Thấy đám đông, Ðức Giê-su lên núi.
Người ngồi xuống, các môn đệ đến gần bên. Người mở miệng dạy họ rằng:
“Phúc cho ai có tâm hồn nghèo khó,
vì Nước Trời là của họ
Phúc cho ai hiền lành,
vì họ sẽ được Ðất Hứa làm gia nghiệp.
Phúc cho ai sầu khổ, vì họ sẽ được Thiên Chúa ủi an.
Phúc cho ai khát khao nên người công chính,
vì họ sẽ được Thiên Chúa cho thoả lòng.
Phúc cho ai xót thương người,
vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương.
Phúc cho ai có tâm hồn trong sạch,
vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa.
Phúc cho ai xây dựng hoà bình,
vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa.
Phúc cho ai bị bách hại vì sống công chính,
vì Nước Trời là của họ.
Phúc cho anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả,
bách hại và vu khống đủ điều xấu xa.
Anh em hãy vui mừng hớn hở,
vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời
thật lớn lao.”
Khi ấy, Ðức Giêsu lên tiếng nói:
“Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha,
vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều mà Cha đã mặc khải
cho những người bé mọn.
Vâng, lạy Cha, vì đó là lòng từ bi của Cha.
”Cha tôi đã giao phó mọi sự cho tôi.
Không ai biết Người Con, trừ Chúa Cha;
và không ai biết Chúa Cha, trừ Người Con và những ai
mà Người Con muốn mặc khải cho.
“Hãy đến cùng tôi những ai đang vất vả
mang gánh nặng nề,
tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng.
Hãy mang lấy ách của tôi và hãy học nơi tôi,
vì tôi hiền hậu và khiêm nhường.
Anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng.
Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng”.
“Nước Trời sẽ giống như chuyện mười trinh nữ cầm đèn của mình ra đón chú rể.
Trong mười cô đó, thì có năm cô dại và năm cô khôn.
Quả vậy, các cô dại mang đèn
mà không mang theo dầu.
Còn những cô khôn thì vừa mang đèn
vừa mang dầu theo.
Vì chú rể đến chậm, nên các cô thiếp đi, rồi ngủ cả.
Nửa đêm, có tiếng la lên: “Kìa chú rể, ra đón đi!”
Bấy giờ tất cả các trinh nữ ấy đều thức dậy,
và sửa soạn đèn.
Các cô dại nói với các cô khôn rằng:
”Xin các chị cho chúng em chút dầu của các chị,
vì đèn của chúng em tắt mất rồi!”
Các cô khôn đáp:
”Sợ không đủ cho chúng em và cho các chị đâu,
các chị ra tiệm mà mua lấy thì hơn”.
Ðang lúc các cô đi mua, thì chú rể tới,
và những cô nào đã sẵn sàng thì được đi theo chú rể vào dự tiệc cưới.
Rồi người ta đóng cửa lại.
Sau cùng, mấy trinh nữ kia cũng đến gọi:
“Thưa Ngài, thưa Ngài! mở cửa cho chúng tôi với!”
Nhưng Người đáp: “Tôi bảo thật các cô,
tôi không biết các cô!”
Vậy anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào, giờ nào.
“Khi Con Người đến trong vinh quang của Người,
có tất cả các thiên sứ theo hầu,
bấy giờ Người sẽ ngự lên ngai vinh hiển của Người.
Các dân thiên hạ sẽ được tập hợp trước mặt Người,
và Người sẽ tách biệt họ với nhau,
như mục tử tách biệt chiên với dê.
Người sẽ cho chiên đứng bên phải Người,
còn dê ở bên trái.
Bấy giờ Ðức Vua sẽ phán cùng những người
ở bên phải rằng:
“Hỡi những kẻ Cha Ta chúc phúc,
hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi
ngay từ thuở tạo thiên lập địa.
Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn;
Ta khát, các ngươi đã cho uống;
Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước;
Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc;
Ta đau yếu, các ngươi đã thăm nom;
Ta ngồi tù, các ngươi đã đến thăm”.
