Hai ngàn năm trước, một câu hỏi vang vọng trong sảnh đường ở Giêrusalem. “Sự thật là gì?” Phongxiô Philatô hỏi Chúa Giêsu (Ga 18:38). Cũng câu hỏi đó lại vang vọng trong tâm hồn chúng ta hôm nay. Với những điều quan trọng nhất trong đời sống, thực sự có tìm thấy chân lý không, hoặc mỗi người chúng ta có quan điểm riêng của mình? Có thể nào chúng ta biết – chắc chắc – tại sao chúng ta hiện hữu, đời sống có mục đích nào không, và điều gì xảy ra sau khi chúng ta chết? Có thể nào biết được chúng ta phải sống như thế nào và có Thiên Chúa không? Và khi cho là biết được sự thật về những điều này, điều đó có làm cho ai đó thiếu khoan dung không?
sự thật đơn giản là “đặc tính khi hài hòa với sự kiện hay thực tế.” Trở ngại lớn nhất để tìm kiếm sự thật hôm nay – khi đề cập đến các câu hỏi quan trọng về đức tin, luân lý, và ý nghĩa đời sống – là thuyết tương đối.
thuyết tương đối là “vấn đề lớn nhất của thời đại chúng ta.”1 Hãy nghĩ đến thời chúng ta đang sống, đó là một tuyên bố quan trọng, và là điều chúng ta không thể bỏ qua.
Thuyết tương đối là ý tưởng cho rằng không có một sự thật bao quát, tuyệt đối nhưng chỉ là sự thật khác biệt giữa người này với người kia và giữa văn hóa này với văn hóa nọ. Nói cách khác, sự thật thì tương đối đối với điều mà mỗi người hay văn hóa suy nghĩ.
Dường như hầu hết người thời nay là những người tương đối về luân lý và tôn giáo.2 Họ nghĩ rằng chỉ những gì khoa học có thể kiểm chứng thì mới được coi là sự kiện khách quan, ngoài ra mọi thứ khác là quan điểm chủ quan. Tỉ như, không ai nói, “Hai cộng hai là bốn đối với tôi nhưng nó có thể là năm đối với ai đó, và cả hai đều đúng.” Nhưng người ta thường nói những điều như, “Kitô Giáo thì đúng đối với tôi, trong khi Hồi Giáo thì đúng với người khác,” “Bạn có chân lý của bạn, và tôi có của tôi!” hoặc “Bạn không thể áp đặt luân lý của bạn trên người nào đó!”
Tất cả chúng ta đều gặp thuyết tương đối trong những tuyên bố như các câu trên, nhưng quan trọng hơn chúng ta gặp thuyết tương đối trong sự trống rỗng tinh thần và phóng đãng luân lý, nó xảy ra khi người ta nghĩ không có sự thật về Thiên Chúa là ai và chúng ta phải sống thế nào – chỉ là những quan điểm. Nhiều người chủ trương “triết lý” này mà không bao giờ nhận diện nó, và cuối cùng họ tách biệt khỏi những thực tại quan trọng nhất của đời sống.
Thuyết tương đối thì quá lan tràn đến nỗi ĐGH Biển Đức diễn tả ưu thế của nó trong thời chúng ta là “chế độ độc tài của thuyết tương đối.”3 Và tuy nhiều người dường như chưa bao giờ nghe biết điều đó, thuyết tương đối được cho là cần thiết để duy trì hòa bình và sự bình đẳng trong thế giới đa dạng của chúng ta. Tỉ như, nếu ai đó cho rằng họ có thể biết sự thật cách chắc chắn về một tôn giáo hay vấn đề luân lý (đó là, họ là một “người hiện thực” trái ngược với một “người tương đối”) và những ai bất đồng với họ thì “sai,” họ thường bị chụp mũ là “thiếu khoan dung,” “nghiêm khắc,” hoặc “bảo thủ.”
