Nietzsche
Bài Ca Mặt Trời là một bài ca về ánh sáng, nhưng lại phát ra từ một đêm đen tối tăm nhất.
Phanxicô chưa tròn bốn mươi lăm tuổi, nhưng khá suy nhược. Sự từ bỏ và chay tịnh lâu ngày đã huỷ hoại sức khoẻ của ngài. Ngài có ít hơn hai năm để sống. Trên các đỉnh núi cô tịch của miền Alverna, ngài vừa nhận các dấu Cuộc Thương Khó của Đức Kitô nơi thân xác mình. Ngài đã trở thành người mà ngài không ngừng chiêm ngắm, một ai đó đã bị đâm thâu qua. Trong nỗi đau tột cùng, trên lưng một con lạc đà, ngài xuống núi và lên đường đến Assisi. Nhưng lòng nhiệt thành vốn đang hướng dẫn ngài, thôi thúc ngài loan báo Tin Mừng bất kỳ nơi nào ngài đến.
Không lâu sau khi trở về Portiuncula, Phanxicô nhờ người ta dẫn đến San Damiano, nơi Clara và các chị em đang sống. Vấn đề sức khoẻ đã khiến cuộc viếng thăm này trở thành một cuộc ở lại bất đắc dĩ chừng vài tháng. Kể từ khi trở về từ Trung Đông, Phanxicô phải bệnh chảy nước mắt. Đột nhiên bệnh này trở nên nặng hơn và gây ra một cuộc khủng hoảng trầm trọng. Thực tế, Phanxicô đã bị mù, những cơn đau đầu kinh khủng hành hạ ngài, ngài không thể trở lại Portiuncula được. Chị Clara đặt người bệnh và những bạn đồng hành trong một ngôi nhà nhỏ gần tu viện, và để bảo vệ mắt Phanxicô khỏi ánh sáng chói chang ban ngày, chị làm một góc phòng sâu vào trong bằng thảm rơm.
Hơn năm mươi ngày, Phanxicô sống trong căn phòng chật hẹp tối tăm này vì không thể chịu được dù một tia nắng nhỏ nhất ban ngày hoặc một đốm lửa tí xíu vào ban đêm. Đôi mắt đau đến nỗi ngài không thể nghỉ ngơi hay ngủ được và chuột chạy lon ton quanh phòng, thậm chí trên mình ngài, khiến ngài không nghỉ được một lúc nào cả.
Các mối bận tâm khác lại tiếp nối với những đau đớn thể lý. Phanxicô suy nghĩ về những anh em Chúa gửi đến cho ngài và cho sứ vụ. Ngài chưa bao giờ cảm thấy cùng cực và kiệt sức đến thế. Suốt chuỗi ngày bất động lê thê như thế, ngài vẫn thấy toàn bộ đời sống mở ra trước mặt mình: tất cả những gì Thiên Chúa đã làm cho mình và cách thức ngài cố gắng đáp trả.
Hai mươi lăm năm trước, chính ở nơi đây, trong nhà thờ San Damiano vốn không hơn không kém một nhà nguyện nhỏ bằng đá, hoang tàn, Phanxicô đã nghe tiếng gọi của Đức Kitô, “Hãy đi và sửa lại nhà ta, như con thấy đấy, nó đang sụp đổ”. Trong sự đơn sơ và cảm thức bẩm sinh về những điều đặc biệt và tầm thường, ngài đã trở thành một anh thợ nề ngay lập tức. Với đôi tay mình, ngài khôi phục không chỉ San Damiano mà còn hai nhà thờ nhỏ khác trong vùng quê Assisi.
Cho đến một ngày kia, khi tham dự thánh lễ tại một trong những ngôi nhà nguyện nhỏ vốn được sử dụng lại nhờ sự chăm sóc của ngài, Phanxicô nghe đoạn Tin Mừng liên quan đến việc gửi các môn đệ đi truyền giáo, “Hãy đi…, hãy công bố trên đường rằng, Nước Trời đang đến gần. Đừng mang theo vàng bạc hay bao bị đi đường, đừng mặc hai áo, đừng mang giày, hay gậy gộc”.
Tâm hồn Phanxicô ngập tràn một ánh sáng đích thực. Sửa lại nhà Chúa không phải như ngài nghĩ, là đặt lại viên đá này trên viên đá kia nhưng là trở lại những con đường sứ vụ của Tin Mừng, tái khám phá điều kiện của các môn đệ được Thầy sai đi. “Đây là điều tôi đang tìm kiếm, đây là điều nung nấu tâm hồn tôi những ước muốn hoàn thành tự đáy lòng mình!”, ngài la lên vào lúc đó. Ngay lập tức, ngài rời bỏ sự cô tịch bấy lâu kể từ khi trở lại và lên đường đến với những người khác đúng như Đức Kitô đã yêu cầu, không của cải, không nguồn cung cấp, không quyền lực. Vâng, đích thực là nó; đó là cách sửa chữa Giáo Hội đang suy sụp.