Lúc ấy những người công chính sẽ thưa rằng:
”Lạy Chúa, có bao giờ chúng con thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống;
có bao giờ thấy Chúa là khách lạ mà tiếp rước;
hoặc trần truồng mà cho mặc đâu?
Có bao giờ chúng con thấy Chúa đau yếu hoặc ngồi tù, mà đến thăm đâu?”
Ðáp lại, Ðức Vua sẽ bảo họ rằng:
”Ta bảo thật các ngươi:
mỗi lần các ngươi làm như thế
cho một trong những anh chị em bé nhỏ nhất
của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy”.
Rồi Ðức Vua sẽ phán cùng những người ở bên trái rằng:
”Quân bị nguyền rủa kia, hãy đi cho khuất mắt Ta
mà vào lửa đời đời,
nơi dành sẵn cho tên Ác Quỷ và các sứ thần của nó.
Vì xưa Ta đói, các ngươi đã không cho ăn;
Ta khát, các ngươi đã không cho uống;
Ta là khách lạ, các ngươi đã không tiếp rước;
Ta trần truồng, các ngươi đã không cho mặc;
Ta đau yếu và ngồi tù, các ngươi đã chẳng thăm nom”.
Bấy giờ những người ấy cũng sẽ thưa rằng:
”Lạy Chúa, có bao giờ chúng con đã thấy
Chúa đói khát, hoặc là khách lạ,
hoặc trần truồng, đau yếu hay ngồi tù,
mà không phục vụ Chúa đâu?”
Bấy giờ Người sẽ đáp lại họ rằng:
”Ta bảo thật các ngươi:
mỗi lần các ngươi không làm như thế
cho một trong những người bé nhỏ nhất đây,
là các ngươi đã không làm cho chính Ta”.
Và những người này sẽ đi vào cực hình muôn kiếp,
còn những người công chính
được hưởng sự sống muôn đời”.
Vào giờ thứ sáu, bóng tối bao phủ khắp mặt đất mãi đến giờ thứ chín.
Vào giờ thứ chín, Ðức Giê-su kêu lớn tiếng:
”Ê-lô-i, Ê-lô-i, la-ma sa-bác-tha-ni!”
Nghĩa là: “Lạy Thiên Chúa, Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?”
Nghe vậy, một vài người đứng đó liền nói:
”Kìa hắn kêu cứu ông Ê-li-a”.
Rồi có kẻ chạy đi lấy một miếng bọt biển, thấm đầy giấm, cắm vào một cây sậy, đưa lên cho Người uống mà nói:
”Ðể xem ông Ê-li-a có đến đem hắn xuống không”.
Ðức Giê-su lại kêu lên một tiếng lớn, rồi tắt thở.
Bức màn trướng trong Ðền Thờ bỗng xé ra làm hai từ trên xuống dưới.
Viên đại đội trưởng đứng đối diện với Ðức Giê-su,
thấy Người tắt thở như vậy liền nói:
“Quả thật, người này là Con Thiên Chúa”.
Vừa hết ngày sa-bát, bà Ma-ri-a Mác-đa-la với bà Ma-ri-a mẹ ông Gia-cô-bê, và bà Sa-lô-mê, mua dầu thơm để đi ướp xác Ðức Giê-su.
Sáng tinh sương ngày thứ nhất trong tuần, lúc mặt trời hé mọc, các bà ra mộ. Các bà bảo nhau: “Ai sẽ lăn tảng đá ra khỏi cửa mộ giùm ta đây?” Nhưng vừa ngước mắt lên, các bà đã thấy tảng đá lăn ra một bên rồi,
mà tảng đá ấy lớn lắm.
Vào trong mộ, các bà thấy một người thanh niên ngồi bên phải, mặc áo trắng; các bà hoảng sợ.
Nhưng người thanh niên liền nói:
”Ðừng hoảng sợ! Có phải các bà tìm Ðức Giê-su Na-da-rét, bị đóng đinh. Người đã chỗi dậy rồi, không còn đây nữa. Ðây là chỗ đã đặt Người.”
