Giáo Hội dạy rằng Huấn Quyền phục vụ lời của Chúa.
Trong thời gian sứ vụ tại thế, Đức Giêsu ủy thác các tông đồ và môn đệ giảng dạy trong danh của Người, khi nói với họ: “Ai nghe anh em là nghe thầy, và ai từ chối anh em là từ chối thầy” (Luca 10:16).
Người còn ủy thác thêm thẩm quyền dạy bảo này cho đến tận thế, khi nói: “Hãy đi làm cho muôn dân trở thành môn đệ, hãy rửa tội cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, hãy dạy bảo họ tuân giữ tất cả những gì thầy đã truyền cho anh em; và đây, thầy ở cùng anh em luôn mãi, cho đến tận thế” (Mt 28:19-20). Ngày nay, thẩm quyền dạy bảo này, được gọi là Huấn Quyền, được hành xử bởi các giám mục, người kế vị các tông đồ.
Tuy nó được thiết lập bởi Chúa Kitô, Giáo Hội không coi Huấn Quyền trên lời của Chúa nhưng như tôi tớ của lời. Công Đồng Vatican II dạy: “Bổn phận dạy bảo này thì không trên lời của Chúa, nhưng phục vụ lời, chỉ dạy bảo những gì đã được trao lại, sùng kính lắng nghe lời, thận trọng bảo vệ và trung thành giải thích lời phù hợp với sự ủy thác của Chúa và với sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần, nó rút ra từ kho tàng đức tin bất cứ gì mà nó trình bày để tin tưởng là được Thiên Chúa mặc khải” (Dei Verbum 10).
Ý tưởng cho rằng Huấn Quyền ở trên lời của Chúa thì sai lầm. Nó đóng một vai trò phụ để giúp tín hữu nhận biết và hiểu được lời của Chúa. Vì thế Huấn Quyền giúp Giáo Hội phân biệt quy điển của Sách Thánh – những sách nào được linh ứng và không. Và nó giúp Giáo Hội được hiểu nội dung của Kinh Thánh và cả Truyền Thống nữa.
Tuy nhiên, trong tất cả những điều này, Huấn Quyền là một hướng dẫn và không phải là nguồn. Nguồn là lời của Chúa, như được bày tỏ trong Kinh Thánh và Truyền Thống. Huấn Quyền ở dưới những điều này, như được minh họa bởi sự kiện rằng chính lời của Chúa ban thẩm quyền cho Huấn Quyền, chứ không phải ngược lại.
Đó không phải là sự giảng dạy của Giáo Hội Công Giáo.
Giáo Hội chủ trương rằng “những ai không vì lỗi của mình, họ không nhận biết Tin Mừng của Chúa Kitô và Hội Thánh Người, nhưng thành tâm tìm kiếm Thiên Chúa, và, dưới tác động của ơn thánh, họ cố gắng hành động theo thánh ý Người như họ biết theo sự hướng dẫn của lương tâm – những người ấy có thể đạt được sự cứu độ muôn đời” (GLCG 847).
Tuy một người biết chân lý Đức Tin thì buộc phải yêu quý chân lý ấy – hành động ngược lại sẽ là cố ý khước từ chân lý một cách có ý thức – Thiên Chúa không phạt người ta xuống hỏa ngục chỉ vì họ không phải là Kitô Hữu hay người Công Giáo.
Chúng ta không phải sợ rằng ai đó sẽ bị án phạt chỉ vì họ không bao giờ nghe biết về Chúa Giêsu. Theo câu trên, để người ta bị trầm luân, họ phải:
Sau cùng, nguyên tắc này áp dụng cho mọi người: “Thiên Chúa không tiền định bất cứ ai xuống hỏa ngục; vì thế, điều thiết yếu là cố ý xa lánh Thiên Chúa (một tội trọng), và ngoan cố sống trong tội cho đến kỳ cùng” (GLCG 1037). Thiên Chúa “ước ao mọi người được cứu và được nhận biết chân lý” (1 Tim 2:4), nhưng ngay cả khi họ bị cản trở không biết đầy đủ về chân lý ở đời này, Người vẫn tìm cách đến với họ qua ơn sủng: “Vì Chúa Kitô đã chết cho mọi người, và vì tất cả mọi người được mời gọi đến cùng một định mệnh, đó là Thiên Chúa, chúng ta phải tin rằng Chúa Thánh Thần ban cấp cho mọi người sự khả dĩ để được dự phần trong mầu nhiệm Phục Sinh, theo một phương cách mà Thiên Chúa biết” (GLCG 1260).