Rồi Chúa ban cho ngài những người anh em. Cùng với họ, Phanxicô tra tay cố gắng xây dựng một tình huynh đệ thực sự dựa trên Tin Mừng. Tình huynh đệ của những người nghèo, không giữ của cải gì; không quyền lực; không tự vệ; một tình huynh đệ thực sự khác với những tu viện giàu có của thế kỷ đó. Các anh em không mảy may đóng một vai trò nào trong xã hội; họ chỉ muốn giới thiệu “Tin Mừng” cho mọi người. Con số các anh em gia tăng và một hơi thở dịu mát của lòng yêu mến phủ lên thế kỷ của lửa và sắt.
Những người theo Kitô giáo không quay lưng lại với chính sách bạo lực, đặc biệt với Hồi Giáo. Mối quan tâm của họ không phải là truyền giáo mà là đạo binh thánh giá. Một đạo binh gay gắt nhân danh một Thiên Chúa thực sự dịu hiền! Vì thế, Phanxicô rời đi Đông Phương, không phải với tư cách là thành viên của đạo binh thánh giá, nhưng với tư cách là một sứ giả của hòa bình, với đôi bàn tay trắng, để công bố với vua Hồi “Sự trìu mến đang đến”. Đây không phải là một cách thức sửa chữa Giáo Hội Đức Kitô sao?
Nhưng Phanxicô không cải tâm vua Hồi, cũng không cải tà quy chánh những thành viên của Đạo Binh Thánh Giá, những người đổ xô về thành Damietta để chiến đấu với sự tàn bạo dã man của những con thú. Trở về, Phanxicô suy nhược, đau yếu và hầu như mù loà. Ngoài ra, ngài phải gấp rút trở về vì sự bất đồng đã nổ ra giữa các anh em. Những cha tổng đại diện mà Phanxicô đã giao phó việc cai quản nhà dòng của ngài khi ngài vắng mặt đã tự cho mình quyền hạn thêm thắt những điều khoản mới vào luật sống của các anh em. Những điều khoản này vốn có ý làm cho đời sống anh em hoà hợp theo tinh thần tu viện truyền thống nhưng lại gây rối ren cho tinh thần của những con người vẫn rất gắn bó với lý tưởng ban sơ của Phanxicô. Tuy nhiên, con số các anh em lại gia tăng đáng kể. Người ta cảm thấy cần có một tổ chức nào đó. Có nhiều giáo sĩ trong số những người mới đến, những người có trình độ học vấn cao. Không phải mọi người đều sẻ chia tính đơn sơ của các thầy Phanxicô đầu tiên, thậm chí một ước muốn nào đó về ưu tiên và quyền hạn cũng nảy sinh nơi một số anh em một sự phủ nhận thẳng thừng điều mà Phanxicô nhắm đến. Trong một hoàn cảnh như thế, mọi thứ có thể trở thành vấn đề từ ngày này sang ngày khác.
Trong bóng tối của gian phòng, Phanxicô nghĩ đến những sự kiện này bao ngày đêm. Một lần nữa, ngang qua những tầm với của ký ức, ngài lại nghe tiếng Chúa, “Phanxicô, hãy đi sửa nhà ta, nó đang sụp đổ”. Đối diện với tiếng gọi này, mọi thứ ngài đảm nhận cho đến bây giờ dường như quá nhỏ bé, như một trò đùa hay thậm chí như một ngõ cụt. Bấy giờ, Phanxicô tự hỏi, Thiên Chúa muốn gì ở mình. Tâm sự với những người bạn, ngài thổ lộ, “Cho đến bây giờ, chúng ta chưa làm gì cả. Chúng ta hãy bắt đầu làm một điều gì đó”.
“Làm một điều gì đó!”, nhưng điều gì? Không phải là vấn đề băng qua đồi núi và thung lũng để công bố “Tin Mừng” nữa. Tê liệt, mắt đau liên lỉ, cơ thể suy sụp, buộc ngài phải bất động và lặng thinh. Rồi theo dòng thời gian, Phanxicô dường như càng bị nuốt chửng trong bóng đêm. Đây có phải là sửa nhà Thiên Chúa chăng?
Chị Clara trông nom tu viện kế bên. Chị theo con đường của Phanxicô từ ban đầu và vui vẻ coi mình như “một cành cây bé nhỏ”. Chị biết nhiều điều. Chị biết, sau hành trình dài đi đến cuối đêm đen, ánh sáng sẽ trở lại với linh hồn Phanxicô. Rồi ngài sẽ nói đến những điều thực sự quan trọng. Vai trò của ngài giờ đây là cầu nguyện và thinh lặng đợi chờ.