Chúng ta đã trình bày thuyết tương đối là gì, bây giờ chúng ta sẽ nhìn đến điều làm cho nó trở nên một trong những triết lý phổ biến tệ hại nhất lịch sử và tại sao nó là “vấn đề lớn nhất của thời đại chúng ta.” Chúng ta cũng nhìn đến làm thế nào niềm tin vào sự thật về luân lý và tôn giáo dẫn đến sự khoan dung thực sự, trong khi thuyết tương đối – trái với sự tin tưởng thông thường – khiến chúng ta khoan dung cách sai lầm và tệ hơn nữa là thiếu khoan dung. Quan trọng nhất, chúng ta sẽ đào sâu vào việc làm thế nào có thể biết được câu trả lời cho những câu hỏi quan trọng nhất trong đời sống: những câu hỏi về đức tin, luân lý, và ý nghĩa.
Nó được chấp nhận rộng rãi chỉ vì ít khi nó được xem xét kỹ. Một khi nó len lỏi vào cơ cấu xã hội, đơn giản nó được cho là đúng. Nhưng nhìn kỹ vào thuyết tương đối cho thấy nó không hoạt động như một triết lý hoặc trong đời sống thực.
điều tuyệt đối đúng cho mọi người là không có gì tuyệt đối đúng cho mọi người. Lời tuyên bố này không thể đúng bởi vì tự nó mâu thuẫn – chúng ta gọi đó là một mệnh đề tự mâu thuẫn. Nếu nó đúng cho mọi người là không có gì đúng cho mọi người, thì câu “Không có gì đúng cho mọi người” cũng không đúng cho mọi người!4
Nó nói, “Chỉ có những tuyên bố có thể minh chứng về khoa học thì tuyệt đối đúng.” Nhưng lời tuyên bố này không thể minh chứng bằng khoa học.
cách xã hội hình thành, và chúng ta có tìm ra các thực tại thâm trầm của đời sống này hay không. Tôi sẽ cho bạn thấy.
không có những chọn lựa luân lý đúng và sai; đúng hơn, đúng và sai thì tương đối đối với những cảm tưởng, cảm xúc, hay môi trường văn hóa của một người. Nhưng khi nhìn đến sự tàn bạo luân lý, chúng ta thấy điều này không thể đúng. Sau biến cố 9/11, Thị Trưởng Nữu Ước Rudolph Giuliani đứng trước các đại biểu quốc tế ở Liên Hiệp Quốc và nói, “Chúng ta đúng và họ sai [khi tấn công người vô tội]. Nó thật đơn giản… Kỷ nguyên tương đối luân lý… phải đi đến kết thúc… Không có kiểu luân lý nào cảm thông với những hành vi vô luân cách ghê tởm đó.” 5
Không thể nào nhìn thấy những người bị cháy nhảy từ Tòa Tháp Đôi xuống và nói, “Lao máy bay vào những tòa tháp đó thì đúng cho các tên khủng bố, vậy tôi là ai mà phán xét những hành động của họ”? Một số chọn lựa thì rõ ràng đúng và những cái khác thì rõ ràng sai. Thật đúng để nói rằng rất ít người theo thuyết tương đối luân lý ở Hoa Kỳ về vụ khủng bố 11/9 – tối thiểu trong ngày hôm đó.
Bởi vì thuyết tương đối không thể kiên định, cuối cùng nhiều người trở nên “tương đối chọn lựa,” họ khách quan về những điều họ cảm thấy chắc chắn về (khủng bố? kiểm soát vũ khí? trái đất nóng dần?) nhưng không còn gì khác (đạo đức tình dục? tôn giáo?).
mỗi người có thể tự tạo ra những cái đúng và sai với một quy tắc là không nên xúc phạm hay cản trở người khác. Nhưng một khi người ta chấp nhận một cái nên vào từ vựng của mình, tỉ như “Chúng ta không nên xúc phạm ai khác” hoặc “Chúng ta không nên áp đặt quan điểm của chúng ta trên người khác,” họ đã hủy hoại sự tương đối luân lý ở những nơi không có các quy tắc luân lý khách quan. Hơn nữa, quy tắc này không được bảo đảm bởi người theo thuyết tương đối bởi vì nó không được dựa trên điều gì khác hơn là quan điểm phổ biến của lúc ấy.
hay ngay cả hữu ích trong một thế giới đa văn hóa, nhưng ĐGH Bênêđích XVI nói đúng: Thuyết tương đối là vấn đề lớn nhất của thời đại chúng ta. Danh sách những ảnh hưởng xấu của nó thì có thể không cùng.