Như vậy Giáo Hội nhận biết rằng loại cầu nguyện mà qua đó người ta “bước đi với Thiên Chúa… thì được thể hiện bởi nhiều người công chính trong tất cả tôn giáo” (GLCG 2569).
Sự cứu độ chỉ qua một mình Chúa Kitô, nhưng điều đó không có nghĩa chỉ có Kitô Hữu mới được cứu.
Khi T. Phêrô nói rằng sự cứu độ không được thấy nơi ai khác ngoài Chúa Giêsu, người khẳng định rằng không có Đấng Cứu Thế ngoài Chúa Giêsu; khi Đức Giêsu nói không ai đến với Cha mà không qua Người, Người đề cập đến vai trò độc đáo của Người trong chương trình của Thiên Chúa và, ám chỉ về cái chết của Người trên thập giá. Tuy nhiên, cả Chúa Giêsu và T. Phêrô không ai nói rằng người ta phải yêu quý đức tin Kitô Giáo hoặc bị luận phạt. Thật vậy, chúng ta có lý do tốt để nghĩ rằng một số người sẽ được cứu tuy họ không biết đến Kitô Giáo ở đời này.
Thí dụ, trong đời sống mọi người, có giai đoạn chúng ta không thể hiểu thông điệp Kitô Giáo bởi vì chúng ta quá trẻ. Nếu chúng ta không muốn tống mọi trẻ thơ và trẻ nhỏ xuống hỏa ngục (hay ít nhất những ai chưa rửa tội), thì chúng ta phải chuẩn bị để nói rằng họ có thể được cứu dù thiếu đức tin nơi Chúa Giêsu.
Tương tự, người Do Thái công chính trước thời Đức Kitô đã không biết rằng Đức Giêsu Nagiarét sẽ là Mêsia, và vì thế họ không tin vào Người. Chắc chắn là không có nhiều người mong đợi Đấng Mêsia sẽ là Con Thiên Chúa hoặc chịu chết cho tội lỗi của thế gian. Nhưng chúng ta có chứng cớ hiển nhiên trong Kinh Thánh rằng nhiều người được cứu bất kể họ thiếu đức tin nơi Đức Giêsu (Mt 8:11; Dt 11).
Điều này có nghĩa người ta có thể được cứu qua Đức Giêsu (đấng là “đường, sự thật, và sự sống”) mà không sáng suốt hiểu rằng ở đời này Người là trung gian duy nhất mà qua đó họ được cứu.
Nguyên tắc này cũng được áp dụng cho những ai không biết chân lý về đức tin Kitô Giáo mà không do lỗi của họ. Chúng ta có các gợi ý về điều này khi T. Phaolô nói rằng Thiên Chúa “nhắm mắt bỏ qua” những thời thiếu hiểu biết của dân Ngoại (Cv 17:30) và dân Ngoại ngoài Kitô Giáo có thể thấy rằng lương tâm của họ miễn cho họ không bị án phạt (Rôma 2:15-16).
Ngược lại, “đức tin và lý lẽ giống như hai chiếc cánh mà nhờ đó tinh thần con người vươn lên cao để chiêm niệm chân lý” (Fides et Ratio 1).
Từ quan điểm đức tin, lý lẽ là một quà tặng của Thiên Chúa. Người ban cho chúng ta trí tuệ, và Người mong chúng ta sử dụng chúng. Như thế không có sự mâu thuẫn giữa đức tin và lý lẽ. Cả hai đều có vai trò.
Một số vấn đề trong đời sống có thể được tra cứu bởi lý lẽ mà không cần đến các nguyên lý của đức tin – thí dụ, vài chân lý về toán và khoa học.
Tuy nhiên, không người nào có thể tự mình kiểm chứng mọi sự trong lĩnh vực kiến thức con người. Nó vượt quá khả năng của bất cứ ai để làm điều này, và vì thế mọi người phải dựa vào nhau về một số điều họ biết. Họ biểu lộ một hình thức đức tin nơi những gì mà người khác đã biết (sđd, 31).
