Nhiều người nghĩ các ngôn sứ Cựu Ước là những người không làm gì cả ngoài việc tiên đoán tương lai. Họ mường tượng các ngôn sứ giống như các người bói toán chăm chú nhìn vào trái cầu pha lê để tiên đoán các chi tiết cuộc đời của Đức Kitô hầu có lợi cho các thế hệ tương lai.
Nhưng chữ “prophet” có nghĩa “ai đó nói thay cho người khác”. Các ngôn sứ Cựu Ước là những người lên tiếng thay cho Thiên Chúa để nói với các người cùng thời. Chính yếu, họ lưu tâm đến các biến cố đang xảy ra trong chính hoàn cảnh của họ.
Các vua và tư tế thường không sống đúng vai trò của người lãnh đạo tinh thần. Lúc đó, Thiên Chúa linh ứng các ngôn sứ để lên tiếng nhắc nhở dân chúng về giao ước và kêu gọi họ hãy sám hối. Các ngôn sứ đe dọa những người lãnh đạo xấu, cảnh cáo kẻ tội lỗi, an ủi người đau khổ, khuyên bảo người cầm quyền, và giảng dậy luân lý.
Tuy nhiên, các ngôn sứ không hoàn toàn bỏ qua tương lai. Họ có một cái nhìn về điều gì phải xảy ra, và một số ngôn sứ báo trước rằng Thiên Chúa sẽ gửi đến một Mêsia (có nghĩa “người được xức dầu”), người này sẽ cứu độ dân Chúa. Thông thường, dường như họ đặt hy vọng vào người cứu độ cho tương lai gần ngay trước mặt.
Nhưng trong chương trình của Thiên Chúa, các thông điệp của họ về tương lai trước mặt có thể báo trước tương lai xa. Lời ngôn sứ trong Isaia 40:3-5, “Trong sa mạc, hãy chuẩn bị con đường của Đức Chúa,” tiên báo rằng Thiên Chúa sẽ đưa dân Ít-ra-en trở về sau khi lưu đầy ở Babylon. Trong Tân Ước, Luca nói rằng lời ngôn sứ này là hình ảnh báo trước về sự giáng lâm của Đức Kitô, và Gioan Tẩy Giả là người chuẩn bị con đường của Đức Chúa (Lc 3:4).
Một số lời ngôn sứ được ứng nghiệm theo các phương cách mà vị ngôn sứ không bao giờ hình dung được. Thí dụ, lời tiên báo của Natan rằng nhà Đavít sẽ tồn tại muôn đời (2 Sm 7:16) được nhiều người Ít-ra-en nghĩ rằng Thiên Chúa sẽ phục hồi quyền lực trần thế cho dân Ít-ra-en. Nhưng Thiên Chúa nghĩ đến những điều vĩ đại hơn nhiều. Luca 1:32-33 nhìn đến vương quốc sẽ tồn tại muôn đời là vương quốc tinh thần của Chúa Giêsu Kitô. Các văn sĩ Tân Ước, khi nhìn lại, họ có thể thấy những điều trong lời linh ứng của Thiên Chúa thì không hiển nhiên đối với những người thời Cựu Ước.
Khi đọc các lời ngôn sứ, một nguyên tắc hướng dẫn cần nhớ: các ngôn sứ là những người rao giảng, không phải khoa học gia, luật gia, hay thần học gia. Mục tiêu của họ là thúc đẩy dân chúng hành động. Họ dùng mọi phương tiện mà người rao giảng sử dụng. Họ chú trọng đến sự tưởng tượng. Họ dùng lối nói tượng hình: so sánh, ẩn dụ, dụ ngôn, cường điệu, và vận dụng từ ngữ. Có lúc họ giảng giải sứ điệp của Thiên Chúa.
Hầu hết các sách ngôn sứ là những tài liệu sưu tập bao gồm các bài giảng, bài thơ, đối thoại, và những ghi chép lịch sử. Thời xưa người ta không có kỹ thuật để ghi nhận các tài liệu đó một cách chính xác. Do đó chúng ta thấy mẩu này ráp với mảnh kia ở những thời điểm và nơi chốn khác nhau. Một bài khiển trách dân chúng lỗi lầm lại được xếp gần với những lời an ủi. Những thay đổi đột ngột như thế trong dòng tư tưởng có thể làm độc giả chưng hửng. Những sách chú giải Kinh Thánh có thể hữu ích vì nó giải thích hoàn cảnh lịch sử đằng sau mỗi lời ngôn sứ cũng như giải thích những chữ và câu khó hiểu.