Sau đó, Ðức Giê-su đi đến thành kia gọi là Na-in,
có các môn đệ và một đám rất đông cùng đi với Người.
Khi Ðức Giê-su đến gần cửa thành,
thì thấy người ta khiêng một người chết đi chôn,
người này là con trai duy nhất,
và mẹ anh ta lại là một bà goá.
Có một đám đông trong thành cùng đi với bà.
Trông thấy bà, Chúa chạnh lòng thương và nói:
”Bà đừng khóc nữa!”
Rồi Người lại gần, sờ vào quan tài.
Các người khiêng dừng lại.
Ðức Giê-su nói: “Này người thanh niên, tôi bảo anh: hãy chỗi dậy!”
Người chết liền ngồi lên và bắt đầu nói.
Ðức Giê-su trao anh ta cho bà mẹ.
Mọi người đều kinh sợ và tôn vinh Thiên Chúa rằng:
”Một vị ngôn sứ vĩ đại đã xuất hiện giữa chúng ta,
và Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người”.
Lời này được đồn ra trong khắp cả miền Giu-đê và vùng lân cận.
“Anh em hãy thắt lưng cho gọn, thắp đèn cho sẵn.
Hãy làm như người đợi chủ đi ăn cưới về,
để khi chủ vừa về tới nhà và gõ cửa, là mở ngay.
Khi chủ về mà thấy những đầy tớ ấy đang tỉnh thức,
thì thật có phúc cho họ.
Thầy bảo thật anh em: chủ sẽ thắt lưng,
đưa họ vào bàn ăn, và đến bên từng người mà phục vụ.
Nếu canh hai hoặc canh ba ông chủ về mà còn thấy họ tỉnh thức như vậy, thì thật có phúc cho họ.
Anh em hãy biết điều này:
nếu chủ nhà biết giờ nào kẻ trộm đến,
hẳn ông sẽ không để nó khoét vách nhà mình đâu.
Anh em cũng vậy, hãy sẵn sàng,
vì chính giờ phút anh em không ngờ,
thì Con Người sẽ đến”.
Khi đến nơi gọi là “Ðồi Sọ”, họ đóng đinh Người vào thập giá, cùng lúc với hai tên gian phi, một tên bên phải, một tên bên trái.
Một trong hai tên gian phi bị treo trên thập giá cũng nhục mạ Người:
”Ông không phải là Ðấng Ki-tô sao?
Hãy tự cứu mình đi, và cứu cả chúng tôi với!”
Nhưng tên kia mắng nó:
”Mày đang chịu chung một hình phạt,
vậy mà cả Thiên Chúa, mày cũng không biết sợ!
Chúng ta chịu như thế này là đích đáng,
vì xứng với việc đã làm.
Chứ ông này đâu có làm điều gì sai trái!”
Rồi anh ta thưa với Ðức Giê-su:
”Ông Giê-su ơi, khi ông vào Nước của ông,
xin nhớ đến tôi!”
Và Người nói với anh ta:
”Tôi bảo thật anh, hôm nay,
anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Ðàng”.
Cũng ngày hôm ấy, có hai người trong nhóm môn đệ
đi đến một làng kia tên là Em-mau,
cách Giê-ru-sa-lem chừng mười một cây số.
Họ trò chuyện với nhau về tất cả những sự việc mới xảy ra. Ðang lúc họ trò chuyện và bàn tán,
thì chính Ðức Giê-su tiến đến gần và cùng đi với họ.
Nhưng mắt họ còn bị ngăn cản, không nhận ra Người.
Người hỏi họ: “Các anh vừa đi vừa trao đổi với nhau về chuyện gì vậy?”
Họ dừng lại, vẻ mặt buồn rầu.
Một trong hai người tên là Cơ-lê-ô-pát trả lời:
”Chắc ông là người duy nhất trú ngụ tại Giê-ru-sa-lem
mà không hay biết những chuyện đã xảy ra trong thành mấy bữa nay”.
Ðức Giê-su hỏi: “Chuyện gì vậy?”
Họ thưa: “Chuyện ông Giê-su Na-da-rét.