Trong những lời của ĐGH Bênêđích XVI nói với giới trẻ trong Ngày Giới Trẻ Thế Giới 2008, “Một sa mạc tinh thần đang lan tràn: nội tâm trống rỗng, sự sợ hãi không tên, một cảm nhận tuyệt vọng âm thầm.”6 Sự trống rỗng là hậu quả không thể tránh của thuyết tương đối, nó tách rời chúng ta khỏi những thực tại thâm trầm nhất của đời sống. Có lẽ đây là ảnh hưởng bi thảm nhất.
Khoa học có thể trả lời những câu hỏi về nội dung vũ trụ nhưng không phải những thắc mắc về ý nghĩa của nó. Những câu hỏi căn bản tỉ như “Tại sao tôi hiện hữu?” “Tôi phải sống cuộc đời thế nào?” và “Điều gì xảy ra sau khi tôi chết?” chỉ có thể được trả lời bởi triết học và thần học. Bởi vì điều này, những người tương đối nói rằng câu trả lời cho những thắc mắc này thì không phải là sự thật để khám phá nhưng là những ý tưởng mà mỗi người phải tạo ra cho mình. Cuối cùng, điều này là một thú nhận rằng đời sống hoặc không có ý nghĩa cố hữu hoặc, nếu có, chúng ta không thể biết chắc.
Nhiều người theo chủ nghĩa tương đối – bị thúc đẩy bởi nhu cầu không thể tránh là sống cho điều gì đó – đi đến những kết luận nông cạn về ý nghĩa đời sống. Điều này làm phát sinh những “triết lý” được dán sau xe: “Bóng chuyền là đời sống!” “Trượt nước hay chết!” hoặc, ở Wisconsin, “Tôi chảy máu vàng và xanh!” Trong khi thật tốt để khám phá ra khả năng, đam mê, của một người, hay đội banh được ưa thích, những điều như thế không thực sự trả lời cho những câu hỏi về ý nghĩa đời sống – nhưng với nhiều người, đây là tất cả những gì họ có. Những người khác sáng chế thêm các mục đích thâm trầm cho họ hơn là những thú tiêu khển hay lòng trung thành, nhưng bất kể các mục đích này có thâm trầm hay hời hợt, người tương đối phải thú nhận rằng họ đã không khám phá ra mục đích của đời sống nhưng đúng hơn họ tự tạo cho chính mình. Tuy nhiên, chúng ta không giả bộ tin rằng những câu hỏi quan trọng nhất của đời sống có một cảm nhận thực sự về ý nghĩa, hy vọng, và sự yên ổn. Chúng ta cần những câu trả lời chắc chắn.
Thiếu một cảm nhận chắc chắn về mục đích đời sống sẽ dẫn đến sự thất vọng hay sự toan tính liều lĩnh là tránh né những câu hỏi quan trọng nhất của đời sống qua biết bao thú tiêu khiển. Có lẽ đây là một trong những lý do của chủ nghĩa tiêu thụ cuồng nhiệt và không ngừng gởi tin nhắn. Thí dụ, một thiếu nữ chiếm kỷ lục ở Florida là Emilee: cô đã gởi và nhận 35,463 tin nhắn chỉ trong một tháng.7 Thật khó để giữ thinh lặng và trầm tư suy nghĩ nếu điều đó có nghĩa phải đối diện với một sự thực rằng bên dưới đó tất cả thì chẳng là gì cả.