Sách Isaia được sáng tác bởi một số tác giả. Ba mươi chín chương đầu có nguồn gốc từ ngôn sứ Isaia, sứ vụ của ông đặt trọng tâm ở Giêrusalem trong những năm 742-701 B.C. Isaia 1:1 nói rằng ông lên tiếng “trong những ngày của Ugia, Giôtam, Aha và Hêgiêkien, các vua của Giuđa.” “Những ngày” này là thời kỳ bất an, được đánh dấu bởi sự đe dọa tấn công thường xuyên của người Átxiria. Khi người Átxiria chống với người Samaria năm 734 B.C., Aha liên minh với người Átxiria. Nhưng ông vua kế tiếp của Giuđa, là Hêgiêkien, nổi lên chống với người Átxiria. Năm 701 B.C. đạo quân Átxiria vây hãm thành Giêrulaem, nhưng họ phải quay đầu trở về bởi “sứ thần của Đức Chúa” (Is 37:36), có lẽ là bệnh dịch hạch.
Nhiều bài nói và bài viết của Isaia có thể truy nguồn từ các biến cố lịch sử này. Tuy nhiên, sự rao giảng của ông được dựa trên thị kiến của ông về Thiên Chúa: “Thánh! Thánh! Chí Thánh! Đức Chúa các đạo binh là Đấng Thánh! Cả mặt đất rạng ngời vinh quang Chúa!” (Is 6:3). Trong mọi hoàn cảnh, Isaia tin rằng chúng ta phải vâng lời Thiên Chúa chí thánh. “Nếu các ngươi không vững lòng tin, các ngươi sẽ không thể đứng vững” (Is 7:9). Isaia không thấy hy vọng trong sự liên minh với Átxiria, Ai Cập, hay bất cứ quốc gia nào khác. Thật vậy, dường như ông cổ vũ một lối sống đơn giản, tránh xa chính trị và chiến tranh đương thời. Nhìn lại dĩ vãng, ông đã đúng. Giuđa càng tìm cách chơi trò chính trị thì sau cùng càng bị lôi cuốn đến việc phải đương đầu với người Babylon vào năm 587 B.C., rất lâu sau khi Isaia từ trần.
Các chương 24 -- 27 dường như là một sưu tầm các sấm ngôn (lời tiên đoán) bởi một vài tác giả từ thời hậu lưu đầy. Các chương 36 -- 39 là một phụ lục lịch sử phần lớn được lấy từ cuốn 2 sách Các Vua 18 -- 20. Các đoạn khác của Isaia 1 -- 39 có thể được sáng tác bởi các văn sĩ khác nhau.
Hãy đọc Isaia 6:1-8 về lời kêu gọi làm ngôn sứ. Hãy nhận xét việc nhấn mạnh đến sự thánh thiện và quyền năng kinh khiếp của Thiên Chúa. Hãy đọc Isaia 7:10-16. Đoạn này kể lại việc Isaia đảm bảo rằng Giuđa, dưới triều vua Aha, không phải sợ sự liên minh của Ít-ra-en với Đamát. Nhưng đó là lời ngôn sứ có ý nghĩa sâu xa hơn, được hiểu trong Phúc Âm Mátthêu là sự sinh hạ tinh tuyền của Đức Giêsu Kitô (Mt 1:22-23). Hãy đọc Isaia 11:1-11, một hình ảnh bình an và công bình sẽ được đem đến bởi sự giáng lâm của một Mêsia, một trẻ thơ xuất hiện từ Giêsê (cha của Vua Đavít).
Các chương 40 -- 55 của sách Isaia được viết bởi một thi sĩ vĩ đại vào gần cuối thời Babylon giam cầm (587-539 B.C.) Tác giả nhìn thấy Xirút, vua Ba Tư, là một người được xức dầu bởi Thiên Chúa để giải thoát người Do Thái ở Babylon. Ông tin rằng một Thiên Chúa đích thực đang điều khiển lịch sử nhân loại và sẽ đưa người Do Thái trở về quê quán: “Trong hoang địa, hãy dọn đường của Đức Chúa!” (Is 40:3). Ông miêu tả Ít-ra-en như một tôi tớ mà sự đau khổ của nó sẽ đem lại ơn cứu chuộc cho các dân tộc. Trong những bài ca “Tôi Tớ Đau Khổ” này, thi sĩ báo trước một thực tại sâu xa hơn, đó là ơn cứu độ được ban cho thế giới qua sự đau khổ và sự chết của Đức Giêsu Kitô.