Người là một ngôn sứ đầy uy thế trong việc làm
cũng như lời nói trước mặt Thiên Chúa và toàn dân.
Thế mà các thượng tế và thủ lãnh của chúng ta
đã nộp Người để Người bị án tử hình,
và đã đóng đinh Người vào thập giá.
Phần chúng tôi, trước đây vẫn hy vọng rằng
chính Người là Ðấng sẽ cứu chuộc Ít-ra-en.
Hơn nữa, những việc ấy xảy ra đến nay
là ngày thứ ba rồi.
Thật ra, cũng có mấy người đàn bà trong nhóm chúng tôi đã làm chúng tôi kinh ngạc.
Các bà ấy ra mộ hồi sáng sớm,
không thấy xác Người đâu cả,
các bà ấy còn nói là đã thấy thiên thần hiện ra bảo rằng Người vẫn sống.
Vài người trong nhóm chúng tôi đã ra mộ,
và thấy sự việc y như các bà ấy nói;
còn chính Người thì họ không thấy”.
Bấy giờ Ðức Giê-su nói với hai ông rằng:
“Các anh chẳng hiểu gì cả!
Lòng trí các anh thật chậm tin vào lời các ngôn sứ!
Nào Ðấng Ki-tô lại chẳng phải chịu khổ hình như thế,
rồi mới tỏ lộ vinh quang của Người hay sao?”
Rồi bắt đầu từ ông Mô-sê và tất cả các ngôn sư,
Người giải thích cho hai ông những gì liên quan đến Người trong tất cả Sách Thánh.
Khi gần tới làng họ muốn đến,
Ðức Giê-su làm như còn phải đi xa hơn nữa.
Họ nài ép Người rằng:
”Mời ông ở lại với chúng tôi, vì trời đã xế chiều, và ngày sắp tàn”.
Bấy giờ Người mới vào và ở lại với họ.
Khi đồng bàn với họ, Người cầm lấy bánh,
dâng lời chúc tụng, và bẻ ra trao cho họ.
Mắt họ liền mở ra và họ nhận ra Người, nhưng Người lại biến mất.
Họ mới bảo nhau:
”Dọc đường, khi Người nói chuyện và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta,
lòng chúng ta đã chẳng bừng cháy lên sao?”
Ngay lập tức, họ đứng dậy, quay trở lại Giê-ru-sa-lem,
gặp Nhóm Mười Một và các bạn hữu đang tụ họp tại đó.
Những người này bảo hai ông:
”Chúa chỗi dậy thật rồi, và đã hiện ra với ông Si-mon”.
Còn hai ông thì thuật lại những việc đã xảy ra dọc đường, và cách họ nhận ra Chúa khi Người bẻ bánh
Thật, tôi bảo thật các ông:
ai nghe lời tôi và tin vào Ðấng đã sai tôi,
thì có sự sống đời đời và khỏi bị xét xử,
nhưng đã vượt qua sự chết đến sự sống.
Thật, tôi bảo thật các ông:
giờ đang đến và lúc này đây
khi kẻ chết nghe tiếng Con Thiên Chúa;
ai nghe thì sẽ được sống.
Vì Chúa Cha có sự sống nơi chính mình thế nào,
thì Người cũng ban cho Con của Người có được sự sống nơi chính mình như vậy. Và Người ban cho Con của người được quyền xét xử,
vì người Con là Con Người.
Các ông chớ ngạc nhiên về điều này, vì giờ đang đến,
trong giờ đó mọi kẻ ở trong mồ sẽ nghe tiếng người Con và sẽ ra khỏi đó:
ai đã làm điều lành, thì sẽ sống lại để được sống;
ai đã làm điều dữ, thì sẽ sống lại để bị kết án.
Tất cả những người Chúa Cha ban cho tôi đều sẽ đến với tôi, và ai đến với tôi, tôi sẽ không loại ra ngoài,
vì tôi tự trời mà xuống, không phải để làm theo ý tôi,
nhưng để làm theo ý Ðấng đã sai tôi.
