Mục bằng hành động hay lời bàn, tuy phải tôn trọng việc hành
sử hợp lệ quyền bính của các Ngài;
3. duy trì sự liên lạc thường xuyên với Hội Ðồng Giám Mục bằng hết mọi hình thức
cộng tác;
4. đối với việc bổ nhiệm Giám Mục, chuyển hoặc đề nghị danh tánh của các ứng
viên cho Tòa Thánh, cũng như tiến hành thủ tục thu lượm tin tức về những người được
tiến cử, theo như quy tắc Toà Thánh đã ra;
5. hết sức cổ động những dự án liên can tới hòa bình, phát triển và sự hợp tác giữa
các dân tộc;
6. cộng tác với các Giám Mục, để phát động những liên lạc giữa Giáo Hội Công
Giáo với các Giáo Hội và giáo đoàn khác, kể cả với các tôn giáo ngoài Kitô giáo;
7. cùng với các Giám Mục, bênh vực tất cả những gì liên quan tới sứ mệnh của
Giáo Hội và của Tòa Thánh trước mặt chính phủ;
8. ngoài ra, thi hành mọi năng ân và chu toàn những ủy nhiệm mà Tòa Thánh đã
giao phó.
Ðiều 365:
(1) Ngoài ra, Phái Viên của Ðức Thánh Cha kiêm nhiệm việc đại diện
Ngài bên cạnh các quốc gia theo các quy tắc của luật quốc tế còn có nhiệm vụ:
1. cổ võ và duy trì mọi liên lạc giữa Tòa Thánh với chính quyền;
2. dàn xếp mọi vấn đề liên hệ tương quan giữa Giáo Hội với quốc gia; và đặc biệt, là
lo việc ký kết những thỏa ước hay các quy ước tương tự, cũng trông coi việc thi hành
chúng.
(2) Khi giải quyết những vấn đề nói ở triệt 1, tùy theo hoàn cảnh đòi hỏi, Phái Viên
của Ðức Thánh Cha nên tham khảo ý kiến và lời bàn của các Giám Mục trong khu vực
và thông báo cho các ngài biết về diễn tiến của tình hình.
Ðiều 366: Xét về tính cách đặc biệt của nhiệm vụ Phái Viên,
1. trụ sở của Phái Viên Tòa Thánh được miễn trừ khỏi quyền quản trị của Bản
Quyền sở tại, ngoại trừ việc cử hành Hôn Phối;
2. sau khi thông báo cho các Bản Quyền sở tại mỗi khi có thể được, Phái Viên Tòa
Thánh có quyền cử hành mọi nghi lễ phụng vụ, kể cả nghi lễ giáo chủ, trong tất cả các
thánh đường thuộc lãnh thổ được đặc phái.
Ðiều 367: Nhiệm vụ Phái Viên Tòa Thánh không chấm dứt khi Tông Tòa trống tòa, ngoại trừ khi nào Ủy Nhiệm Thư đã ấn định cách khác. Nhiệm vụ chấm dứt khi mãn hạn ủy nhiệm, hoặc do sự triệu hồi được cáo tri cho đương sự, hoặc do sự từ chức đã được Ðức Thánh Cha chấp nhận.
Ðiều 368: Các Giáo Hội địa phương, trong đó và từ đó mà một Giáo Hội Công Giáo duy nhất hiện hữu, ám chỉ trước hết là các giáo phận; các lãnh thổ thuộc giám hạt tòng thổ và đan viện tòng thổ, Ðại Diện Tông Tòa và Phủ Doãn Tông Tòa và cả Giám Quản Tông Tòa được thiết lập cách thường trực cũng được đồng hóa với các giáo phận, trừ khi đã rõ cách nào khác.
Ðiều 369: Giáo phận là một phần dân Chúa được giao phó cho một Giám Mục săn sóc cùng với sự cộng tác của Linh Mục Ðoàn, để nhờ sự liên kết với Chủ Chăn mình và sự tập hợp bởi Chủ Chăn trong Chúa Thánh Linh, nhờ Phúc Âm và Thánh Thể, cộng đồng ấy lập thành Giáo Hội địa phương, trong đó Giáo Hội của Ðức Kitô, duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền, thực sự hiện diện và tác động.
