Khoảng hơn hai năm về trước 2018, trong buổi tường trình trong Hội Câu Lạc Bộ Văn Học (CLBVH) ở thành phố Oklahoma City, tôi đã trình bày một bài thuyết trình về sự thành hình của chữ Quốc Ngữ. Sau khi trình bày xong, tôi một nhận thấy rằng sự hiểu biết của tôi về các thừa sai đang hoạt động ở Đàng Trong1 còn rất nhiều thiếu sót. Cho đến bây giờ tôi đã hiểu biết rằng lúc ban đầu, các nhà truyền giáo muốn phát triển chữ Quốc Ngữ (QN) không phải để cho quần chúng người Việt mà là cho chính họ vì học và viết tiếng Nôm quá khó khăn. Vì thế, đó mới chính là động cơ thúc đẩy họ đã chế tạo ra chữ QN, nhưng tôi vẫn thắc mắc không rõ ràng cho lắm cách thức mà họ đã thực hiện. Hiện giờ tôi chỉ biết bốn vị tiền phong trong công cuộc tìm hiểu chữ QN. Đó là Cha Francisco de Pina (1586-1625); sau đó là Cha Gaspar d’Amaral (1594-1646)2, Cha Antonio Barbosa (1594-1647)3 và cuối cùng là Cha Alexandre de Rhodes (1593-1660).4 Kể từ năm 1617 cho đến năm 1636, họ đã lần lượt vào Đàng Trong, ra Đàng Ngoài để giảng đạo. Bắt đầu là Cha Pina, vị giáo sĩ đầu tiên có thể tự học, nói chuyện một cách lưu loát tiếng Việt và cũng là thầy dạy chữ tiền Quốc Ngữ cho Cha Rhodes. Tôi cũng biết rằng ngoài tiếng mẹ đẻ của họ, các tu sĩ Dòng Chúa Giêsu5 rất am tường tiếng La Tinh và biết ít nhiều về tiếng Hy Lạp và tiếng Do Thái. Theo suy nghĩ của tôi, sự hiểu biết về những thứ tiếng này, nhất là tiếng Hy Lạp và La Tinh là nòng cốt trong việc phiên mã (transcription) từ âm điệu tiếng Việt ra chữ QN mà họ đã theo đuổi và cuối cùng đã thành công vào năm 1651. Nhưng chỉ biết vài ngôn ngữ đó cũng chưa đủ để họ tiến hành vì họ sẽ cần nhiều hơn thế nữa, nhất là khi lịch sử chữ QN đã cho chúng ta biết rằng chỉ trong một thời gian rất ngắn từ năm 1618 cho đến 1623, nhà ngôn ngữ học tiên phong Cha Pina đã tìm ra căn bản của thanh vị (tone) của tiếng Việt và hoàn thành một quyển ngữ vựng tiếng Bồ và tiếng Việt. Đó là không kể đến cuốn giáo lý viết bằng chữ Nôm mà ngài đã soạn ra dựa theo cuốn giáo lý mà Hồng Y Bellarmine đã viết vào năm 16146. Theo tôi nghĩ, dĩ nhiên là Cha Pina không thể nào một mình soạn ra quyển giáo lý này mà cần sự trợ giúp của nhiều học giả Việt Nam thời ấy và luôn cả Cha Francesco Buzomi (1576-1639)7 người đã giúp ngài định nghĩa và dịch ra những từ ngữ trừu tượng trong thánh kinh ra tiếng Việt. Muốn thực hiện những chương trình qui mô này, lúc suy gẫm về chữ QN, Cha Pina suy nghĩ cách thức chuyển âm ngữ hầu như một mình. Ngoài các tiếng Âu Châu ra, ngài còn còn cần hiểu biết thêm về các ngôn ngữ Á Châu khác nữa. Khi đến Goa, Cha Pina, theo tôi nghĩ, đã có cơ hội học hỏi cả tiếng Nhật và có thể, cả tiếng Konkani nữa. Hơn thế nữa, ngài cần nhiều sự giúp đỡ của các nhà ngôn ngữ tiên phong lưu trú tại các quốc gia khác. Khi ngài bước chân đến Đà Nẵng lần đầu tiên, ngài chỉ là một giáo sĩ trẻ, mới ra trường từ Macao, tuổi đời còn non nớt, kinh nghiệm chưa đủ. Vì thế, chúng ta phải tự hỏi khi tạm trú tại Goa (2-3 năm) và ở Macao (5-6 năm), Cha Pina đã nhìn thấy và học hỏi thêm những gì? Muốn biết câu trả lời, chúng ta chỉ có thể quay về quá khứ đề tìm hiểu thêm về cuộc đời của ngài trong những năm gia nhập Dòng Tên cho đến lúc tàu cặp bến ở Macao (1605-1616) và khi bước chân lên lãnh thổ Đà Nẵng (1617).
Khi tưởng tượng đến Cha Pina, trí óc tôi nhìn thấy một vị giáo sĩ trung niên đang ngồi dưới ánh đèn cầy mờ ảo, tay cầm một cây viết lông gà, nguệch ngoạc viết xuống những dòng chữ xa lạ. Ông ngồi đấy hàng giờ sau khi cầu nguyện và ăn xong bữa cơm chiều. Thỉnh thoảng, ông dừng bút, suy nghĩ, đắn đo… Đó là những hình ảnh tràn ngập trong tâm khảm tôi đầy sự yêu mến và kính phục đến với vị tu sĩ này. Hơn 400 năm trước, khi bước lên chiếc tàu gỗ khổng lồ rời bến Lisbon, nước Bồ Đào Nha, ông đã biết mình có thể sẽ không còn cơ hội về thăm quê hương và gia đình được nữa. Nhưng ông vẫn tiếp tục bước lên bậc thang và cuối cùng được mang sang một thế giới xa lạ để phục vụ một lý tưởng cao cả mà thượng đế đã trao cho. Gần đây nhờ vào sự kiên trì trong hơn 10 năm mà ông Roland Jacques bỏ ra trong cuộc đời ông để nghiên cứu về Cha Pina, cuối cùng những thành tích về sự phát triển mới mẻ của chữ Quốc Ngữ lúc mới khai phong, vừa được khám phá. Tuy vậy, chúng ta vẫn không am tường thời niên thiếu, sự học vấn và cuộc hải hành của ông qua Goa. Mục đích của bài tường trình này là làm sáng tỏ phần nào cuộc đời ngắn ngủi của ngài để bổ túc thêm chi tiết mà ông Roland Jacques đã dành cho người Việt Nam chúng ta.