Lúc các tu sĩ, kể cả Pina, đang sửa soạn chất thực phẩm lên tàu. Chung quanh họ, khoảng 900 1 hành khách khác cũng sửa soạn như thế. Trong số đó có một hành khách tên là Jean Mocquet (1575-1617), một nhà thám hiểm người Pháp đang trên hành trình đến Goa. Mục đích của ông ta là đi du ngoạn thế giới để mang về những vật lạ từ các nước khác những cho vua Pháp Henry IV (1553-1610). Vào năm 1608, khi khởi hành đến Lisbon với mục đích qua Goa, Ấn Độ, đây là chuyến hành trình thứ tư của ông ta trong năm chuyến du lịch khắp thế giới. Dĩ nhiên là mặc dù đáp tàu cùng một chuyến, nhưng các tu sĩ Dòng Chúa Giê Su không hề quen biết ông Mocquet. Nhưng sau chuyến du lịch nhiều mạo hiểm và nguy hiểm vượt trùng dương băng qua Phi Châu và cuối cùng đến Goa, sau khi về Pháp, ông đã viết trong sách của ông ấn hành năm 1616. Nhờ đó mà chúng ta mới biết nỗi khổ cực của những hành khách cũng như các tu sĩ trẻ tuổi trong lòng đầy nhiệt huyết như Pina. Có lẽ chuyến đi này là một thử thách mà cũng là kinh nghiệm đời rất đáng giá vì sau chuyến hành trình này, họ sẽ trở thành những con người từng trải và có một cái nhìn về cuộc sống khác hẳn với những người khác.
Chiếc thuyền buồm Vencimento là một trong số những con tàu buôn to lớn nhất thế giới vào thời ấy với trọng lượng khoảng 2.000 tấn. 2 Nếu đem so sánh giữa nó và chiếc tàu Madre de Deus mà người Anh đánh cướp được từ người Bồ năm 1592, chiếc Vencimento có phần lớn hơn (2.000 tấn so với 1.600 tấn). Vì thế, nó có thể dài hơn 165 ft (50m) và rộng hơn 47 ft (14.5m). 3 Số lượng hàng hóa chứa trên tàu lên tới 120.000 cubic feet. 4Nó được chỉ định là tàu chỉ huy dưới quyền Hạm Trưởng Bá Tước Feira, người đã được bổ nhiệm đến Goa làm chức Thống Đốc. Nhiệm kỳ của ông sẽ là ba năm. Dựa theo hành trình, nếu mọi việc đều ổn thoả đoàn tàu buôn của ông sẽ đáp bến thuộc địa Goa trong vòng tháng 9 hay tháng 10 năm 1608. Ông Jean Mocquet được mời theo làm tùy tùng viên của Bá Tước Feira. Hạm đội này gồm có 5 chiếc tàu buôn to (carrack) được hộ tống bởi 7 chiến thuyền (galleon) trang bị đầy đủ bằng súng đại bác thời ấy và 2 chiếc thuyền chuyên chở thực phẩm (urcas) 5. Trong thời gian này trong lịch sử, nước Bồ Đào Nha đang bị Tây Ban Nha cai trị và vì thế, đang lâm vào chiến tranh với nước Hòa Lan và Anh Quốc. Các tàu chiến của hai nước này thường phục kích hải thuyền của nước Bồ tại các hải đảo như Azores, São Tóme, São Helena, 6 hay Mozambique, những nơi có thể cung cấp nước ngọt và thức ăn cho hạm đội thủy quân Bồ. Vì thế, nếu thời tiết thuận lợi và không gặp trở ngại trên hành trình, họ sẽ cố gắng không dừng lại nơi nào.