Ðiều 370: Giám Hạt tòng thổ hoặc Ðan Viện tòng thổ là một phần nhất định của dân Chúa, được giới hạn trong một lãnh thổ, mà vì hoàn cảnh đặc biệt, sự săn sóc được giao phó cho một Giám Chức hoặc cho một Viện Phụ để quản trị với tư cách của một Chủ Chăn riêng, tựa như Giám Mục giáo phận.
Ðiều 371:
(1) Hạt Ðại Diện Tông Tòa, hoặc Hạt Phủ Doãn Tông Tòa, là một phần
nhất định của dân Chúa, mà vì hoàn cảnh đặc biệt, chưa được thiết lập như là một giáo
phận, và việc chăn dắt được giao cho một Ðại Diện Tông Tòa hoặc cho một Phủ Doãn
Tông Tòa để quản trị thay mặt Ðức Thánh Cha.
(2) Hạt Giám Quản Tông Tòa là một phần nhất định của dân Chúa mà vì những lý
do đặc biệt và hết sức hệ trọng, không được Ðức Thánh Cha thiết lập như là một giáo
phận, và việc săn sóc mục vụ được giao phó cho một Giám Quản Tông Tòa quản trị
thay mặt Ðức Thánh Cha.
Ðiều 372:
(1) Theo luật chung, một phần dân Chúa, tạo thành một giáo phận hoặc
một Giáo Hội địa phương khác, được giới hạn trong một lãnh thổ nhất định, để bao
gồm tất cả các giáo hữu đang cư ngụ trong lãnh thổ.
(2) Tuy nhiên, khi nào Quyền Bính tối cao của Giáo Hội, sau khi tham khảo ý kiến
của các Hội Ðồng Giám Mục liên hệ, xét thấy ích lợi, thì có thể thiết lập trong cùng một lãnh thổ nhiều Giáo Hội địa phương khác biệt, vì lý do lễ điển của tín hữu hoặc vì lý do
khác tương tự.
Ðiều 373: Chỉ duy có Quyền Bính tối cao mới có thẩm quyền thiết lập các Giáo Hội địa phương; các Giáo Hội địa phương một khi đã được thiết lập hợp lệ, thì được hưởng tư cách pháp nhân chiếu theo luật.
Ðiều 374:
(1) Tất cả các giáo phận hoặc Giáo Hội địa phương nào khác đều phải
được phân chia ra thành nhiều phần riêng biệt hoặc giáo xứ.
(2) Ðể cổ võ việc săn sóc mục vụ bằng hoạt động chung, nhiều Giáo Xứ lân cận gần
nhau có thể hợp lại thành những hợp đoàn địa phương, tỉ như các Giáo Hạt.
Ðiều 375:
(1) Các Giám Mục là những người, do ý định của Thiên Chúa, kế vị các
Tông Ðồ do quyền lực của Chúa Thánh Linh đã ban cho họ, được đặt làm các Chủ
Chăn trong Giáo Hội để làm những thầy dạy đạo lý, tư tế phụng tự và tác viên lo việc
quản trị.
(2) Các Giám Mục, nhờ chính việc thụ phong Giám Mục, nhận lãnh cùng với nhiệm
vụ thánh hóa, cả các nhiệm vụ giảng dạy và quản trị nữa. Tuy nhiên nhiệm vụ giảng
dạy và thánh hóa, theo bản tính, chỉ có thể hành sử trong sự hiệp thông phẩm trật với
thủ lãnh và với mọi phần tử tập đoàn.
Ðiều 376: Các Giám Mục được gọi là Giám Mục giáo phận, những vị đã được giao phó cho việc săn sóc một giáo phận nào đó; các vị khác gọi là Giám Mục hiệu tòa.
Ðiều 377:
(1) Ðức Thánh Cha được tự do bổ nhiệm các Giám Mục, hoặc phê chuẩn
những vị đã được bầu cử hợp lệ.