Hơn nữa, ngay cả khi một người tự mình kiểm chứng điều gì đó, vẫn có một yếu tố đức tin. Đây là lý do những khám phá của khoa học thì luôn luôn tạm thời. Tuy giả thuyết về điện tử có thể giải thích nhiều điều được quan sát và có thể được chấp nhận là chắc chắn bởi các khoa học gia đã nghiên cứu cấu trúc của điện tử, luôn luôn có một khoảng cách giữa chứng cớ quan sát được và giả thuyết được đưa ra để giải thích nó. Khi các khoa học gia chấp nhận một giả thuyết nào đó như có khả năng giải thích về dữ kiện này, họ làm một bước nhảy vọt về đức tin.
Như vậy, ngay cả trong các lĩnh vực liên quan nhiều với lý lẽ, chúng ta thấy có một hình thức đức tin – chúng ta thấy đức tin và lý lẽ hợp tác với nhau trong một cách thức có kết quả.
Kitô Giáo nói rằng cùng một động lực ấy được áp dụng vào lĩnh vực tôn giáo. Lý lẽ có thể đặt ra một vài nền tảng nào đó, tỉ như sự hiện hữu của Thiên Chúa. Nó còn có thể khám phá và thẩm định các chứng cớ về hoạt động của Người trong thế giới. Khi các chứng cớ này được xét nghiệm, chúng hướng về đề xuất rằng Thiên Chúa đã tự tiết lộ cho loài người trong Đức Giêsu Kitô. Lý lẽ cung cấp dữ kiện để hỗ trợ đức tin Kitô Giáo thì giống như lý lẽ cung cấp chứng cớ cho các giả thuyết khoa học.
Không có sự mâu thuẫn giữa đức tin và lý lẽ; chúng cùng nhau hoạt động để gia tăng năng lực kiến thức của con người.
Giáo Hội không chủ trương rằng chỉ cần thi hành những hành động bề ngoài của bí tích mà sẽ đem lại các hiệu quả.
Giả sử một nhóm diễn viên đóng kịch, trong đó một người được rửa tội. Tuy có nước và lời đọc đúng (Mt 28:19), diễn viên đóng vai trò đó thì không thực sự được rửa tội. Lý do là vì diễn viên rửa tội chỉ giả vờ làm như vậy. Họ không có ý định thi hành điều mà Giáo Hội thi hành. Vì thế, chỉ thi hành nghi thức bên ngoài của một bí tích thì không đem đến hiệu quả của nó.
Nhưng khi một thừa tác viên bí tích có ý định thi hành những gì Giáo Hội làm, lời Chúa hứa ban ơn sủng được tiến hành. Sự giảng dạy rằng các bí tích hoạt động ex opere operato có nghĩa là hiệu quả của chúng nhờ vào lời hứa của Chúa, chứ không phải sự xứng đáng của thừa tác viên.
Điều này trái với quan điểm rằng các bí tích hoạt động ex opere operantis (“bởi lý do công việc của người thi hành), nó có nghĩa thừa tác viên cần phải xứng đáng (không trong tình trạng tội trọng) để có thể thi hành các bí tích. Quan điểm này được đưa ra trong những năm 400 bởi phong trào ly giáo được gọi là Đô-na-tô.
Giữ vững quan điểm chính thống, T. Augustine lý luận rằng sự bất xứng của thừa tác viên không ảnh hưởng đến hiệu lực của bí tích, và như thế, thí dụ, bí tích rửa tội có thể nhận lãnh có hiệu lực từ một người dị giáo hay lạc giáo.
Như thế, tín hữu không phải lo rằng các bí tích họ lãnh nhận có thể không hiệu lực vì sự bất xứng của thừa tác viên. Hiệu quả của bí tích dựa vào lời Chúa hứa.
Đàng khác, để lãnh nhận bí tích có kết quả, tín hữu phải mở lòng cho ơn của Chúa. Nếu họ không sám hối tội trọng, họ tạo ra một chướng ngại cản trở ơn thánh hóa được bí tích thông ban. Trong những trường hợp như thế, các bí tích vẫn có hiệu lực khi lãnh nhận (tỉ như, một người không sám hối có ý định được rửa tội, thêm sức, hay kết hôn sẽ nhận lãnh bí tích có hiệu lực nhưng không nhận được ơn thánh hóa cho đến khi họ sám hối).
Sự thật là các Đạo Sĩ nhận biết tầm quan trọng của các ngôi sao, điều đó ám chỉ họ thực hành thuật chiêm tinh, nhưng nó không có nghĩa chúng ta cũng phải như thế.