Sau đây là bảng tóm tắt cuộc hành trình của tàu Vencimento (và một số thuyền khác) đến Goa và Macao (xem Bảng 2 bên dưới):
Ngày | Địa Điểm | Biến Cố |
---|---|---|
28 tháng 3, 1608 7 | Lisbon | Hạm đội gồm có 5 tàu buôn lớn, 7 chiến thuyền và 2 thuyền cung cấp. Tám tu sĩ nhà Dòng Tên trên chiếc Vencimento. Hạm đội chỉ huy bởi Bá Tước Feira. |
9 tháng 5, 1608 8 | Xích Đạo | Bá Tước Feira bị sốt; sau 6 ngày qua đời. Xác ngài được thuyền cung cấp David.mang về Lisbon. |
29 tháng 9, 1608 9 | Đảo Mozambique | Vencimento cùng ba chiến thuyền dừng chân ở Mozambique trong 5 tháng. |
20 tháng 3, 1609 10 | Đảo Mozambique | Vencimento cùng ba chiến thuyền rời Mozambique. |
26 tháng 5, 1609 11 | Goa | Vencimento cập bến Goa, Ấn Độ. |
Khoảng tháng 5, 1611 hay 1612 12 | Macao | Sau 3 năm học xong lớp triết lý, Pina đón thuyền đi Macao. Khoảng 2 tháng sau, anh cập bến Macao. |
Vào ngày 29 tháng 3 năm 1608, sau khi Bá Tước Feira ra lệnh khởi hành (Hãy xem Hình 6). Trên tàu chỉ huy Vencimento, tiếng súng vang rền nổ ra hiệu rời bến. Hạm đội bao gồm 14 chiếc thuyền, lần lượt ra khơi nhắm về cửa biển Targus. Hàng năm, các tàu buôn nước Bồ thường xuất hành khoảng thời gian này để qua Ấn Độ để mua các gia vị. Kể từ khi đánh chiếm được thành phố Goa và tách rời nó khỏi Ấn Độ từ năm 1510, Bồ Đào Nha chiếm độc quyền trong việc buôn bán và phân phối gia vị ở Âu Châu. Nước Bồ trở nên hùng mạnh hơn. Một mặt khác, dưới sự bảo trợ của Đức Giáo Hoàng và vua Bồ, các tu sĩ Dòng Tên được phép lên đường qua Ấn Độ sang Nhật Bản, Trung Quốc để truyền bá Thiên Chúa Giáo.
Có lẽ giống như trong chuyến hành trình của Cha Matteo Ricci (1552-1610) vào năm 1578, 13 là những nhân vật được trọng vọng trong xã hội, tám vị nhà Dòng Tên có thể được trao cho hai phòng ngủ rất nhỏ bé -mỗi phòng chỉ khoảng 8 ft x 10ft 14 và trong đó có kê 4 cái giường nhỏ 15 cho bốn vị tu sĩ, nhưng có cửa sổ hướng ra mặt biển ở phía sau thuyền. Đây là một vinh dự cho các ngài vì họ được đối xử như những vị sĩ quan quan trọng trong bộ chỉ huy của hạm trưởng. Nhưng ông Mocquet không được nhiều trọng vọng như thế. Là một thường dân, giường của ông là một tấm nệm rơm mà ông mang theo được đặt trên boong tàu. 16 Đêm về, chiếc màn của ông là bầu trời bao la đầy trăng sao sáng tỏ. Không những vậy, mỗi ngày ông phải chìa tay xin khẩu phần thức ăn như bao nhiêu hành khách khác mà thuyền trưởng đã phân phát. Tối ngủ, nằm trên boong tàu, ông cũng như nhiều người khác phải chịu cảnh mưa đổ xuống bất chợt khi con thuyền dọc theo bờ biển phía tây Phi Châu. Khác hẳn với ông Mocquet, các tu sĩ được quyền mang theo thức ăn, rượu vang và nước uống riêng lên tàu. Nhưng đây cũng là một gánh nặng vì phòng ốc quá chật chội, các ngài phải chứa chất nào chai, thùng lẫn bao khắp phòng và ngập lên như núi. Nhiều quá đến nỗi các ngài phải len lỏi bước đến chiếc giường cỏn con chỉ vừa vặn cho một thân người nằm. Về đêm, duỗi chân có phần rất khó khăn vì chiếc giường con quá ngắn. Người nào có chân dài sẽ đụng cả lên đầu người nằm kế bên. Không những vậy, đêm xuống chuột chạy nhảy tứ tung tìm thức ăn trong phòng; nó leo cả lên người đang nằm trên giường mà không một chút mấy sợ hãi. 17