(2) Ít là ba năm một lần, các Giám Mục của một giáo tỉnh, hoặc ở đâu hoàn cảnh
khuyến khích, các Giám Mục của Hội Ðồng Giám Mục, phải thỏa thuận với nhau và với
tính cách bí mật lập một danh sách các linh mục, kể cả các phần tử của Dòng Tu, xem
ai có tư cách làm Giám Mục; và gửi bản danh sách đó cho Tòa Thánh; tuy nhiên, mỗi
Giám Mục vẫn được quyền thông tri cho Tòa Thánh một cách riêng rẽ danh tánh những
linh mục được Ngài xét thấy xứng đáng và có tư cách để lãnh nhiệm vụ Giám Mục.
(3) Trừ khi đã ấn định cách nào khác hợp lệ, mỗi khi cần bổ nhiệm một Giám Mục
giáo phận hoặc một Giám Mục phó, thì trong việc đề nghị lên Tòa Thánh danh sách ba
người, phái viên của Ðức Thánh Cha có nhiệm vụ điều tra về từng người một và thông báo cho Tòa Thánh, cùng với ý kiến của mình, tất cả đề nghị của Tổng Giám Mục và
các Giám Mục thuộc hạt của giáo tỉnh mà giáo phận ấy trực thuộc hay được kết nạp,
cũng như của Chủ Tịch Hội Ðồng Giám Mục. Ngoài ra, phái viên của Ðức Thánh Cha
nên bàn hỏi cả với vài người thuộc Hội Ðồng Tư Vấn và thuộc kinh sĩ đoàn nhà thờ
chính tòa và, nếu xét thấy tiện, nên hỏi ý kiến riêng rẽ và kín đáo của những người
khác thuộc giáo sĩ Dòng Triều cũng như của những giáo dân có tiếng là khôn ngoan.
(4) Trừ khi đã dự liệu cách nào khác hợp lệ, Giám Mục giáo phận nào xét thấy cần
một phụ tá cho giáo phận của mình thì sẽ đệ trình lên Tòa Thánh bản danh sách gồm ít
là ba linh mục xứng đáng hơn cả để lãnh nhiệm vụ này.
(5) Từ nay về sau, không được cho chính quyền dân sự quyền lợi và đặc ân bầu
cử, bổ nhiệm, đề cử hoặc chỉ định các Giám Mục.
Ðiều 378:
(1) Ðể xứng đáng được tiến cử lên chức Giám Mục, đương sự cần phải:
1. trổi vượt về Ðức Tin vững vàng, tính nết tốt, đạo đức, nhiệt tâm với các linh hồn,
thông thái, khôn ngoan và những nhân đức nhân bản khác, và có những đức tính giúp
cho đương sự đủ khả năng chu toàn chức vụ;
2. có danh thơm tiếng tốt;
3. ít là đã trọn ba mươi lăm tuổi;
4. đã chịu chức linh mục ít là đã năm năm;
5. có văn bằng Tiến Sĩ, hoặc ít ra có Cử Nhân về Thánh Kinh, Thần Học hoặc Giáo
Luật ở một Cao Ðẳng Học Viện được Tòa Thánh công nhận, hoặc ít ra thực sự chuyên
môn về những môn đó.
(2) Sự phán quyết tối hậu về khả năng xứng đáng của ứng viên thuộc về Tòa Thánh.
Ðiều 379: Nếu không bị ngăn trở hợp lệ, người được tiến cử lên chức Giám Mục phải được tấn phong Giám Mục trong vòng ba tháng kể từ ngày nhận được văn thư của Tòa Thánh, và, dù sao đi nữa, trước khi tựu chức.
Ðiều 380: Trước khi tựu chức, kẻ đã được tiến cử phải tuyên xưng Ðức Tin và tuyên thệ trung thành với Tòa Thánh theo mẫu thức đã được Tòa Thánh công nhận.
Ðiều 381:
(1) Ở trong giáo phận đã được giao phó, Giám Mục giáo phận có mọi
quyền hành thông thường, riêng biệt và trực tiếp, cần có để thi hành nhiệm vụ mục vụ của ngài, ngoại trừ những vụ mà pháp luật hoặc sắc luật của Ðức Thánh Cha đã dành
lại cho quyền bính tối cao hoặc một quyền bính nào khác trong Giáo Hội.
(2) Tất cả những ai đứng đầu các cộng đoàn giáo hữu khác như đã nói ở điều 368,
đều được đồng hóa với Giám Mục giáo phận, trừ những gì đã rõ cách khác theo bản
tính sự việc hoặc theo quy tắc luật định.