Rồi một đêm kia, khi phải thức trắng và đau đớn, Phanxicô sức cùng lực kiệt mấp mé bên bờ thất vọng, ngài xin Thiên Chúa xót thương. Lập tức, một tiếng nói phát ra từ bên trong, “Phanxicô, hãy vui lên như thể con đã ở trong vương quốc của Ta”; đồng thời, một ánh sáng dịu nhẹ dọi vào tâm hồn, ánh sáng của vương quốc đến gần ngài. Ánh sáng này làm cho ngài thấy mọi sự trở nên mới mẻ. Nó tựa hồ ánh sáng phục sinh. Vào khoảnh khắc đó, toàn thể vũ trụ như được vinh quang Thiên Chúa chạm đến. Nước Trời đã bắt đầu, ở đây và lúc này trong sự huy hoàng tinh tuyền.
Đây không phải là lúc co cụm trong chính mình để than van, để nhìn lại hay để ước mơ. Đây là lúc tán dương và hát ca. “Hãy vui lên!”, đây là điều Chúa muốn ở ngài bây giờ. Vui lên với mọi thọ tạo. “Việc của con là hân hoan, vui mừng với vạn vật”.1 Không có gì quan trọng hơn cho tương lai của Giáo Hội và thế gian. Đây cũng là tu sửa nhà Thiên Chúa.
Và như thế, một triều sóng ca khen mênh mông trào dâng trong tâm hồn Phanxicô, mở toang trong ngài những kho dự trữ lòng nhiệt thành và cái nhìn kỳ diệu của một đứa trẻ. Lời tán dương này hướng đến ánh huy hoàng của mặt trời, vẻ tráng lệ của những vì sao, đôi cánh của gió, những thì thầm của nước, cái dữ dội của lửa và lòng khiêm tốn của trái đất. Một vầng dương lớn đang mọc lên trong tâm hồn Phanxicô. Ngày ló dạng trên Assisi. Đó là một buổi sáng ngập tràn ánh sáng diệu vợi, Phanxicô gọi những người bạn của mình, ngài đang toả rạng. Ngài ngồi dậy, tập trung một lúc và bắt đầu hát:
Lạy Đấng Tối Cao, Toàn Năng và Tốt Lành,
mọi chúc tụng, ca khen, vinh quang và danh dự,
đều quy về Ngài;
chỉ thuộc về Ngài, lạy Đấng Tối Cao,
và không ai xứng đáng kêu tên Ngài.
Mọi thọ tạo phải tán dương Ngài, lạy Chúa,
đặc biệt là Anh Mặt Trời quý tộc,
anh mang lại ngày mới và nhờ anh, Ngài chiếu sáng chúng con:
anh đẹp, toả chiếu huy hoàng;
anh là biểu tượng của Ngài, lạy Đấng Tối Cao.
Lạy Chúa, Ngài đáng được tán dương
vì Chị Mặt Trăng và các Vì Sao:
Ngài tạo ra họ trên các tầng trời:
sáng láng, quý giá và xinh đẹp.
Lạy Chúa, Ngài đáng được tán dương, vì Anh Gió,
không khí và các tầng mây,
vì tầng trời thanh bình và mọi vùng, mọi miền,
nhờ chúng, Ngài mang lại sự sống cho các thọ tạo.
Lạy Chúa, Ngài thật đáng tán dương, vì Chị Nước
Chị rất hữu ích và khiêm tốn,
quý giá và trinh khiết.
Lạy Chúa, Ngài thật đáng tán dương, vì Anh Lửa,
nhờ anh, Ngài chiếu tỏa đêm đen:
Anh đẹp và vui tươi,
bất khuất và mạnh mẽ.
Lạy Chúa, Ngài thật đáng tán dương,
vì Chị Mẹ Trái Đất của chúng con
Ngài nuôi nấng và cưu mang chúng con,
và sản sinh đủ loại trái trăng,
hoa muôn màu và cỏ cây lốm đốm.
Mang vết thương của Đức Kitô trong thân xác mình, con người này hát khen tình huynh đệ của mặt trời, các ngôi sao, gió, nước, lửa và đất. Chưa bao giờ có cuộc hội ngộ như thế giữa đêm đen của sự thất đoạt và sự huy hoàng của vũ trụ, giữa thánh giá và mặt trời.
Bài ca này sắp đặt tổ chức hôn lễ của trời và đất thật sự là bài ca về một người vừa được vinh quang Thiên Chúa chạm đến. Đó là bài ca của một người được hoà giải và cứu rỗi.
Bài ca này không phải là một ngẫu hứng thuần túy, nhưng Phanxicô đã cưu mang nó trong một thời gian nào đó. Thực ra, ngài đã ngâm nga nó suốt cả cuộc đời. Người ta thấy những biểu hiện của nó trong cái xô bồ của cuộc sống thường ngày của ngài để rồi, cuối cùng nó được cất lên tận cuối hành trình thiêng liêng, ngân vang mãi đến mức độ nên một với toàn bộ đời sống với sự trưởng thành sâu sắc của hữu thể ngài. Sự tuôn trào cuối cùng này là những khoảnh khắc sáng tạo khi hữu thể tập trung mọi sức lực sống động và toàn bộ lịch sử của nó trong một cảm xúc duy nhất, đột nhiên làm nảy sinh một thứ ngôn ngữ mới vốn diễn đạt cách toàn vẹn.