Có lẽ trong ngày đầu mọi người đề hăng hái chen lấn nhau trên boong tàu để ngắm vẻ đẹp thiên nhiên, bao la và hùng vĩ của biển cả. Đối với nhiều người như Pina, là dân sống miền núi non, có lẽ anh chưa bao giờ được đi biển cả. Chẳng bao lâu, gió căng buồm, thổi mạnh, con thuyền vượt sóng biển lướt lên trước. Ra khơi khung thuyền bắt đầu chòng chành, thuyền lắc lẻo theo sóng làm mọi người cảm thấy không đứng vững. Mặt mày choáng váng. Bụng bắt đầu muốn ói mửa. Một số người may mắn đứng vịn thành tàu, nghiêng người hướng ra biển. Sau khi mửa xong, tuy bụng đã cạn, nhưng đầu óc vẫn còn quay cuồng. Tội nghiệp thay cho những người đứng hay ngồi giữa lòng tàu, họ không thể kiềm chế được bao tử và bắt đầu ói mửa toé lên quần áo của người bên cạnh. Cảnh hổn độn, kêu la và chửi bởi ngập trời không thể diễn tả được. 18
Đoàn tàu buồm hùng vĩ nối đuôi nhau về hướng Nam, Tây-Nam nơi mà họ sẽ đi qua quần đảo Madeira trước tiên (Hãy theo dõi hành trình của hạm đội trong Hình 7). Sau 4-5 ngày, nhìn xa xa cảnh hùng vĩ của nước và núi non, mọi người biết mình đã đến gần quần đảo này. Từ đây, theo làn gió thổi mạnh, những con thuyền lần lượt vượt trùng dương bỏ lại xa nhau hơn. Theo tục lệ hải hành vào thời ấy, khi qua khỏi quần đảo Madeira, hạm đội không cần cấu kết thành một đội hình mà có thể tiến hành một cách riêng rẽ. Trên tàu, nhìn qua hông tàu, ông Mocquet nhận ra chiến thuyền Bom Jesus đang rẽ sóng thật nhanh, vượt qua chiếc Vencimento và mất hút ở cuối chân trời. Thương thay, mấy tháng sau, khi gặp lại nhau thì nó chỉ còn lại cái vỏ cháy nám, trôi nổi vô định trên vùng biển Mozambique. 19
Dựa theo tiến trình gần 100 năm nay, người Bồ có thể tự tin đã quen thuộc với con đường biển đi qua Goa để mua gia vị. Nói chung, khi rời hải cảng Lisbon, đoàn thuyền buôn và chiến thuyền hộ tống sẽ theo dòng nước ngầm Canary chảy xuống phía nam. Dòng nước này sẽ di chuyển bên cạnh ba quần đảo: Madeira, Canaries và Cape Verde. Dựa theo chiều gió thổi, buồm sẽ căng ra. Thuận theo dòng nước biển Canary, thuyền theo gió đẩy thẳng họ xuống phía nam dọc theo bờ biển Phi Châu, gần Vịnh Guinea. Tuy nhiên, khi đến Cape Verde, dòng nước ngầm Canary sẽ chia ra làm hai ngả; một nửa sẽ đi về hướng tây và sát nhập với dòng nước ngầm Bắc Xích Đạo (North Equatorial Current) -Dòng nước này đi về phía tây, tây-bắc theo chiều kim đồng hồ. Trong khi đó, một nửa kia được đổi tên là dòng nước ngầm Guinea tiếp tục chảy dọc theo bờ biển các nước như Senegal, Gambia, Sierra Leon, v.v. chảy thẳng xuống Vịnh Guinea. Điều đáng lo ngại là sau khi qua khỏi Cape Verde, khí hậu cũng bắt đầu thay đổi hẳn. Nhiệt độ cũng như độ ẩm thấp bắt đầu gia tăng.
Khi họ vượt qua khỏi Cape Verde, còn cuộc hành trình kế tiếp, vị thuyền trưởng không còn tự tin tài năng của mình cho lắm. Kế tiếp là khu vực biển ảm đạm (doldrum) nằm giữa hai đường vĩ tuyến số 5 bắc-nam bao gồm cả đường xích đạo. Trong khu vực này thường thường không có gió hay rất ít gió. Những tàu buôn to lớn như Vencimento gặp rất nhiều khó khăn để vượt qua khỏi khu vực này. Kinh nghiệm hàng hải cho thấy con tàu đã tiến vào khu vực biển này rồi thường lẩn quẩn trong đó rất lâu, đến 2 tháng trời mới có thể lèo lái ra khỏi. Điều đáng ngại nhất là ở đây khí hậu cũng bắt đầu thay đổi; không khí trở nên nóng bức và ẩm thấp. Hầu như cách mỗi giờ đều có mưa to, gió lớn; trời đất mù mịt trong bóng đêm. Thêm vào nữa, cuộc sống chen chúc trên tàu thiếu vệ sinh nên gây ra bệnh tật khắp nơi 20. Nhận định rằng tình trạng của hành khách trên tàu đang trong hoàn cảnh hiểm nghèo, Bá Tước Feira phải đưa ra một quyết định một cách nhanh chóng. Hiện tại, ông có ba sự lựa chọn: thứ nhất, quay đầu