Cám dỗ là hình thức hoạt động thông thường nhất của ác thần, tấn công đủ mọi người.
Đau đớn thể xác gây nên bởi Satan. Hình thức hành hạ bên ngoài này không ảnh hưởng đến linh hồn. Không cần đến nghi thức trừ quỷ, chỉ cần cầu nguyện. Thí dụ, đời sống của Thánh Piô ở Pietrelcina, Thánh Gioan Vianney.
Quỷ nhập (demonic possession). Satan chiếm trọn thân xác (chừa linh hồn); nó nói và hành động mà nạn nhân không có ý thức hoặc không đồng ý. Theo nghi thức trừ quỷ, một số dấu hiệu quỷ ám gồm có nói hoặc hiểu ngôn ngữ mà nạn nhân không biết, có sức mạnh khác thường, và tiết lộ những điều bí ẩn. Tuy nhiên, không có khuôn khổ nhất định của quỷ ám. Mỗi trường hợp đều khác nhau.
Quỷ khống chế (diabolical oppression). Các triệu chứng của tai hoạ này thay đổi từ nặng đến trung bình. Có thể ảnh hưởng đến sức khoẻ, công việc, các mối tương giao. Không có sự ám ảnh, mất ý thức, hoặc hành động hay lời lẽ vô tình. Ông Gióp là thí dụ điển hình của trường hợp này.
Quỷ ám (diabolic obsession): Các triệu chứng gồm có bị tấn công bất thình lình, có lúc liên tục, có những ám ảnh, đôi khi vô lý rõ ràng, mà trong đó nạn nhân không thể tự mình giải thoát. Thường xuyên sống trong tình trạng mệt lử, tuyệt vọng, và muốn tự tử. Hầu như luôn luôn có những giấc mơ có ảnh hưởng mạnh. Cũng như các hình thức của hiện tượng ma quỷ khác, nó có thể được coi là chứng cớ của bệnh tâm thần. Hỏi ý kiến tâm lý gia là một yếu tố quan trọng trong việc chẩn đoán và chữa trị. Tuy nhiên, sự tự nhiên và ma quỷ có thể dùng hiện diện bên cạnh nhau, cũng như đứng riêng một mình.
Quỷ quấy phá. Những sự quấy phá ảnh hưởng đến nhà, đồ vật, hay thú vật.
Sự nô lệ, phụ thuộc vào quỷ. Người ta tự nguyện phục tùng Satan qua những hình thức phổ thông tỉ như cam kết bằng máu với quỷ, và thờ cúng Satan.
(Các định nghĩa trên là từ Cha Gabriel Armorth, Vị Trừ Quỷ của Rôma)
Trừ Quỷ (exorcism): Tác vụ này luôn luôn dưới thẩm quyền và sự cho phép của đức giám mục của giáo phận.
Khi cần, đức giám mục phải thận trọng tiến hành với thẩm quyền tư tế của mình hoặc chọn một hay nhiều linh mục và ban quyền cho họ.
Thông thường và ưu tiên là một nhóm cầu nguyện gồm giáo sĩ và giáo dân quy tụ lại, và qua các ơn khôn ngoan, hiểu biết, tri thức và phân định, họ hỗ trợ người trừ quỷ trong tác vụ này.
Quỷ ám là một sự đau khổ khác biệt và được nhận thấy một cách độc đáo vì người bị quỷ ám đã trực tiếp và tự do mời Satan, kẻ thù của bản tính nhân loại, vào con người của mình, hoặc họ bị nguyền rủa (curse) và lời nguyền rủa này giam hãm họ trong một ràng buộc trầm trọng mà nó trùm lấp và kiểm soát mọi mức độ hiểu biết và sự tự do tinh thần của người đó.
Để giải thoát người này, Nghi Thức Trừ Quỷ thường được sử dụng và/hoặc dùng Lời Trừ Quỷ của Đức Giáo Hoàng Lêo XIII. Trước khi các lời nguyện này được đọc, cần có một thời gian chữa lành nội tâm với mục đích củng cố sức mạnh tinh thần và tâm linh của người này khỏi những thương tích mà ma quỷ đã quấy phá.