Ðiều 382:
(1) Kẻ đã được tiến cử làm Giám Mục không được pha mình vào việc thi
hành chức vụ đã được giao phó, trước khi tựu chức trong giáo phận theo đúng luật
định; tuy nhiên, đương sự có thể thi hành các chức vụ đã giữ trong chính giáo phận đó
trước ngày được tiến cử Giám Mục, miễn là giữ nguyên vẹn điều 409, triệt 2.
(2) Nếu không bị ngăn trở hợp lệ, kẻ được tiến cử lên chức vụ Giám Mục giáo phận,
phải tựu chức trong vòng bốn tháng kể từ ngày nhận văn thư Tòa Thánh nếu chưa
được thụ phong Giám Mục; nếu đã thụ phong Giám Mục rồi, thì trong vòng hai tháng kể
từ ngày nhận văn thư.
(3) Giám Mục tựu chức kể từ lúc, trong chính giáo phận đó, ngài đích thân hoặc nhờ
đại diện trình văn thư Tòa Thánh cho Hội Ðồng Tư Vấn trước sự hiện diện của Chưởng
Ấn Giáo Phủ, và vị này lập biên bản; hoặc trong giáo phận mới được thiết lập, thì kể từ
lúc thông báo văn thư đó cho Giáo Sĩ và Giáo Dân có mặt trong nhà thờ chính tòa, và
biên bản được lập do một linh mục cao niên hơn cả trong số các linh mục hiện diện.
(4) Rất khuyến khích việc tựu chức diễn ra bằng một nghi thức Phụng Vụ trong nhà
thờ chính tòa trước sự hiện diện của Giáo Sĩ và Giáo Dân.
Ðiều 383:
(1) Trong khi thi hành chức vụ Chủ Chăn, Giám Mục giáo phận hãy tỏ ra
ân cần đối với hết mọi tín hữu đã được giao phó, bất cứ thuộc tuổi, điều kiện hoặc quốc
tịch nào, những người cư ngụ trong lãnh thổ cũng như những người ở đó tạm thời; ngài
cũng hãy tỏ nhiệt huyết tông đồ cho cả những ai, vì điều kiện sinh sống, không thể thụ
hưởng cách đầy đủ sự săn sóc mục vụ thông thường, cũng như những ai đã bỏ bê việc
giữ đạo.
(2) Nếu trong giáo phận có những tín hữu thuộc lễ điển khác, thì ngài hãy dự liệu
cho mọi nhu cầu thiêng liêng của họ hoặc nhờ các linh mục hoặc các cha sở thuộc
chính lễ điển đó, hoặc nhờ một vị Ðại Diện Giám Mục.
(3) Ðối với anh em không hiệp thông đầy đủ với Giáo Hội Công Giáo, ngài hãy cư
xử với tình nhân đạo và bác ái và cổ võ phong trào đại kết theo đường hướng của Giáo
Hội.
(4) Ngài hãy coi những người chưa chịu phép Rửa Tội như cũng được Chúa giao
phó cho mình, ngõ hầu tình thương của Ðức Kitô cũng chiếu sáng cho họ, xét vì Giám
Mục phải là chứng nhân của Ðức Kitô trước mặt mọi người.
Ðiều 384: Giám Mục giáo phận phải lo lắng đặc biệt cho các linh mục, hãy để ý lắng nghe họ như là những phụ tá và cố vấn; hãy bênh vực các quyền lợi của họ; lo cho họ chu toàn đúng mức những nghĩa vụ riêng cho bậc của họ, và giúp cho họ đủ phương tiện và định chế cần có để thăng tiến đời sống thiêng liêng và trí tuệ; cũng phải trù liệu cho họ được trợ cấp xứng đáng và có bảo hiểm xã hội theo như luật định.
Ðiều 385: Các Giám Mục giáo phận phải tận lực cổ động những ơn gọi vào các tác vụ khác nhau và vào đời tận hiến; đặc biệt lưu ý đến các ơn gọi làm linh mục và thừa sai.