Khi suy nghĩ đến những ảnh hưởng thiệt hại của một văn hóa tương đối đối với giới trẻ, ĐGH Gioan Phaolô II đã than thở:
Các thầy dạy lầm lạc, nhiều người thuộc về tầng lớp trí thức trong thế giới khoa học, văn hóa, và truyền thông, đưa một điều phản phúc âm… Khi bạn hỏi họ: Tôi phải làm gì?, điều duy nhất họ chắc chắn là không có chân lý chắc chắn, không có con đường rõ ràng… Có ý thức hay không, họ cổ vũ một kiểu tiếp cận đời sống mà nó đã đưa hàng triệu người trẻ vào sự cô đơn buồn thảm, trong đó chúng bị tước đoạt mọi lý do để hy vọng và không có khả năng yêu thương thực sự.8
Người trẻ hỏi ý nghĩa đời sống là gì, Thiên Chúa là ai, và họ phải sống thế nào thì bị bỏ mặc để tạo ra những câu trả lời cho chính mình. Điều này để lại cho họ không chỉ các quả bóng chuyền hay những người bạn trai có thể làm họ đau lòng ngày mai. Không ngạc nhiên, theo một cuộc thăm dò của Trung Tâm Kiểm Soát và Ngăn Ngừa Bệnh Tật, gần 15 phần trăm thiếu niên thực sự có nghĩ đến việc tự tử, và gần 7 phần trăm đã thử.9 Chắc chắn một số là hậu quả buồn thảm của bệnh tâm thần, nhưng số phần trăm cao ấy không chỉ tiêu biểu cho một vấn đề xã hội sâu rộng – đó là một sự khủng hoảng về ý nghĩa và một sự nghèo nàn về mục đích.
ĐGH Bênêđích XVI nói rằng, “Thuyết tương đối, không nhìn nhận điều gì là chắc chắn, nó chỉ để lại tiêu chuẩn sau cùng là chính bản thân với các ham muốn của nó.”10 Đó là vì thuyết tương đối không để lại cho chúng ta các chân lý khách quan để kiềm chế cách đối xử của chúng ta. La bàn luân lý của một người tương đối thì không hướng đi đâu hết nhưng về chính mình.
Khi được hỏi tội là gì, tổng thống lúc bấy giờ là Barack Obama tóm lược thuyết tương đối luân lý một cách mỹ miều khi ông nói, “Khi không phù hợp với các giá trị của tôi.”11 Hãy để ý rằng ông ấy không nói, “Biết là đang làm điều gì sái quấy,” bởi vì người tương đối không tin vào luật luân lý phổ quát nhưng chỉ có các “giá trị” thay đổi cách hợp pháp.
Một người tin có sự thật luân lý khách quan khi gặp một tình trạng luân lý khó xử họ hỏi, “Hành động này đúng hay sai?” Một người tương đối, được dạy chỉ để làm sáng tỏ các giá trị của mình, hỏi, “Tôi có thực sự muốn làm điều này không?” hay “Hành động này sẽ làm tôi cảm thấy tốt hay xấu?” Quy luật vàng của luân lý tương đối thì không phải là hãy làm điều đúng nhưng hãy làm như bạn muốn.12
Dĩ nhiên, thuyết tương đối miễn cho chúng ta khỏi phải sống theo các hướng dẫn luân lý nào đó, đó là một lý do triết lý này trở nên quá phổ thông. Nó cũng là lý do tại sao thật khó để nhiều người làm bạn với nó.
Không khó để thấy khi quyết định luân lý dựa trên những cảm xúc và sở thích cá nhân thì có thể dẫn đến thảm họa. Nhiều người trong tù đã thi hành những điều mà họ cảm thấy tốt đối với họ vào lúc phạm tội, hoặc họ có thể nói với bạn rằng họ hành động phù hợp với các giá trị họ có lúc bấy giờ. Tương tự, biết bao người trẻ đau khổ vì hậu quả của việc sống chung bừa bãi và lạm dụng ma túy, mà họ cảm thấy tốt lúc bấy giờ nhưng đã để lại cho họ một tai họa.
Chúng ta không còn khích lệ giới trẻ hãy tìm kiếm và sống theo sự thật. Nhiều người nghĩ rằng giới trẻ chỉ có thể khám phá ra con người thực của nó khi được “tự do” thoát khỏi những khuôn khổ của cha mẹ, xã hội, tôn giáo, và ngay cả chính thân thể của nó.
Trong một thí dụ gần đây về sự điên cuồng của thuyết tương đối, cha mẹ của một bé trai “đổi giới tính” bảy tuổi “khám phá” thấy rằng nó có thân thể của con trai nhưng hiển nhiên “một bộ óc của con gái.” Họ gởi nó đi học trong y phục con gái, họ nghĩ rằng nó sẽ tìm thấy con người thực sự của nó bằng cách sống theo sự xáo trộn của nó thay vì bị buộc theo cơ thể của nó.13 Kết quả của hoàn cảnh này là một đứa trẻ rất cần sự cố vấn về sự rối loạn giới tính thì không được gì cả. Ở đây chúng ta nhìn thấy một minh họa tột cùng về cách chúng ta gầy dựng một thế hệ tương đối.