Người thời xưa không biết các ngôi sao thực sự là gì, và nhiều người coi đó như các thần thánh định đoạt số phận của loài người. Vì thế, mặt trời, mặt trăng, và các tinh tú mang tên của các thần: Sol, Luna, Mercury, Venus, Mars, Jupiter, Saturn. Các tên này thay đổi theo văn hóa của từng dân tộc, nhưng trong dị giáo (paganism) họ thờ lậy như các thần.
Thực hành này bị lên án rõ ràng trong Cựu Ước (Tl 4:19, 17:3; 2 Cv 17:16; Giêr. 19:11–13; Amốt 5:26–27), và tác giả sách Sáng Thế đã bác bỏ tính cách thần thoại này bằng việc diễn tả các thực thể trên trời chỉ là các nguồn sáng do Thiên Chúa dựng nên (St 1:14-16).
Điều này không có nghĩa Thiên Chúa không thể dùng các tinh tú như các dấu hiệu của những biến cố lớn trong hoạch định của Người. Thiên Chúa thì toàn năng và có thể thi hành điều đó nếu Người muốn. Vì thế, trong sách ông Giô-en, Thiên Chúa nói: “Ta sẽ cho các điềm lạ xuất hiện trên trời… Mặt trời sẽ trở nên tối tăm, và mặt trăng hoá thành máu” (Giô-en 3:3-4).
Trong Công Vụ, ông Phêrô giải thích câu này theo thời kỳ mở đầu Kitô Giáo (Cv 2:14-21). Cần lưu ý ở đây là trong khổ hình Thập Giá (Mt 27:45) bóng tối bao trùm mặt đất (“mặt trời sẽ trở nên tối tăm”), và – theo sự quan phòng – có một hiện tượng nguyệt thực làm cho mặt trăng có mầu đỏ (“và mặt trăng hóa thành máu”) vào ngày 3 tháng Tư, năm 33, có lẽ là ngày khổ hình Thập Giá.
Nếu Thiên Chúa muốn đánh dấu sự chết của Con mình với một dấu hiệu bất thường ở trên trời, Người cũng có thể thi hành tương tự để ghi dấu sự sinh hạ của Chúa Giêsu, và có thể Người để các Đạo Sĩ nhận biết tầm quan trọng ấy dựa trên các ý tưởng hiện có trong văn hóa của họ.
Tuy nhiên, đây là một biến cố ngoại lệ và không phải là sự cổ vũ việc thực hành thuật chiêm tinh nói chung. Các tinh tú không phải là thần thánh định đoạt cuộc đời chúng ta, và chúng không có quyền lực trên chúng ta. Thiên Chúa có thể sử dụng chúng như các dấu hiệu của một số biến cố nào đó trong hoạch định của Người cho thời đại ấy, nhưng điều đó không có nghĩa chúng ta có thể suy diễn những biến cố trong cuộc đời chúng ta từ các tinh tú. Tuy nhiên, đây là điều các nhà chiêm tinh ngày nay thực hành, và vì thế Giáo Hội tẩy chay điều đó (GLCG 2116).
Tin vào đời sau là điều phổ quát của loài người. Đây là một dấu hiệu cho thấy điều đó có thật. Vấn đề là nó có hình thể nào. Thiên Chúa tiết lộ rằng đời sau bao gồm một thân xác phục sinh. Người chứng minh điều này bằng việc nâng Đức Giêsu chỗi dậy từ sự chết (về sự liên quan giữa sự Phục Sinh của Chúa Giêsu và của chúng ta, hãy đọc 1 Cor. 15).
Trong thời gian của Đức Giêsu, người ta có thói quen chôn xác và sau đó, khi nhục thể tách rời khỏi xương, họ trở lại, chùi rửa xương khô và đặt trong một bình đựng hài cốt. Như thế, người ta va chạm trực tiếp với thân xác của người thân yêu đã qua đời. Người xưa cũng biết rằng – qua việc ăn thịt người hoặc qua phương tiện ít trực tiếp hơn – vật chất từ một thân xác có thể ở trong một thân xác khác. Các triết gia thời trung cổ khai thác vấn đề này một cách chi tiết.
Phần cốt yếu của một người để bảo đảm căn tính của người ấy qua thời gian là linh hồn, nó là “hình thể” của thân xác (GLCG 365). Tuy nhiên, trong quá trình đời sống, vật chất làm nên thân thể chúng ta thì thay đổi đáng kể.