thuyền trở về Lisbon; hay, thứ hai, sau khi vượt qua đường quỹ đạo, cố gắng đưa con thuyền ra khỏi vùng biển chết này bằng cách cố gắng lái nó về hướng nam, tây nam. Dựa theo dòng nước ngầm có tên là dòng nước ngầm Nam Xích Đạo (South Equatorial Current) đang chảy ngược chiều kim đồng hồ dọc theo bờ biển Brazil, họ sẽ bắt theo dòng nước ngầm này và theo chiều gió đưa con tàu về phương nam. Sau khi gần đến cửa biển Rio da Plata , con tàu sẽ quay về hướng đông nhắm thẳng về Mũi Hảo Vọng. Đối với người Bồ, con đường thủy này rất phổ thông vào thời ấy và được gọi là Đường Vòng Ngoài (Volta do Mar). Đây là con đường nhanh nhất để cặp bến Mozambique cho đúng kỳ hạn trong khoảng đầu tháng 8. Nếu được như vậy, Vencimento sẽ còn đủ thời gian và thuận chiều gió Nồm thổi qua biển Ẩn Độ từ hướng tây nam để đi về Goa. Nếu không, họ phải cập bến ở Mozambique và phải chờ đợi ở đó đến mùa xuân sang năm mới có thể khởi hành đến Goa, Ấn Độ. Sự lựa chọn thứ ba là dùng con đường mà nhà thám hiểm Bartholomeu Dias (1450-1500) đã khám phá ra con đường biển từ Lisbon xuống Mũi Hảo Vọng để bắt qua Ấn Độ Dương. Con đường thủy này được gọi là Đường Vòng Trong (Rota do Mar). Sự khác biệt giữa Vota do Mar và Rota do Mar là con tàu, khi đến gần đường Xích Đạo, sẽ xuôi thuận theo dòng nước ngầm Xích Đạo Ngược (Equatorial Countercurrent) cùng với dòng nước Guinea hiện diện trong Vịnh Guinea đẩy nó chạy thẳng về hướng đông, ven sát theo bờ biển 21. Sau đó, để ra khỏi vùng ảm đạm và vịnh Guinea một cách nhanh chóng, con tàu sẽ nương theo bờ biển, đi về hướng nam, ra khỏi vùng biển không gió. Bắt đầu khoảng vĩ tuyến 5, phía nam, cơn gió sẽ khơi dậy. Mặc dù đi ngược dòng với gió và dòng nước ngầm Benguela – Nó là một dòng nước đẩy mạnh từ phía nam lên bắc dọc theo bờ biển phía tây Phi Châu -con tàu giờ đây có thể thoát ra khỏi khỏi vùng ảm đạm. Nhưng sự nguy hiển gần kề sắp đến nữa là khi thuyền đi ngang qua Mũi Hảo Vọng, tất cả mọi người phải đương đầu với sóng to, gió lớn có thể đập tan con tàu của họ ra nhiều mảnh vụn.
Vào ngày 9 tháng 5, tương đối một cách nhanh chóng, cuối cùng Vencimento cũng tiến đến đường xích đạo. Nhưng điều tất cả mọi người không thể ngờ được là sau 6 ngày nóng sốt, Bá Tước Feira đã qua đời. Đồng thời, trên boong tàu vô số người ngã gục vì bệnh hoạn - Theo lời Ông Mocquet kể lại, cứ mỗi lần có người mất, thủy thủ phải tẩm liệm và bỏ 3 hay 4 xác người xuống lòng đáy biển. 22 Riêng về Bá Tước Feira, chính Ông Mocquet tẩm liệm và chuyển xác ngài qua con tàu cung cấp David 23 để được chở về Lisbon. Nếu tính theo tỉ lệ tử vong này, giả sử trên tàu, mỗi ngày họ tổ chức hai lần thủy táng, con số tử vong trong vòng hai tuần sau khi tiến đến đường xích đạo có thể lên đến 80-110 người 24. Tuy nhiên, đây chỉ là con số người đã mất. Con số người bị bệnh nói chung sẽ cao hơn rất nhiều. Có thể con số người bệnh này, theo tôi nghĩ, lên đến phân nửa số người trên tàu chỉ trong vòng hai tuần lễ vào đầu tháng 5.
Đứng trước hoàn cảnh khó xử, có lẽ vì số người bệnh và chết quá cao, vị hạm đội trưởng mới được bổ nhiệm Christovão de Noronha, 25 thay thế cho Bá Tước Feira đã quyết định tiếp tục cuộc hải trình theo sát bờ biển phía Tây Phi Châu. 26 Đã quyết định như thế, ông đã phủ quyết lời khuyên can của một số sĩ quan trong bộ chỉ huy của ông. Họ muốn quay mũi thuyền mà trở về Lisbon. Trong sách, ông Mocquet cũng chống đối quyết định này mà ông cho là sai lầm này.