Mà ý của Ðấng đã sai tôi là tất cả những kẻ Người đã ban cho tôi, tôi sẽ không để mất một ai,
nhưng sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết.
Thật vậy, ý của Cha tôi
là tất cả những ai thấy người Con và tin vào người Con,
thì được sống muôn đời,
và tôi sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết.”
Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống.
Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời.
Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây,
để cho thế gian được sống.”
Người Do-thái liền tranh luận sôi nổi với nhau.
Họ nói: “Làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt ông ta được?”
Ðức Giê-su nói với họ:
“Thật, tôi bảo thật các ông:
nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con Người,
các ông không có sự sống nơi mình.
Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời,
và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết,
vì thịt tôi thật là của ăn, và máu tôi thật là của uống.
Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy.
Như Chúa Cha là Ðấng hằng sống đã sai tôi,
và tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào,
thì kẻ ăn tôi, cũng sẽ nhờ tôi mà được sống như vậy.
Ðây là bánh từ trời xuống,
không phải như bánh tổ tiên các ông đã ăn,
và họ đã chết.
Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời.”
Khi đến nơi, Ðức Giê-su thấy La-da-rô đã chôn trong mồ được bốn ngày rồi.
Bê-ta-ni-a cách Giê-ru-sa-lem không đầy ba cây số.
Nhiều người Do-thái đến chia buồn với hai cô Mác-ta và Ma-ri-a, vì em các cô mới qua đời.
Vừa được tin Ðức Giê-su đến, cô Mác-ta liền ra đón Người. Còn cô Ma-ri-a thì ngồi ở nhà.
Cô Mác-ta nói với Ðức Giê-su:
”Thưa Thầy, nếu có Thầy ở đây, em con đã không chết.
Nhưng bây giờ con biết: Bất cứ điều gì Thầy xin cùng Thiên Chúa, Người cũng sẽ ban cho Thầy.”
Ðức Giê-su nói: “Em chị sẽ sống lại!”
Cô Mác-ta thưa: “Con biết em con sẽ sống lại,
khi kẻ chết sống lại trong ngày sau hết.”
Ðức Giê-su liền phán:
”Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống.
Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống.
Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết. Chị có tin thế không?”
Cô Mác-ta đáp: “Thưa Thầy, có.
Con vẫn tin Thầy là Ðức Ki-tô, Con Thiên Chúa,
Ðấng phải đến thế gian.”
Khi đến gần Ðức Giê-su, cô Ma-ri-a vừa thấy Người, liền phủ phục dưới chân và nói:
“Thưa Thầy, nếu có Thầy ở đây, em con đã không chết.”
Thấy cô khóc, và những người Do-thái đi với cô cũng khóc, Ðức Giê-su thổn thức trong lòng và xao xuyến.
Người hỏi: “Các người để xác anh ấy ở đâu?”
Họ trả lời: “Thưa Thầy, mời Thầy đến mà xem.”
Ðức Giê-su liền khóc.
Người Do-thái mới nói: “Kìa xem! Ông ta thương La-da-rô biết mấy!”
Có vài người trong nhóm họ nói:
“Ông ta đã mở mắt cho người mù, lại không thể làm cho anh ấy khỏi chết ư?”
Ðức Giê-su lại thổn thức trong lòng.
Người đi tới mộ. Ngôi mộ đó là một cái hang có phiến đá đậy lại.
Ðức Giê-su nói: “Dỡ phiến đá này đi.”
Cô Mác-ta là chị người chết liền nói:
“Thưa Thầy, nặng mùi rồi, vì em con ở trong mồ đã được bốn ngày.”
Ðức Giê-su bảo:
“Nào Thầy đã chẳng nói với chị rằng nếu chị tin,
chị sẽ được thấy vinh quang của Thiên Chúa sao?”
Rồi người ta đem phiến đá đi.
Ðức Giê-su ngước mắt lên và nói:
”Lạy Cha, con cảm tạ Cha, vì Cha đã nhậm lời con.
Phần con, con biết Cha hằng nhậm lời con,
nhưng vì dân chúng đứng quanh đây,
nên con đã nói để họ tin là Cha đã sai con.”