Khi chúng ta chấp nhận con cái mà không hướng dẫn hoặc dạy bảo chúng về luân lý mà không nói đến sự thật, thay vì giúp chúng được tự do, chúng ta đang bỏ rơi chúng về luân lý. Sự cay đắng đáng buồn là sự bỏ rơi này thường xảy ra nhân danh tình yêu. Nhưng tình yêu không có sự thật – cũng rất giống như sự thật mà không có tình yêu – là một dạng độc đáo của sự độc ác.
Áp dụng các nguyên tắc của thuyết tương đối vào lớp học lái xe để thấy sự gầy dựng một đứa trẻ theo kiểu tương đối thì thật lầm lạc biết bao. Liệu chúng ta có coi đó là một sự chấp nhận đầy yêu thương khi nói với các thiếu niên học lái xe rằng chúng không cần để ý đến các lằn vàng giữa đường vì nó từng kềm chế cha ông của chúng và giữ cho họ khỏi bị trệch đường không? Tuy thế, đây là cách chúng ta huấn luyện người trẻ về luân lý, nó đối phó với cách chúng “lái” cuộc đời của chúng. Để lại các la bàn luân lý mà chỉ được hướng về bản thân và sự thèm khát, biết bao người trẻ trôi dạt vào tai họa. Điều mà nhiều người gọi là chấp nhận cách yêu thương thì thật sự là phóng túng luân lý, và ở đó không có yêu thương gì cả.
Theo lời của ĐGH Bênêđích XVI, “Chỉ trong chân lý bác ái mới chiếu tỏa, chỉ trong chân lý bác ái mới được sống cách xác thực… Không có chân lý, bác ái thoái hóa thành tình cảm ủy mị. Tình yêu trở nên một cái vỏ sò trống rỗng, được lấp đầy cách tùy tiện. Trong một nền văn hóa không có chân lý, đây là nguy cơ chết người đang đối diện với tình yêu.”14
Nó không chỉ là những mối quan hệ bằng máu nhưng đúng hơn các lý tưởng, nguyên tắc, và truyền thống kết hợp một dân tộc và thiết lập một quốc gia. Khi người dân được tập hợp cho điều gì đó lớn hơn chính họ, họ cảm nghiệm sự đoàn kết. Thuyết tương đối lấy đi nhận thức rằng chúng ta cần tuân theo một thực tại lớn hơn các ý kiến, giá trị, và những sở thích của chúng ta. Nó làm xoi mòn chất hồ xây dựng một xã hội. ĐGH Bênêđích XVI đã nói rằng “bên dưới dáng vẻ của tự do [thuyết tương đối] trở nên một nhà tù cho mỗi người, vì nó tách rời người ta với nhau, nhốt mỗi người trong các tôi của chính mình.”15
Thuyết tương đối thay thế châm ngôn E pluribus unum (“trong nhiều, một”) với E pluribus pluribus (“trong nhiều, nhiều”)16. Không gì có sức mạnh giải thể một quốc gia như thuyết tương đối. Có lẽ điều này sẽ được minh chứng trong nền văn minh Tây Phương vài trăm năm tới, tuy tôi hy vọng nó không xảy ra.
Một số người sẽ cho rằng chẳng có gì sai trái với việc phá thai. Chúng tôi không muốn tranh luận vấn đề này nhưng đơn giản cho thấy sự phá thai chỉ có thể hợp pháp trong một xã hội theo thuyết tương đối.