Trong thế kỷ 17, kỹ thuật hải hành còn rất kém. Tuy có thể dùng Sextant để đo vĩ độ 27, họ vẫn chưa phát minh ra một dụng cụ để tính kinh độ 28. Vì không rõ kinh độ, thuyền trưởng sẽ không thể biết được vị trí con tàu của mình ở đâu. Trong hành trình, họ cũng rất lo ngại hải tặc đang hoành hành từ các quốc gia như Pháp, Anh và Hòa Lan đang rình rập đón chờ họ ở một hòn đảo nào đó. Thêm vào nữa, vì kỹ thuật tiên đoán thời tiết kém cỏi, khi hạm đội dự trù ngày tháng khởi hành, họ chắc chắn đã không dự trù cho thời tiết dọc theo bờ biển Phi Châu, nhất là ở vùng Sierra Leone. Họ đã không biết rằng khoảng đầu tháng 5, 29 sau khi tiến vào khu vực ảm đạm, thời tiết bắt đầu thay đổi và xấu đi. Cơn gió thổi căng phồng các buồm bỗng dưng biến mất. Mấy chiếc buồm rũ xuống như ngọn lá tàn. Thay thế vào đó là cảnh nóng bức ray rứt, khó chịu vô biên 30. Mồ hôi họ bắt đầu đổ ra từng giọt. Nhiệt độ ngoài khơi tuy không cao cho lắm, khoảng 85-88 độ F, nhưng ánh nắng chói chang của mặt trời lúc nào cũng ập trên đầu họ. Cộng vào đó, độ ẩm bắt đầu gia tăng lên hơn 70%. 31 Thêm vào nữa, thời tiết thường thay đổi bất chợt. Cách mỗi giờ trong ngày, trên đầu mây đen cùng nhau kéo đến bao phủ khắp khung trời. Cơn gió biển bất chợt lùa vào khoang thuyền khiến hành khách cảm thấy dễ chịu. Nhưng không bao lâu, trận mưa nóng, bẩn thỉu ào ạt rơi lên đầu tóc và quần áo của hành trách đứng trên boong tàu. Trên trời, sấm sét xoé nhòa màn trời đen với nhiều tiếng nổ vang rền. Nhìn cảnh tượng vang rền, sáng rực cả bầu trời, cho đến bây giờ họ bắt đầu run sợ trước sức mạnh của thiên nhiên và lo sợ cho tính mạng của mình. Mặc dù gió tiếp tục rít lên từng hồi, nhưng những cơn mưa xối xả này quá ngắn, không đủ làm căng buồm được. Trên boong tàu Vencimento, mấy trăm người đứng đó chịu trận vì không nơi trú ẩn.
Tuy tiến vào Vịnh Guinea thì dễ nhưng còn đi ra khỏi thật là khó khăn vì phía nam của vịnh là dòng nước chảy ngược Benguela từ phía nam đẩy thẳng lên phía bắc, dọc theo bờ biển phía tây Phi Châu. Vận tốc con tàu sẽ rất chậm hướng về Mũi Hảo Vọng vì phải chống chọi với cơn gió ngược thổi lên từ hướng đông-nam và cả dòng nước ngầm Benguela. Còn một điều tai hại hơn nữa là, nếu một khi đã chọn lựa con đường này, một điều chắc chắn là chiếc Vencimento sẽ không thể đến đúng hẹn với các thuyền buôn khác mà phải trễ hơn. Theo lời ông Mocquet kể lại, Vencimento cập bến Mozambique vào ngày 29 tháng 9. 32 Khi đã trễ như thế, chiếc tàu buôn sẽ ngừng chân tại Mozambique vài tháng, thay vì khoảng hai tuần mà thôi, và phải chờ gió Nồm thổi lên từ hướng tây-nam về hướng Ấn Độ -Thường thường cơn gió mùa này bắt đầu thổi vào tháng 4 hay tháng 5 mỗi năm.
Tuy nhiên, trong hạm đội khởi hành năm 1608 có hai chiếc tàu mà tôi biết chắc chắn đã theo hành trình dọc theo bờ biển Brazil vì khác hẳn với Vencimento, chúng cặp bến rất đúng ngày giờ tại Mozambique hay Goa. Tôi muốn nói đến hai chiếc Bom Jesus và Oliveira. Vì cập bến Mozambique đúng ngày giờ trong tháng 8, chiếc Bom Jesus lọt vào ổ phục kích của tàu chiến Hòa Lan. Tương tự như thế, chiếc tàu buôn Oliveira, khi đến gần Goa bị chặn đường bởi ba chiếc tàu chiến Hòa Lan. Biết mình khó lòng chống cự, thuyền trưởng của Oliveira ra lệnh đốt tàu để nó khỏi lọt vào tay người Hòa Lan. May mắn thay, các thuyền buôn như Vencimento, Bartholomeu, Antonio và Jeronimo vì theo một hành trình khác dọc theo bờ biển phía tây Phi Châu nên đã lẫn tránh được cuộc phục kích đẫm máu này. Đến mãi cuối tháng 9, những thuyền buôn này lần lượt đáp bến Mozambique mà không phải chạm trán thủy quân phục kích của quân thù nghịch -Lúc này, người Hòa Lan đã dời hạm đội của mình đến Goa. Nếu các con thuyền này theo đúng lịch trình thì giờ đây lịch sử Việt Nam cũng có thể không biết Francisco de Pina là ai nữa.