Ủy Ban Thần Học Quốc Tế nhận xét: “Giáo Hội không bao giờ dậy rằng cần phải có cùng một vật chất để làm nên cùng một thân xác. Nhưng sự tôn kính thánh tích, qua đó Kitô Hữu tuyên xưng rằng thân xác của các thánh, họ từng là phần tử sống động của Đức Kitô và là đền thờ của Chúa Thánh Thần, phải được nâng dậy và được vinh hiển bởi Đức Kitô, điều đó cho thấy rằng sự phục sinh không thể được giải thích một cách độc lập với thân xác từng sống động” (Some Current Questions in Eschatology 1.2.5).
Như thế, thần học Kitô Giáo chủ trương rằng thân xác phục sinh thì có sự liên hệ đến người từng sống trước đây nhưng nó không bao gồm tất cả vật chất làm nên thân xác ấy khi còn sống.
Câu này hiểu sai danh hiệu “mẹ của Thiên Chúa.” Bạn không thể có một quan điểm chính xác về Đức Kitô và lại từ chối danh hiệu này.
Mẹ của một người góp phần vật chất có tích cách di truyền cho người ấy, mang con trong lòng của mình, hoặc cả hai.
Bình thường, mẹ thì già hơn con, nhưng Đức Maria là một ngoại lệ, như sự Sinh Hạ Trinh Khiết cho thấy.
Đức Maria không hiện hữu trước Ngôi Hai Thiên Chúa, đấng luôn luôn hiện hữu ngoài thời gian, nhưng Đức Maria trở nên mẹ của Người bởi góp phần di truyền vật chất cho Người (x. Rom 1:3) và bởi mang Người trong lòng của mình (Mt 1:18; Luca 1:35).
Đức Maria là mẹ của Đức Giêsu theo nghĩa thực sự. Là Ngôi Hai Thiên Chúa, Đức Giêsu là Thiên Chúa, và như thế Đức Maria là mẹ của Thiên Chúa. Đức Maria không chỉ sinh hạ Đức Giêsu về bản tính nhân loại. Các bà mẹ không sinh ra bản tính. Họ sinh ra những con người, và Đức Giêsu là một thần nhân (divine person). Từ chối việc Đức Maria sinh ra Ngôi Hai Thiên Chúa thì sẽ phạm vào tội lạc giáo Nestorius.
Trong thế kỷ thứ năm, Nestorius – thượng phụ ở Constantinople – từ chối danh hiệu “mẹ của Thiên Chúa” (tiếng Hy Lạp là theotokos, “người mang Thiên Chúa”). Lập trường của ông bị tẩy chay bởi Công Đồng ở Êphêsô (431) vì các giáo phụ nhận thấy rằng sự hiểu biết thực sự về nhân vị của Đức Giêsu thì đang lâm nguy. Nếu không thể nói rằng Đức Maria sinh ra Ngôi Hai Thiên Chúa, đó là sự tách biệt nhân tính và thiên tính của Đức Kitô, như thế Người không còn là một nhân vị.
Đây là điều được nhiều thần học gia nhìn nhận, kể cả bên Tin Lành. Martin Luther viết: “Đức Maria, người mẹ, không chỉ cưu mang, sinh ra, cho bú, và nuôi nấng một con người bình thường, chỉ có thân xác và máu – vì như thế sẽ tách biệt Ngôi Hai – nhưng người cưu mang và nuôi nấng một con trai, đấng ấy là Con của Thiên Chúa. Vì thế thật đúng để người được gọi, không chỉ là mẹ của một người nam nhưng còn là Mẹ của Thiên Chúa” (Luther’s Works 24:107).
Sự dạy bảo của Giáo Hội về ly dị thì nhân đạo, công bằng, và bắt nguồn từ sự dạy bảo của Chúa Giêsu.
Sự dạy bảo của Giáo Hội thì nhân đạo vì Giáo Hội nhìn nhận rằng có thể có những lý do chính đáng để ly dị theo luật dân sự (luật đời): “Nếu việc ly hôn về phần đời là phương cách duy nhất để bảo đảm một số quyền lợi chính đáng, việc chăm sóc con cái hoặc bảo vệ gia sản, thì có thể khoan dung mà không lỗi về luân lý” (GLCG 2383). Như thế không ai phải sống trong một hoàn cảnh không thể chịu đựng nổi và không an toàn, tỉ như sống với một người chồng bạo hành về thể xác hay cảm xúc.