Ðiều 386:
(1) Giám Mục giáo phận phải trình bày và giải thích cho các tín hữu
những chân lý Ðức Tin mà họ phải tin theo và áp dụng trong đời sống, vì vậy chính ngài
phải năng đích thân rao giảng; ngài cũng phải canh chừng để các quy định trong giáo
luật liên quan tới tác vụ Lời Chúa được tuân hành chu đáo, nhất là về các bài giảng lễ
và việc giáo huấn, làm sao để toàn bộ đạo lý Kitô Giáo được truyền thụ cho tất cả mọi
người.
(2) Ngài hãy cương quyết dùng mọi phương thế hữu hiệu hơn cả để bảo vệ sự toàn
vẹn và duy nhất của Ðức Tin; tuy đồng thời nhìn nhận sự tự do chính đáng trong việc
tìm hiểu chân lý cách sâu rộng hơn.
Ðiều 387: Ý thức rằng mình phải làm gương mẫu thánh thiện bằng tình bác ái, khiêm tốn và sống đơn giản, Giám Mục giáo phận hãy ra sức cổ động bằng mọi cách để các tín hữu nên thánh tùy theo ơn gọi riêng của từng người; và bởi vì là người phân phát chính yếu của mọi mầu nhiệm của Thiên Chúa, ngài hãy hoạt động không ngừng để mọi tín hữu đã giao phó cho mình săn sóc được tăng trưởng trong ơn thánh nhờ việc cử hành các Bí Tích, và để cho họ nhận biết và sống mầu nhiệm Vượt Qua.
Ðiều 388:
(1) Giám Mục giáo phận, sau khi đã tựu chức, phải dâng thánh lễ cầu cho
đoàn dân đã được giao phó, vào các ngày Chúa Nhật và các ngày lễ buộc khác trong
miền của mình.
(2) Giám Mục phải đích thân dâng thánh lễ cầu cho dân trong những ngày đã nói ở
triệt 1 trên đây; nếu vì ngăn trở hợp lệ không dâng lễ được, thì trong những ngày đó
phải nhờ người khác dâng lễ, hoặc đích thân dâng lễ vào các ngày khác.
(3) Giám Mục nào, ngoài giáo phận riêng của mình còn được ủy thác các giáo phận
khác kể cả với danh hiệu Giám Quản, thì chỉ buộc dâng một thánh lễ cho toàn dân đã
ủy thác cho ngài mà thôi.
(4) Giám Mục nào có bổn phận bó buộc như nói ở các triệt 1-3 trên đây, nếu thiếu
sót bổn phận, thì phải lo sớm hết sức để chỉ cho đoàn Dân bao nhiêu số lễ đã bỏ sót.
Ðiều 389: Giám Mục nên thường xuyên chủ sự thánh lễ trong nhà thờ chính tòa hoặc trong các thánh đường khác của giáo phận, nhất là trong những ngày Lễ Buộc và trong những dịp trọng thể.
Ðiều 390: Giám Mục giáo phận có thể cử hành mọi nghi thức giáo chủ trong toàn thể giáo phận của mình; còn ngoài giáo phận riêng, ngài không có quyền ấy nếu không sự thỏa thuận minh thị hoặc ít là suy đoán cách hợp lý của Bản Quyền sở tại.
Ðiều 391:
(1) Giám Mục giáo phận cai quản Giáo Hội địa phương đã ủy thác cho
ngài với quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp chiếu theo quy tắc luật định.
(2) Giám Mục đích thân hành sử quyền lập pháp; quyền hành pháp được hành sử
do chính ngài hoặc nhờ các Tổng Ðại Diện hoặc các Ðại Diện Giám Mục, theo quy tắc
luật định; quyền tư pháp được hành sử do chính ngài hoặc nhờ Ðại Diện Tư Pháp và
các thẩm phán, theo quy tắc luật định.
Ðiều 392:
(1) Xét vì ngài có nghĩa vụ bảo vệ sự duy nhất của Giáo Hội phổ quát,
Giám Mục phải cổ cõ kỷ luật chung của toàn thể Giáo Hội, và vì thế phải thôi thúc việc
tuân hành tất cả mọi luật lệ của Giáo Hội.
(2) Ngài phải đề phòng đừng để du nhập những lạm dụng kỷ luật trong Giáo Hội,
nhất là về tác vụ Lời Chúa, việc cử hành các Bí Tích và các Á Bí Tích, việc tôn kính
Thiên Chúa và các Thánh và việc quản lý tài sản.