Theo ông Mocquet, mùi hôi thối là do những cơn mưa nóng gây ra. Có lẽ cát bụi từ Sa Mạc Sahara bị bốc lên khí quyển, trộn trong không khí, rồi rơi xuống thành mưa bùn. Hòa trộn trong cát bụi có cả trứng côn trùng. Khi cơn mưa bẩn thỉu tắt hẳn, thật tội nghiệp cho những hành khách đứng trên boong tàu. Lúc đầu, họ cũng chịu khó thay quần áo. Nhưng khi quần áo không còn đủ dùng, như ông Mocquet đã trình bày, họ chỉ có thể đứng đó hứng nước mưa bẩn thỉu rơi trên người. Thêm vào nữa, mùi nồng nặc cũng do sự thiếu vệ sinh ngay từ chiếc tàu mà ra. Ngày xưa, người Bồ sống không được vệ sinh cho lắm. Giáo Sư C.R. Boxer (1904-2000) cho biết họ không dùng nhà vệ sinh trên tàu, mà dùng bô vệ sinh người Bồ mang theo bên người. Thêm vào nữa, thức ăn họ mang theo bắt đầu bị mốc hay lên men. Đến nỗi nước đựng trong thùng cũng lên mùi ẩm thấp. Trước khi uống, họ phải lấy khăn bịt mũi vào để khỏi ngửi mùi mốc bốc lên. Thịt heo muối cũng phải vứt đi xuống biển vì không thể ăn được nữa. Ghê gớm hơn nữa là trong nước mưa chứa đựng trứng của các con côn trùng. Sau cơn mưa, trứng nở ra thành những con ấu trùng, cựa quậy tứ tung ngay trên quần áo, thức ăn phơi trên thành tàu hay những vũng nước nhỏ đọng lại trên boong tàu. 33
Sáu tháng sau, khi đáp bến ở Mozambique, vị Linh Mục Phanxicô phục vụ trên Vencimento nói cho ông Mocquet biết rằng từ lúc rời Lisbon hiện tại tổng số người tử vong trên tàu lên đến 735. Theo lời vị Giáo Sĩ này, hiện nay mỗi ngày có cả 10-15 người bị thiệt mạng. 34Nếu con số này chính xác, Vencimento đã mất rất nhiều hành khách do bệnh hoạn mà ra. Hiện giờ số người còn sống trên tàu chỉ còn lại 165 người. 35 Nhưng chúng ta biết người sống sót trên Vencimento có ông Mocquet, 4 tu sĩ trẻ nhà Dòng Tên, bộ chỉ huy hạm đội, một số hành khách, thủy thủ và binh lính trên tàu. Nếu chúng ta dùng con số tử vong của ông Mocquet đã nêu lên trước đây, đó là 3 hay 4 người chết mỗi ngày trong vùng ảm đạm, khi con tàu đến được Mozambique, tổng cộng con số tử vong có thể lên đến 720 36 người. So sánh giữa hai con số này (735 so với 720), lời nói của vị Giáo Sĩ rất đáng tin cậy. Nhưng chúng ta nên nhớ rằng, số tử vong không phải ngừng lại sau khi họ dừng chân trên đảo Mozambique, mặc dù con số này sẽ giảm thiểu dần dần theo thời gian 5 tháng họ sống trên hòn đảo thiếu thốn này. Vì thế, con số người còn sống sót trên Vencimento đáng lẽ ra phải ít hơn 165 người. Nhưng dựa theo ông Francois Pyrard, một nhà thám hiểm khác từ Pháp, bắt đầu có mặt ở Goa vào năm 1608, số người còn lại trên mỗi chiếc thuyền buôn cặp bến ở Goa, Ấn Độ trong năm 1609 chỉ có khoảng 300 người 37 mà thôi. Điều là cho thấy những hành khách từ các tàu bị đánh đắm hay mắc cạn đều được bổ xung lên các các tàu buôn còn lại. 38
Lúc này, có lẽ cũng vào cùng thời gian Bá Tước Feira qua đời, hai Giáo Sĩ thâm niên nhà Dòng Tên bị bệnh dịch mà mất. Riêng về Cha Vieira, trong cuốn sách Momenta Missionum Societatis 39 đã viết một câu ngắn gọn về ngài:
“Vieira, P. Nicolaus from death on the trip from kingdom to India; [1608], the Japan Mission work.”