Hãy đọc Isaia 53, bài cuối trong bốn bài ca Tôi Tớ Đau Khổ. Bạn có thể hiểu các câu này khi nối kết chúng với sự thống khổ và cái chết của Đức Kitô. Lời tiên báo này chỉ được ứng nghiệm trong Đức Giêsu.
Các chương 56 -- 66 gồm các bài thơ và bài viết bởi các ngôn sứ vô danh, họ viết trong tinh thần của Isaia vào thế kỷ thứ sáu B.C. Những chương này nói lên một hy vọng là mọi dân tộc có thể tìm thấy ơn cứu độ và bình an trong Thiên Chúa của Ít-ra-en.
Hãy đọc Isaia 65:17-25 về một thị kiến “trời mới và đất mới”, một hình ảnh bình an và trạng thái an toàn có thể được thực hiện trọn vẹn trong đời sống mới ở thiên đường.
Các độc giả ngày nay có thể học hỏi được nhiều từ sách Isaia. Chúng ta được dậy hãy cúi đầu trước sự thánh thiện của Thiên Chúa. Chúng ta được lôi cuốn đến Đức Giêsu Kitô là Mêsia của chúng ta, là Tôi Tớ Đau Khổ sẽ cứu chúng ta khỏi tội lỗi. Chúng ta được khích lệ hãy nhìn đến Thiên Chúa như nguồn bình an và hy vọng cho thế giới.
Giêrêmia sinh trong một gia đình tư tế ở Anathô, một thành phố nhỏ ở phía bắc Giêrusalem, khoảng 650 B.C. Ông được kêu gọi làm ngôn sứ trong năm thứ mười ba thời Giôsia, 626 B.C. (Gr 1:2). Ông hỗ trợ những cuộc cải cách tôn giáo dưới thời Giôsia và được hưởng những năm phồn thịnh của triều vua vĩ đại này. Nhưng người dân Giuđa bị vướng mắc trong cuộc xung đột giữa Ai Cập và Babylon, và Giôsia bị giết trong cuộc chiến năm 609 B.C. Giêrêmia nhìn thấy sự khờ dại khi đứng về phía các phe và sự tuyệt vọng khi giao chiến với Babylon. Ông lên tiếng chống đối những người kế vị độc ác của Giôsia, nhất là Giêhôakim (609-598 B.C.)
Điều này khiến Giêrêmia bị bách hại từ mọi phía. Bà con của ông âm mưu chống đối ông (Gr 11:18 -- 12:6). Ông bị đánh đòn và cầm tù (Gr 20:1-2). Ông sống qua giai đoạn Giêrusalem bị Babylon vây hãm lần đầu tiên năm 597 B.C. Trong thời kỳ vây hãm lần thứ hai, ông bị bắt như một kẻ phản quốc và bị bỏ vào một cái giếng khô để chết dần. Ông được cứu và, sau khi Giêrusalem bị phá hủy năm 587 B.C., ông được người Babylon cho ở lại thành này. Tuy nhiên, về sau ông bị đưa sang Ai Cập bởi những người Do Thái đã ám sát tổng đốc mà người Babylon để lại. Truyền thuyết nói rằng Giêrêmia bị giết ở Ai Cập bởi chính dân của mình.
Giêrêmia bị đau khổ nhiều, và ông bày tỏ sự đau đớn ấy trong những đoạn được gọi là lời tự thú của Giêrêmia (11:18 -- 12:6; 15:10-21; 17:14-18; 18:18-23; 20:7-18). Ông cay đắng than trách Thiên Chúa vì số phận của mình nhưng ông cảm thấy bị thôi thúc phải tiếp tục sứ mệnh của ông bất kể sự chống đối ông gặp. Trong toàn thể sách này, có nhiều chi tiết tiểu sử về Giêrêmia, và chúng ta biết nhiều về ông hơn bất cứ ngôn sứ nào khác.