Trước hết, sự phá thai thì hợp pháp bởi vì đó là cách nhìn đến nhân quyền của một xã hội theo thuyết tương đối. Khi một xã hội nhìn nhận rằng các quyền lợi của con người thì được dựa trên các nguyên tắc khách quan – tỉ như phẩm giá con người và luật tự nhiên – những quyền lợi đó được bảo toàn. Nhưng một xã hội không nhìn nhận các khẳng định luân lý như các sự kiện khách quan thì sẽ đưa các quyền lợi đó vào tình trạng bấp bênh. Các quyền lợi sẽ được coi là những đặc ân được ban cho bởi nhà nước hoặc bởi đa số phiếu. Ngay cả với điều từng được coi là quyền bất khả nhượng đối với sự sống. “Không quyền lợi nào được an toàn khi quyền đối với sự sống thì không.”17
Đức Gioan Phaolô II nhìn thấy tương quan nhân quả giữa thuyết tương đối và sự phá thai rất rõ ràng. Trong Evangelium Vitae (Phúc Âm Sự Sống), người viết, “Quyền nguyên thủy và bất khả nhượng đối với sự sống thì bị đặt vấn đề hay bị từ chối dựa trên một biểu quyết của quốc hội… Đây là kết quả độc ác của thuyết tương đối mà nó ngang nhiên thống trị: ‘quyền lợi’ không còn là như thế, bởi vì nó không còn được xây dựng vững chắc trên phẩm giá bất khả xâm phạm của con người.”18
Thứ hai, sự phá thai thì hợp pháp bởi vì đó là cách nhìn “những sai lầm con người” của một xã hội theo thuyết tương đối. Trong những lời được cho là của Mẹ Têrêsa, “Nếu phá thai thì không sai lầm, còn điều gì?” Với người theo thuyết tương đối, câu trả lời sẽ là “Chẳng có gì ‘sai’.”
Một trong những lý luận chính yếu của các nhóm phò-phá-thai thì được bao hàm trong danh xưng phổ thông của phong trào này: “phò-lựa-chọn.”19 Họ tuyên bố rằng sự phá thai phải được hợp pháp nhân danh “sự tự do lựa chọn,” không nhất thiết vì đó là một quyết định luân lý. Một lý luận như thế chỉ có thể thành tựu trong một xã hội mà không hành động nào được coi là sai tự bản chất và “chỉ có sự tự do, bị bứng rễ khỏi bất cứ tính khách quan nào, tự nó có quyền quyết định điều gì tốt và điều gì xấu.”20
Sự phá thai được hợp pháp bởi thuyết tương đối và có lẽ vẫn mãi hợp pháp bởi vì thuyết đó.
Tuy các cuộc thăm dò cho thấy phần đông người Hoa Kỳ chống với sự phá thai, họ không làm gì cả – có lẽ phần đông người Hoa Kỳ là những người theo thuyết tương đối, họ không muốn “áp đặt giá trị đạo đức của họ” trên một ai đó.21 Và như thế, dường như rất đông người Hoa Kỳ nghĩ một hành vi là giết người nhưng sẽ không làm gì cả. Sự kiện này chứng tỏ rằng chúng ta có thể nhắm mắt làm ngơ trước bất cứ hành động nào nếu chúng ta nghĩ nó ở dưới cái dù che chở là thuyết tương đối. Không khó để thấy chiều hướng này có thể vô cùng nguy hiểm như thế nào.
Nhờ vào thuyết tương đối, xu hướng xã hội đối với sự sống con người sẽ không chấm dứt với việc hợp pháp hóa phá thai. Hôm nay chúng ta đang thi hành những điều mà hầu như toàn thể nhân loại thấy ghê tởm cho đến chỉ một thế hệ trước đây. Trong thập niên 1970, sự thụ thai trong ống nghiệm (IVF) được tranh luận sôi nổi, và Hội Đồng Nghiên Cứu Y Khoa của Anh đã từ chối tài trợ sự nghiên cứu này vì những lưu tâm về luân lý và sự an toàn. Vào năm 2010 một trong những người sáng lập IVF thắng Giải Nobel.22 Ngày nay, các phôi thai con người được sử dụng cho sự tiến bộ y khoa, và các nhà khoa học Anh được hợp pháp hóa chế tạo các nhân bản (clone) tạp chủng người-vật để thí nghiệm. Điều này cũng bị tranh luận, nhưng dù sao nó hợp pháp.
Cho rằng chúng ta có thể tiến bộ về khoa học; tuy nhiên, dường như ngày càng ít đối với vấn đề chúng ta có nên hay không.