Sự dạy bảo của Giáo Hội thì công bằng vì Giáo Hội nhìn nhận rằng vợ chồng phải thi hành những gì đã hứa với nhau trong hôn nhân. Phải có lý do nghiêm trọng để bào chữa cho sự ly dị dân sự, vì sự ly dị “làm xáo trộn gia đình và xã hội. Việc xáo trộn này kéo theo nhiều tổn hại nghiêm trọng cho người phối ngẫu bị ruồng bỏ, cho con cái bị đau khổ vì cha mẹ phân ly, và lắm khi còn bị dằng co không biết theo ai, và cho xã hội vì hiệu quả lây lan của nó, nó thực sự là một tai ương cho xã hội” (GLCG 2385)
Sự dạy bảo của Giáo Hội bắt nguồn từ sự dạy bảo của Chúa Giêsu, Người mạnh mẽ chống với việc cho phép ly dị trong thời xưa. Khi nhấn mạnh rằng hôn nhân được Thiên Chúa thiết lập, vì thế vợ chồng được kết hợp với nhau trong một thể chế linh thiêng, Đức Giêsu nói rằng: “Điều gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được phân ly” (Mt. 19:6).
Người còn cảnh cáo rằng – vì vợ chồng được kết hợp theo phương cách này – họ không được tự do để kết hôn với người khác nếu họ ly dị: “Ai ly dị vợ mình và kết hôn với người khác thì phạm tội ngoại tình đối với vợ; và nếu vợ ly dị chồng và kết hôn với người khác, vợ phạm tội ngoại tình” (Mc 10:11-12; x. Luca 16:18).
Sự dạy bảo này được thấy trong các bài của T. Phaolô, ông rõ ràng nói với các người thời ấy rằng sự dạy bảo này là từ “Đức Chúa” – đó là, Chúa Giêsu (x. 1 Cor 1:2-3). Ông viết: “Còn với những người đã kết hôn, tôi ra lệnh này, không phải tôi, mà là Chúa, rằng vợ không được bỏ chồng, (mà nếu đã bỏ chồng, thì phải ở độc thân hoặc phải làm hoà với chồng) – và chồng cũng không được ly dị vợ” (1 Cor 7:10-11).
Chỉ vì ai đó được diễn tả là anh em, điều đó không có nghĩa họ cùng một mẹ. Chữ này được dùng theo nhiều cách.
Cách phổ thông nhất dùng chữ “anh em” (brother) là nói về một người nam ruột thịt có cùng cha và mẹ. Tuy nhiên, Đức Giêsu không có anh em ruột, vì ông Giuse không phải là cha về sinh học của Đức Giêsu (Mt 1:18; Luca 1:25-35). Điều này có nghĩa khi Kinh Thánh đề cập đến anh em của Đức Giêsu, sách không dùng chữ này theo nghĩa phổ thông nhất.
Chữ này còn có thể ám chỉ một người anh em cùng cha khác mẹ (hay ngược lại). Đây là điều được ưa thích bởi những ai cho rằng Đức Maria không còn là một trinh nữ. Tuy nhiên, đó không chỉ là một giải thích. Chữ này có thể ám chỉ một người anh em bởi hôn nhân (con riêng) hay một anh em do bởi việc nhận làm con nuôi. Và vẫn còn những cách sử dụng khác.
Nó có thể được sự dụng cho mối tương quan gần. Sách Sáng Thế 12:5 và 14:12 nói rõ rằng ông Lót là con của một người em ông Abraham (nghĩa là cháu), nhưng Sáng Thế 14:14 và 14:16 diễn tả ông Lót là “anh em” của ông Abraham (tiếng Hebrew là ’akh), và ông Abraham diễn tả chính ông và ông Lót là “anh em” (’akhim) trong Sáng Thế 13:8.
Như vậy, sự thật là chữ anh em được sử dụng không có nghĩa Đức Maria có các con khác.
Nếu chúng ta không có chứng cớ về sự Sinh Hạ Trinh Khiết, thì sự hiểu biết tự nhiên nhất về các anh em của Đức Giêsu sẽ là anh em ruột – con của ông Giuse và bà Maria. Nhưng chúng ta có chứng cớ về sự Sinh Hạ Trinh Khiết thì chúng ta phải nhìn đến sự hiểu biết khác.
Cũng vậy, nếu chúng ta không có chứng cớ rằng Đức Maria vẫn là một trinh nữ, thì thật hợp lý để nghĩ về anh em của Đức Giêsu như là con cùng cha khác mẹ – con riêng của Đức Maria. Nhưng chúng ta có chứng cớ rằng Đức Maria vẫn là một trinh nữ, có nghĩa chúng ta phải tìm hiểu một ý nghĩa khác.