Sách Giêrêmia là một trong những cuốn dài nhất trong Kinh Thánh. Phần lớn cuốn sách được ngôn sứ này đọc cho người thư ký, Barúch, chép lại (36:32). Nhưng phần này và các phần khác của sách thì bị tách rời cách nào đó và được ráp lại bởi các người biên soạn sau thời Lưu Đầy khá lâu. Các sấm ngôn và lời giảng từ nhiều giai đoạn khác nhau cũng bị lẫn lộn và được xếp không theo thứ tự. Hậu quả là việc nghiên cứu có thể khó khăn, và độc giả được khuyên hãy tham khảo sự chú giải hay chú thích Kinh Thánh để có thể hiểu các bài giảng trong khung cảnh lịch sử thích hợp.
Giêrêmia công bố sự trung tín của Thiên Chúa với dân Giuđa. Ông tấn công sự bất trung của họ và cảnh cáo họ về hình phạt khủng khiếp vì tội của họ. Nhưng khi hình phạt xảy ra và Giêrusalem bị phá hủy, Giêrêmia nói lên hy vọng về một Giao Ước Mới từ Thiên Chúa, đấng đã nói với dân chúng, “Ta yêu thương ngươi với một tình yêu bất diệt” (31:3).
Hãy đọc Giêrêmia 20:1-18 gồm cả lời tự thú sau cùng của Giêrêmia. Vị ngôn sứ này gào thét trong đau khổ, và ông dao động giữa hy vọng và tuyệt vọng, ông muốn giữ im lặng, nhưng lại bị thôi thúc lên tiếng. Hãy đọc Giêrêmia 32:26-35 về một cảnh cáo hủy diệt Giêrusalem trước mắt. Hãy đọc Giêrêmia 31:31-34 về lời hứa tốt đẹp của Giao Ước Mới.
Giêrêmia dậy chúng ta các nhân đức trung tín và kiên trì. Ông cho thấy một dân tộc vĩ đại có thể cảm nghiệm những giây phút tuyệt vọng và chia sẻ tâm tình của họ cách thành thật với Thiên Chúa. Cuộc đời Giêrêmia, với sự đau khổ và bách hại, báo trước cuộc đời của Đức Kitô và dậy chúng ta hãy chịu đựng đau khổ cách can đảm. Giêrêmia nhắc nhở chúng ta rằng ngay cả những lúc tệ hại nhất vẫn có niềm hy vọng, vì Thiên Chúa luôn luôn trung tín.
Sách này là một sưu tầm năm bài thơ than thở về sự phá hủy thành Giêrusalem. Sách được viết trong thời Lưu Đầy ở Babylon bởi một hay nhiều tác giả vô danh, là người chứng kiến việc phá hủy Giêrusalem. Năm bài thơ này là những thổ lộ thương tiếc cay đắng nhưng được thận trọng sáng tác. Bốn bài đầu theo thể thơ chữ đầu: Mỗi câu bắt đầu bằng một chữ nối tiếp nhau trong mẫu tự tiếng Hebrew.
Sách Ai Ca phản ánh sự hiểu biết thần học thời bấy giờ, có thể nói, Thiên Chúa gây ra sự phá hủy Giêrusalem như một hình phạt vì tội lỗi. Ngày nay, chúng ta sẽ nói rằng tội lỗi con người đưa đến điều không thể tránh là việc phá hủy thành Giêrusalem và Thiên Chúa cho phép điều này xảy ra. Nhưng sách Ai Ca nhận biết rằng sự thất bại của người Do Thái không phải là sự thất bại của Thiên Chúa. Sách này đem lại niềm hy vọng cho những người sống sót bởi vì qua sự sám hối và hy vọng vào Thiên Chúa, Ít-ra-en có thể tồn tại.
Hãy đọc Ai Ca 2:8-13 để cảm nhận sự phá hủy khủng khiếp của Giêrusalem. Hãy đọc Ai Ca 3:17-33 để thấy tia hy vọng giữa hoạn nạn.
Ngày nay chúng ta đọc Ai Ca để thấy hình ảnh sống động của sự đau khổ gây ra bởi chiến tranh. Chúng ta học được từ các thi sĩ này sự quan trọng của việc bày tỏ sự đau buồn. Chúng ta tìm thấy lý do để hy vọng rằng Thiên Chúa có thể giải thoát chúng ta khỏi mọi hoạn nạn.