Ðiều 393: Giám Mục giáo phận là đại diện cho giáo phận trong hết mọi công việc pháp lý của giáo phận.
Ðiều 394:
(1) Giám Mục hãy cổ võ mọi hình thức tông đồ khác nhau trong giáo
phận, và hãy lo sao để trong toàn thể giáo phận hoặc ở những đơn vị riêng biệt trong
giáo phận, tất cả mọi hoạt động tông đồ được phối hợp với nhau dưới sự điều khiển
của mình, tuy vẫn giữ tính cách riêng biệt của mỗi hoạt động.
(2) Ngài phải thúc giục mọi giáo hữu phải chu toàn bổn phận làm việc tông đồ tùy
theo điều kiện và khả năng của mỗi người, và phải khuyến khích họ tham gia cùng
nâng đỡ mọi hoạt động tông đồ khác nhau, tùy theo nhu cầu của mỗi nơi và mỗi thời.
Ðiều 395:
(1) Giám Mục giáo phận, cho dù đã có một Giám Mục phó hay Giám Mục
phụ tá, vẫn phải giữ luật trú sở trong giáo phận buộc chính bản thân.
(2) Trừ lý do phải viếng Tòa Thánh, hoặc hội họp công đồng, Thượng Hội Nghị
Giám Mục, Hội Ðồng Giám Mục, hay phải thi hành nhiệm vụ nào khác đã được ủy thác
hợp lệ, Giám Mục có thể vắng mặt khỏi giáo phận vì lý do chính đáng không quá một
tháng hoặc liên tục hoặc gián đoạn, miễn là phải trù liệu được rằng giáo phận không bị
thiệt hại vì sự vắng mặt của mình.
(3) Không được vắng mặt khỏi giáo phận trong những ngày lễ Chúa Giáng Sinh,
Tuần Thánh và Phục Sinh, lễ Hiện Xuống và lễ Mình Máu Thánh Ðức Kitô, nếu không
có lý do hệ trọng và khẩn cấp.
(4) Nếu Giám Mục vắng mặt khỏi giáo phận cách bất hợp pháp quá sáu tháng, thì
Tổng Giám Mục phải thông tri cho Tòa Thánh biết về sự kiện ấy; nếu chính Tổng Giám
Mục vắng mặt, thì Giám Mục cao niên hơn cả trong các giáo phận thuộc hạt phải thông
tri.
Ðiều 396:
(1) Hằng năm, Giám Mục có bổn phận phải kinh lược tất cả hoặc một
phần giáo phận, sao cho ít là trong vòng năm năm có thể kinh lược toàn thể giáo phận,
hoặc đích thân, nếu ngài bị cản trở hợp lệ, nhờ Giám Mục phó, hoặc Giám Mục phụ tá,
hoặc Tổng Ðại Diện hoặc Ðại Diện Giám Mục, hoặc một linh mục nào khác.
(2) Giám Mục có thể chọn những giáo sĩ nào ngài thích để tháp tùng và giúp đỡ
trong việc kinh lược, mọi đặc ân và tục lệ trái ngược đều phải bị bài bác.
Ðiều 397:
(1) Giám Mục có quyền kinh lược thông thường những nhân sự, cơ sở
công giáo, sự vật và các nơi thánh nằm trong lãnh thổ của giáo phận.
(2) Giám Mục chỉ có thể tới kinh lược các phần tử các Dòng Tu thuộc luật Giáo
Hoàng và các tu viện của họ, trong những trường hợp được luật quy định rõ rệt.
Ðiều 398: Giám Mục phải liệu thi hành việc kinh lược mục vụ cách chu đáo, và hãy tránh đừng gây phiền toái hay gánh nặng cho ai vì những chi phí không cần.
Ðiều 399:
(1) Cứ mỗi năm năm, Giám Mục giáo phận phải nạp phúc trình lên Ðức
Thánh Cha về tình trạng của giáo phận đã được uỷ thác cho ngài, theo mẫu thức và
thời gian do Tòa Thánh đã ấn định.