Tạm dịch:
“Vieira P. Nicolaus đã mất trong chuyến hành trình đến Ấn Độ [1608], sứ mệnh khai đạo ở Nhật Bản.”
Còn số phận của Cha Rodrigues thì tôi không rõ cho lắm. Hiện giờ, tuy cố gắng, tôi vẫn chưa tìm được chút tài liệu về ngài. Tôi nghĩ ông ấy đã mất trong mùa dịch trên.
Tương tự như thế, tôi đã không tìm thấy một tài liệu nào về hai người bạn đồng hành của Pina, đó là hai anh Bernado Luis và Francisco Ferraz. Có lẽ họ cũng mất rồi chăng? May mắn thay. Bốn người thanh niên khác trong Dòng Tên vẫn còn sống sót, đó là các Giáo Sĩ Borges, Giáo Sĩ Lopes, Semedo và Pina. Cha Borges sau này về Macao trở thành Viện Trưởng (Rector) của trường đại học Saint Paul. Sau đó anh được chuyển qua Nhật Bản hành đạo, nhưng bị bắt và xử tử bằng cách chổng ngược đầu xuống hố phân. 40 Vài ngày sau, anh tử đạo năm 1633 41. Sau khi học xong thần học, Cha Lopes cũng phục vụ tại Macao và cuối cùng giữ chức vụ Giám Học của Sơ Tu và cũng là Giáo Sư Thần Học ở Macao. Anh mất năm 1627 42. Còn Semedo, sau khi học xong, được chuyển qua Trung Quốc tham gia nhóm truyền đạo nơi ấy với chức vụ cao nhất là Phó Giám Tỉnh (Vice Provincial). Anh mất năm 1658. 43 Kể từ năm 1614, tình hình truyền đạo ở Nhật Bản đang rối ren nên Pina không được bổ nhiệm về đó. Vào năm 1617, anh được chuyển về Đàng Trong, phục vụ dưới quyền Cha Buzomi và do tai nạn, anh mất cuối năm 1625.
Trong tình trạng kiệt quệ về sức khoẻ lẫn tinh thần, lại mất đi hai vị Giáo Sĩ Hướng Dẫn, tôi biết chắc rằng cuộc sống gò bó, bệnh tật và chết chóc trên tàu không dễ chịu cho lắm đối với bốn vị Giáo Sĩ trẻ tuổi của chúng ta. Lịch sử nhà Dòng Tên cũng cho biết trong lúc này, bỗng nhiên họ được quen biết với hai người sĩ quan thuộc dòng quí phái tên là Bernardo Pereira (1588-1624) và Rui d’Ameida. 44 Pereira ngỏ ý tham gia vào Dòng Tên, còn Ameida muốn trở thành một tu sĩ dòng Augustinô. Sau khi học xong ở Goa và trở thành Giáo Sĩ, vào năm 1624, Cha Pereira cùng Cha Francisco Machado (1588-1624) cố gắng xâm nhập vào Ethiopia giảng đạo, nhưng cả hai bị bắt và tử đạo.
Phần còn lại của chuyến hải hành tốt nhất là nên được kể lại từ chính ông Mocquet, người từng trải trên con tàu Vencimento. Sau đây là những mẫu chuyện được kể lại trong sách của ông: 45
“… because fever with great kidney pain took me so that the badly lasted almost the whole trip. After that, that was not all, because I still had this incovenient and dangerous lovende disease that the Portuguese otherwise call beriberi, and the Dutch scurvy, which turned my blood black and putrid: my knees were so narrowed, that I could not extend my hips; my black thighs and legs are blackened and gangrened, and I was forced to cut myself every day to bring out this bad black rotten blood. I also cut my gums which were livid and overcoming my teeth, going every day on the edge of the ship from outside, holding on to the ropes with a small mirror in hand to see where I had to cut off: then when I had pulled that dead flesh and made a lot of black blood, washing my mouth and teeth of my urine, rubbing them hard: but that being done, the next day there was everything sometimes as much and more. And (the) misfortune was that I could not eat, desiring more to swallow than to chew, for the great pains we receive from this unfortunate evil. I have found no better remedy than to use strong syrup of gilliflower, and astringent gargles with good red wine. Strength of our people died every day, and could we not see anything other than throwing bodies into the sea, three and four at a time, and most of them still dead without help, behind some chest, the eyes and plants of the feet eaten by rats. Others were found dead in their beds, after being bled, and moving their arms, the vein reopened and their blood coming to flow they fell in reverie of hot fever, thus dying without any help. It was only cries of great thirst and alteration. Because very often after having received their provision, which could be pint of water, putting it near them to drink when thirsty, their companions around them, and others even further away, came to steal this little water of these poor sick people asleep or turned to the other side. And even being under the deck in a dark place, they hit each other and beat each other without seeing each other; when they realized someone was about to sleal their water. Deprived of water, and for lack of a small drop, they died miserably without anyone wanting to rescue them from a little, not the father to the son, nor the brother to the brother, so much the desire to live by drinking near or each in his own. I was very often thus disappointed and frustrated with myself, but I comforted myself seeing so many others like me in the same situation: It was also the cause of not to dare to sleep too much, and put my water in place that one could not take it easily without me to realizing it.”