Nói xong, Người kêu lớn tiếng:
“La-da-rô, hãy ra khỏi mồ!”
Người chết liền ra, chân tay còn quấn vải, và mặt còn phủ khăn.
Ðức Giê-su bảo: “Cởi khăn và vải cho anh ấy, rồi để anh ấy đi.”
Trong số những người Do-thái đến thăm cô Ma-ri-a
và được chứng kiến việc Ðức Giê-su làm, có nhiều kẻ đã tin vào Người.
Ðức Giê-su trả lời:
”Ðã đến giờ Con Người được tôn vinh!
Thật, Thầy bảo thật anh em,
nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi,
thì nó vẫn trơ trọi một mình;
còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác.
Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất;
còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này,
thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời.
Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy;
và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó.
Ai phục vụ Thầy, Cha của Thầy sẽ quý trọng người ấy.”
“Bây giờ, tâm hồn Thầy xao xuyến! Thầy biết nói gì đây?
Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này,
nhưng chính vì giờ này mà con đã đến.
Lạy Cha, xin tôn vinh Danh Cha.”
Bấy giờ có tiếng từ trời vọng xuống:
“Ta đã tôn vinh Danh Ta, Ta sẽ còn tôn vinh nữa!”
“Lòng anh em đừng xao xuyến!
Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy.
Trong nhà Cha của Thầy, có nhiều chỗ ở;
nếu không có chỗ thì sao Thầy lại nói đi dọn chỗ cho anh em?
Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy sẽ trở lại
và đem anh em về với Thầy,
để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó.
Và Thầy đi đâu, thì anh em biết đường rồi.”
Ông Tô-ma nói với Ðức Giê-su:
”Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu,
làm sao chúng con biết được đường?”
Ðức Giê-su đáp: “Chính Thầy là đường, là sự thật
và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha
mà không qua Thầy.
“Lạy Cha, con muốn rằng con ở đâu,
thì những người Cha đã ban cho con cũng ở đó với con,
để họ chiêm ngưỡng vinh quang của con,
vinh quang mà Cha đã ban cho con,
vì Cha đã yêu thương con
trước khi thế gian được tạo thành.
Lạy Cha là Ðấng công chính,
thế gian đã không biết Cha, nhưng con,
con đã biết Cha,
và những người này đã biết là chính Cha đã sai con.
Con đã cho họ biết danh Cha,
và sẽ còn cho họ biết nữa,
để tình Cha đã yêu thương con, ở trong họ,
và con cũng ở trong họ nữa.”
Chính Đức Giêsu vác lấy thập giá đi ra,
đến nơi gọi là Cái Sọ, tiếng Híp-ri là Gôn-gô-tha;
tại đó, họ đóng đinh Người vào thập giá,
đồng thời cũng đóng đinh hai người khác nữa,
mỗi người một bên, còn Ðức Giê-su thì ở giữa.
Ðứng gần thập giá Ðức Giê-su, có thân mẫu Người,
chị của bà thân mẫu, bà Ma-ri-a vợ ông Cơ-lô-pát,
cùng với bà Ma-ri-a Mác-đa-la.
Khi thấy thân mẫu và môn đệ mình thương mến đứng bên cạnh, Ðức Giê-su nói với thân mẫu rằng:
”Thưa Bà, đây là con của Bà.”
Rồi Người nói với môn đệ:
“Ðây là mẹ của anh.”
Kể từ giờ đó, người môn đệ rước bà về nhà mình.
Sau đó, Ðức Giê-su biết là mọi sự đã hoàn tất.
Và để ứng nghiệm lời Kinh Thánh, Người nói:”Tôi khát!”
Ở đó, có một bình đầy giấm.
Người ta lấy miếng bọt biển có thấm đầy giấm,
buộc vào một nhành hương thảo, rồi đưa lên miệng Người.
Nhắp xong, Ðức Giê-su nói: “Thế là đã hoàn tất!”
Rồi Người gục đầu xuống và trao Thần Khí.