(2) Nếu năm đã được ấn định để nạp phúc trình về Tòa Thánh mà trùng hợp hoặc
toàn thể hoặc một phần với hai năm đầu kể từ khi đảm nhiệm việc quản trị giáo phận,
thì lần đó Giám Mục có thể được miễn làm và nạp phúc trình.
Ðiều 400:
(1) Vào đúng năm phải nạp phúc trình lên Ðức Thánh Cha, nếu Tòa
Thánh không định cách khác, Giám Mục giáo phận phải về Rôma để viếng mộ các
Thánh Tông Ðồ Phêrô và Phaolô và yết kiến Ðức Thánh Cha.
(2) Giám Mục buộc phải tự mình chu toàn bổn phận nói trên, trừ khi bị ngăn trở hợp
lệ, thì có thể nhờ thay thế bởi Giám Mục phó, nếu có, hoặc Giám Mục phụ tá, hay một
linh mục xứng đáng thuộc linh mục đoàn của mình hiện đang cư ngụ trong giáo phận.
(3) Ðại Diện Tông Tòa có thể thi hành bổn phận này qua một đại diện, kể cả nhờ
một người đang sống ở Rôma, Phủ Doãn Tông Tòa không buộc phải giữ nghĩa vụ này.
Ðiều 401:
(1) Khi đã trọn bảy mươi lăm tuổi, Giám Mục giáo phận được yêu cầu đệ
đơn từ chức lên Ðức Thánh Cha, và Ðức Thánh Cha sẽ dự liệu sau khi đã cân nhắc tất
cả mọi hoàn cảnh.
(2) Nếu vì đau yếu hoặc vì lý do trầm trọng nào khác khiến cho khả năng chu toàn
chức vụ bị suy giảm, thì Giám Mục giáo phận được khẩn khoản yêu cầu đệ đơn từ
chức.
Ðiều 402:
(1) Giám Mục nào đã được chấp thuận từ chức thì sẽ giữ tước hiệu là
Cựu Giám Mục của giáo phận cũ, và nếu muốn, ngài có thể vẫn cư trú ngay trong giáo
phận đó, ngoại trừ những trường hợp mà vì hoàn cảnh đặc biệt, Tòa Thánh đã dự liệu
cách khác.
(2) Hội Ðồng Giám Mục phải lo việc chu cấp tương hợp và xứng đáng cho Giám
Mục đã từ chức, tuy dẫu bổn phận chính yếu thuộc về giáo phận mà trước đây vị ấy đã
phục vụ.
Ðiều 403:
(1) Khi nào nhu cầu mục vụ của giáo phận đòi hỏi, sẽ được đặt một hoặc
nhiều Giám Mục phụ tá, theo lời yêu cầu của Giám Mục giáo phận; Giám Mục phụ tá
không có quyền kế vị.
(2) Trong những hoàn cảnh trầm trọng hơn, kể cả vì lý do cá nhân, có thể ban cho
Giám Mục giáo phận một Giám Mục phụ tá với những năng ân đặc biệt.
(3) Nếu thấy xét thích hợp, Tòa Thánh có thể chiểu nhiệm vụ đặt một Giám Mục
phó, cùng với những năng ân đặc biệt; Giám Mục phó có quyền kế vị.
Ðiều 404:
(1) Giám Mục phó tựu chức khi đích thân hoặc nhờ một đại diện, trình
văn thư bổ nhiệm của Tòa Thánh cho Giám Mục giáo phận và Hội Ðồng Tư Vấn, trước
sự hiện diện của Chưởng Ấn Giáo Phủ và vị này lập biên bản.
(2) Giám Mục phụ tá tựu chức khi ngài trình văn thư bổ nhiệm của Tòa Thánh cho
Giám Mục giáo phận, trước sự hiện diện của Chưởng Ấn Giáo Phủ, và vị này lập biên
bản.
(3) Giả như Giám Mục giáo phận bị ngăn trở hoàn toàn, thì chỉ cần bổ nhiệm Giám
Mục phó hoặc Giám Mục phụ tá trình văn thư bổ nhiệm của Tòa Thánh cho Hội Ðồng
Tư Vấn, trước sự hiện diện của Chưởng Ấn Giáo Phủ.