Tạm dịch là:
“Bởi vì sốt với cơn đau thận dữ dội đã khiến tôi yếu lả kéo dài gần hầu như trong toàn bộ chuyến đi. Sau đó, không chỉ thế thôi, bởi vì tôi vẫn mắc phải căn bệnh Lovende phiền phức và nguy hiểm này mà người Bồ Đào Nha thường gọi là Beriberi, và bệnh Ghẻ Lở (scurvy) Hòa Lan, khiến máu tôi trở nên đen và thối rữa: đầu gối của tôi bị xếp vào, đến nỗi tôi không thể kéo dài chân tay ra được; Đùi và chân của tôi bị nám đen và sần sùi, và tôi buộc phải tự cắt mình mỗi ngày để đưa ra vết máu thối đen bẩn thỉu ra. Tôi cũng cắt lợi phồng hết lên trên răng của mình, đi hàng ngày trên mép tàu từ bên ngoài, giữ chặt dây thừng với một chiếc gương nhỏ trong tay để xem chỗ nào tôi phải cắt bỏ: sau đó khi tôi đã kéo thịt chết đó và cắt ra rất nhiều máu đen, rửa miệng và răng bằng nước tiểu của tôi, chà xát mạnh: nhưng điều đó đã được thực hiện, ngày hôm sau còn làm nhiều hơn thế nữa. Và (điều) bất hạnh là tôi không thể ăn, chỉ tập trung vào nuốt xuống cho thật nhanh, không cần phải nhai, vì mỗi lần như thế rất là đau. Đó là những nỗi đau lớn mà mình phải chịu đựng từ điều bất tiện đáng tiếc này. Tôi đã tìm thấy không có biện pháp khắc phục tốt hơn là sử dụng xi-rô mạnh của hoa gilly, và thuốc súc miệng với rượu vang đỏ tươi. Nhiều người trong số chúng tôi đã chết mỗi ngày, và chúng tôi không thể làm gì khác ngoài việc ném xác họ xuống biển, ba và bốn người một lúc, và hầu hết trong số họ đã chết mà không có sự giúp đỡ, đằng sau ngực, mắt và lòng bàn chân của ho đã bị chuột gặm nhấm. Còn những người khác đã chết ngay trên giường của họ, sau khi bị lấy máu độc ra. Khi họ di chuyển cánh tay của họ, vết thương lại bong ra khiến máu chảy ra nữa. Họ còn rơi vào tình trạng nóng sốt nữa. Do đó họ chết trong thầm lặng mà không cần bất kỳ sự giúp đỡ nào của ai. Nếu có chỉ là tiếng rên rỉ của sự khát khao và để ý. Bởi vì rất thường sau khi nhận được phần thức ăn của họ, có thể là nửa lít nước, đặt nó gần họ để uống khi khát, những người bạn đồng hành xung quanh họ, và những người khác thậm chí xa hơn, đã đến để ăn cắp ít nước khi những người bệnh khốn khổ này đang ngủ hoặc quay sang phía khác. Và ngay cả khi ở dưới lòng tàu trong một nơi tối tăm, họ đánh nhau và đánh nhau mà không thấy nhau, khi một người nào đó ăn cắp nước của họ. Vì thường xuyên bị thiếu nước, và ngay cả một giọt nhỏ, họ đã chết một cách thảm hại mà không ai muốn giải cứu họ một chút nào hết, không phải cha cho con trai, cũng không phải anh trai với em trai, rất nhiều mong muốn được sống bằng cách uống lén hoặc uống một mình. Tôi thường xuyên thất vọng với quy tắc của mình, nhưng tôi tự an ủi mình với rất nhiều người khác như tôi: Đó cũng là nguyên nhân khiến tôi không dám ngủ quá nhiều, và đặt nước vào vị trí mà người ta không thể dễ dàng lấy mà tôi không biết.