Giải Thoát (deliverance): Tác vụ này là để giải thoát người ta khỏi các tà thần mà chúng đã giam hãm họ trong sự ràng buộc qua các cảm nghiệm tổn thương cá nhân. Người này không có sự cộng tác hiển nhiên và có ý thức với Satan và đoàn lũ của chúng (nếu có phải dùng nghi thức trừ quỷ).
Tác vụ này có hiệu quả mạnh nhất khi một linh mục và nhóm cầu nguyện, với các ơn khôn ngoan, hiểu biết, tri thức và phân định, cùng làm việc với nhau nhằm giải thoát người ta khỏi các tà thần.
Mọi người đều có những thương tích có thể thấy được nơi thân xác, tâm lý và/hoặc tinh thần. Các thương tích này có thể ảnh hưởng một phần con người, hoặc cùng với nhau, các thương tích này trở nên bãi đất hoang để tà thần xâm nhập.
Qua sự tổn thương này những mối quan hệ bệnh hoạn và đổ vỡ xuất phát, thường khởi đầu rất sớm bằng các khái niệm và sau đó tiếp tục trong suốt đời sống con người. Họ bắt đầu nhận ra các mức độ đau khổ và/hoặc những cản trở sự tự do hoặc cản trở tìm kiếm sự khuyên bảo.
Lúc đầu người này tìm sự giúp đỡ qua hệ thống chữa trị của giới chuyên nghiệp. Qua sự chữa trị của chuyên gia kinh nghiệm, các thương tích được lành lặn và họ cảm thấy tự do phần nào khỏi các tà thần. Khuyết điểm trong lĩnh vực chuyên môn là người ta thường cho rằng sự ràng buộc này không xuất phát từ một tà thần, tất cả được quy cho vấn đề tâm lý.
Thật không may, nhiều nhà lãnh đạo trong Giáo Hội cũng không biết rằng sự đau khổ của cá nhân này là từ một tà thần, và các giáo sĩ thường không biết cách phân biệt giữa sự đau đớn tâm lý và đau đớn tinh thần, và vì vậy họ không có kiến thức, khả năng hoặc sự tin tưởng để giải thoát người này. Sự sai lầm trong vấn đề mục vụ là lại giới thiệu người này trở lại thế giới y học chữa bệnh, sự đau khổ sâu xa nhất của họ vẫn không được chạm đến.
Một cách tiếp cận quan trọng là bắt đầu cung cấp Bí Tích Hoà Giải, vì ơn sủng mạnh mẽ của bí tích này thường là yếu tố then chốt để được tự do: chữa lành tâm lý và đau khổ tinh thần và giải thoát nhiều tà thần. Sau bí tích này, Bí Tích Xức Dầu là một nguồn bí tích đầy ơn sủng để chữa lành “bệnh tật” trong mọi mức độ của bản tính con người.
Vai trò của giáo dân là gì? Ngày nay, giáo dân được huấn luyện chuyên môn trong ngành cố vấn và chữa trị, họ có đời sống cầu nguyện chiêm niệm, có sự quyết tâm tôn trọng và trung thành với huấn quyền, nhiều người được ban ơn đoàn sủng của Chúa Thánh Thần.
Qua kinh nghiệm của phong trào Canh Tân Đoàn Sủng (charismatic renewal), nhiều giáo dân thực sự để ý đến quyền năng của Chúa Thánh Thần trong đời sống cá nhân và đưa quyền lực này vào công việc, họ nhìn nhận rằng quyền năng của Chúa Thánh Thần hoạt động trong tác vụ chữa bệnh và vì vậy họ cảm nghiệm được sự chữa lành nơi chính bản thân và khách hàng của họ.
Các chuyên gia trị liệu bắt đầu phân biệt giữa sự đau khổ tâm lý và sự hiện diện của tà thần. Với sự khuyến khích từ các linh mục là những người khích lệ và phân định sự phát triển các ơn linh thiêng, các ngài khuyến khích giáo dân tham dự tác vụ giải thoát. Trên ba mươi lăm năm qua, nhiều chuyên gia và người thường đã cảm nghiệm được ơn đoàn sủng có uy thế mà đã đem lại sự tự do qua tác vụ chữa lành mà sự giải thoát chỉ là một thành phần.