Trả Lời | Câu Hỏi |
---|---|
Ý nghĩa căn bản của ngôn sứ trong Cựu Ước là người (a) tiên đoán tương lai; (b) phê bình xã hội; (c) cầu nguyện; (d) nói thay cho Thiên Chúa | |
Một số ngôn sứ Cựu Ước tiên báo về sự ngự đến của một “Mêsia”, có nghĩa (a) người được xức dầu; (b) ngôn sứ; (c) người lính; (d) thời đại mới | |
Trong hoạch định của Thiên Chúa, các thông điệp của ngôn sứ về tương lai trước mắt có thể báo trước một tương lai xa | |
Các ngôn sứ, chính yếu là (a) luật gia; (b) người rao giảng; (c) khoa học gia; (d) thần học gia | |
Ba mươi chín chương đầu của sách Isaia xuất xứ từ ngôn sứ Isaia, mà tác vụ của ông có trọng tâm ở Giêrusalem trong những năm 742-701 B.C. | |
Trong thời của Isaia, đạo quân Babylon xâm chiếm Samaria và bao vây Giêrusalem | |
Trong sách Isaia, những chủ đề sau đây được tìm thấy: (a) sự thánh thiện của Thiên Chúa; (b) Tôi Tớ Đau Khổ; (c) trời mới và đất mới; (c) a và b; (d) a, b, và c | |
Khi Thiên Chúa yêu cầu ai đó lên tiếng như một đại diện, Isaia, cũng như Môsê, xin Thiên Chúa sai một người nào khác (Is 6:1-8) | |
Khi vua Ahaz từ chối không tin lời Thiên Chúa hứa giải thoát Giuđa khỏi tay người Assyria, Isaia đã đưa ra một dấu hiệu, đó là (a) cây kiếm; (b) con chiên; (c) ngôi sao; (d) đứa trẻ (Is 7:10-16) | |
Suy nghĩ những câu sau: 1) Hình ảnh biểu tượng cho hòa bình trong Isaia 11:1-11 bao gồm sự hòa hợp, ngay cả giữa các con thú như sói và chiên 2) Bài ca “Tôi Tớ Đau Khổ” trong Isaia 40 -- 55 tiên báo sự cứu độ ban cho thế giới qua sự đau khổ và sự chết của Đức Giêsu Kitô Trong những câu này: (a) cả hai đều đúng; (b) cả hai đều sai; (c) câu 1 thì sai; (d) câu 1 đúng, câu 2 sai |
|
Trong thị kiến “trời mới và đất mới” trong Isaia 65:17-25, những ai sống đến một trăm tuổi sẽ được vinh danh là già và khôn ngoan | |
Ngôn sứ Giêrêmia là người cùng thời với Isaia và thi hành sứ vụ trước khi Samarai sụp đổ năm 721 B.C. | |
Giêrêmia được kính trọng bởi các vua của Giuđa, nhất là vua Giêhôakim, vì ông là một ngôn sứ đích thật | |
Cuộc sống riêng tư của Giêrêmia có thể được tóm lược đúng nhất là một người (a) được vinh dự; (b) đau khổ; (c) chiến thắng; (d) dễ dãi | |
Hãy suy nghĩ những câu sau: 1. Giêrêmia ở Giêrusalem khi người Babylon chiếm thành này năm 597 B.C. và khi họ tiêu hủy thành vào năm 587 B.C. 2. Ngay cả khi Giêrêmia bị đánh đòn và bị bỏ xuống giếng khô, ông vẫn vui vì Thiên Chúa đã gọi ông là một ngôn sứ (Giêr 20:1-18) 3. Thiên Chúa cho Giêrêmia biết rằng Giêrusalem sẽ bị xâm lăng và thiêu đốt bởi Nêbuchétnigia, vua của Babylon (Giêr 32:26-35) 4. Qua Giêrêmia, Thiên Chúa hứa một giao ước như giao ước được thực hiện sau khi người Hebrew từ giã Ai Cập (Giêr 31:31-34) Trong các câu này, (a) 1 và 2 thì sai; (b) 2 và 3 thì sai; (c) 1 và 3 thì sai; (d) 2 và 4 thì sai; (e) tất cả đều sai |
|
Suy nghĩ những câu sau: 1. Sách Ai Ca nhìn thấy người Babylon đánh bại Giêrusalem như một sự bại trận của Thiên Chúa và, vì thế, họ kêu gọi Thiên Chúa hãy trả thù 2. Vì sự hủy diệt hầu như hoàn toàn của Giêrusalem, tác giả sách Ai Ca không thể bày tỏ niềm hy vọng vào tương lai (Ac 2:8-13; Ac 3:17-33) Trong những câu này, (a) cả hai đều sai; (b) 1 thì sai, 2 thì đúng; (c) 1 thì đúng, 2 thì sai; (d) cả hai đều đúng |