Ðiều 405:
(1) Giám Mục phó cũng như Giám Mục phụ tá có mọi nghĩa vụ và quyền
lợi được ấn định trong những điều luật sau đây và trong văn thư bổ nhiệm.
(2) Giám Mục phó và Giám Mục phụ tá nói ở điều 403 triệt 2, giúp Giám Mục giáo
phận trong mọi công việc quản trị giáo phận, và thay thế ngài lúc vắng mặt hoặc bị cản
trở.
Ðiều 406:
(1) Giám Mục phó, cũng như Giám Mục phụ tá nói ở điều 403 triệt 2, phải
được Giám Mục giáo phận đặt làm Tổng Ðại Diện; ngoài ra, Giám Mục giáo phận phải
ủy thác cho vị ấy trước các người khác tất cả những gì mà luật đòi hỏi sự ủy nhiệm đặc
biệt.
(2) Nếu văn thư Tòa Thánh không dự liệu thể khác, và vẫn tôn trọng quy tắc của
triệt 1 trên đây, Giám Mục giáo phận phải đặt vị phụ tá hoặc các phụ tá làm Tổng Ðại
Diện hoặc ít là làm Ðại Diện Giám Mục; và các ngài chỉ lệ thuộc quyền của Giám Mục
giáo phận, hoặc Giám Mục phó, hoặc Giám Mục phụ tá nói ở điều 403 triệt 2.
Ðiều 407:
(1) Nhằm cổ võ thiện ích hiện tại và tương lai của giáo phận một cách tối
đa, Giám Mục giáo phận, Giám Mục phó và Giám Mục phụ tá nói ở điều 403 triệt 2,
phải bàn thảo với nhau trong những vấn đề có tầm quan trọng.
(2) Khi phải giải quyết những vấn đề khá quan trọng, nhất là có tính cách mục vụ,
Giám Mục giáo phận nên bàn thảo với các Giám Mục phụ tá trước các người khác.
(3) Giám Mục phó và Giám Mục phụ tá, xét vì được gọi san sẻ nỗi lo âu với Giám
Mục giáo phận, phải lo thi hành trách vụ của mình, để sao cho có sự hòa hợp với ngài
trong hành động cũng như trong ý định.
Ðiều 408:
(1) Mỗi khi được Giám Mục giáo phận yêu cầu và nếu không bị cản trở
chính đáng, Giám Mục phó và Giám Mục phụ tá có bổn phận cử hành nghi thức giáo
chủ và các phận vụ khác thuộc bổn phận của Giám Mục giáo phận.
(2) Giám Mục giáo phận không nên ủy thác cách thường xuyên cho một người khác
những quyền lợi và phận vụ của chức Giám Mục mà Giám Mục phó hoặc Giám Mục
phụ tá có thể thi hành.
Ðiều 409:
(1) Trong khi Tòa Giám Mục trống ngôi, thì Giám Mục phó tức khắc trở
thành Giám Mục của giáo phận mà ngài đã được đặt, miễn là ngài đã tựu chức hợp lệ.
(2) Trong khi Tòa Giám Mục trống ngôi, nếu nhà chức trách có thẩm quyền không
ấn định thể khác, thì cho tới khi Tân Giám Mục tựu chức, Giám Mục phụ tá duy trì tất cả
và chỉ những quyền hành và năng ân đã có như Tổng Ðại Diện hoặc như Ðại Diện
Giám Mục khi Giám Mục chính tòa còn tại chức. Nếu sau đó không được bầu làm Giám
Quản giáo phận, thì Giám Mục phụ tá hành sử quyền của mình do luật pháp đã trao,
dưới quyền của Giám Quản giáo phận là người lãnh đạo giáo phận.
Ðiều 410: Giám Mục phó và Giám Mục phụ tá có bổn phận phải cư trú trong giáo phận cũng như Giám Mục giáo phận; các ngài chỉ được rời giáo phận trong thời gian ngắn, trừ khi vì lý do phải thi hành một nhiệm vụ ngoài giáo phận hoặc vì đi nghỉ, nhưng kỳ nghỉ không được quá một tháng.
Ðiều 411: Về sự từ chức, sẽ áp dụng cho Giám Mục phó và Giám Mục phụ tá các quy định của điều 401 và 402 triệt 2.