Khoa học như thế này thì không còn được cho là phục vụ con người. Thật ra, nó đưa sự sống con người vào việc phục vụ khoa học – hoặc người cô thế trong việc phục vụ người giầu mạnh. Sự “tiến bộ” như thế thực sự là thoái lui, ngược trở về quy tắc “mạnh được yếu thua”. Sự sống yếu ớt nhất thì không còn an toàn khi thuyết tương đối thống trị. Các quyền lợi của con người không còn được đối xử như những gì tuyệt đối nhưng đúng hơn phải lệ thuộc vào những “giá trị” của những người cầm quyền.
Như chúng tôi nói ở trên, khi người ta không nghĩ quyền lợi của họ được dựa trên các quy tắc luân lý, họ sẽ coi chúng như những đặc ân được ban cho bởi giới cầm quyền. Những đặc ân như thế có thể dễ bị lấy đi bởi nhà cầm quyền hoặc đa số phiếu. Theo lời của ĐGH Gioan Phaolô II, “Giáo dục mà không có một hệ thống giá trị được dựa trên chân lý là bỏ mặc giới trẻ cho sự mơ hồ luân lý, sự bấp bênh cá nhân, và sự thao túng.”23
Các Tổ Phụ Sáng Lập quốc gia Hoa Kỳ thì không dễ bị thao túng bởi những người nắm quyền bởi vì họ không phải là những người theo thuyết tương đối. Họ nhìn thấy quyền lợi của họ thì “bất khả nhượng” – những sự kiện luân lý được thiết lập vững chắc trong chính bản chất của con người. Họ nhìn thấy rằng phẩm giá cố hữu của con người đòi hỏi phải có sự tự trị. Họ rất chắc chắn về các quyền lợi của họ để sẵn sàng chết cho các quyền đó. Nếu họ là những người theo thuyết tương đối, có lẽ Hoa Kỳ không tồn tại cho đến hôm nay.
Theo những lời được cho là của Edmund Burke, “Để sự dữ chiến thắng thì chỉ cần người tốt không làm gì cả.” Thuyết tương đối tạo ra một xã hội “không làm gì” trước những sự xấu về luân lý. Tại sao lại liều mạng cho “hệ thống giá trị cá nhân” của mình? Tại sao lại phản đối các luật lệ bất công và nhà cầm quyền nếu không quyền gì có thật mà chỉ là những sở thích khác nhau?
Chúng ta có thể dễ tranh luận các nguyên tắc khách quan về toán hay khoa học mà không sợ tổn thương người khác hay bị chụp mũ là “lời căm thù,” bởi vì các đề tài này được nhận biết thuộc lĩnh vực sự thật. Chủ đề này thì rất giống với chúng ta. Nhưng một thế giới tương đối sẽ coi các quyết định luân lý và tín điều tôn giáo ngang bằng với các cảm tưởng cá nhân thiếu khách quan. Hậu quả là việc tranh luận về giá trị lời tuyên bố của ai đó thì thường được coi là một sự tấn công bẩn thỉu và cá nhân. Có lẽ đây là lý do các cuộc tranh luận về một tôn giáo hay bản chất luân lý dễ mau chóng leo thang thành cuộc chiến cảm xúc không hợp lý. Dường như chúng ta mất khả năng tranh luận cách thông minh những điều quan trọng nhất! Và tệ hơn nữa, nó trở nên nguy hiểm hơn khi làm như vậy.
Trong những năm gần đây, ngày càng trở nên hiểm nghèo cho các tổ chức như Giáo Hội Công Giáo khi dạy bảo một số luân lý truyền thống mà nó từng dạy bảo và được tôn trọng triệt để bởi hầu hết nền văn minh Tây Phương trong cả ngàn năm. Tỉ như, thảo luận về đặc tính luân lý của hành vi tình dục thường được gán cho nhãn hiệu “cuồng tín” và “lời căm thù” – ngay cả khi nó được thi hành một cách bác ái và đầy tôn trọng (mà luôn phải như thế).
Chúng ta thấy những thí dụ thực tế của xu hướng này ở Gia Nã Đại, nơi đây chúng ta có thể bị kiện vì nói hay viết bất cứ gì mà nó có thể “khiến cho người khác bị ghét bỏ hay khinh miệt” hoặc, nói khác, vì mạnh mẽ chỉ trích ý tưởng hay lối sống của một người khác.24 Người đứng kiện có thể được nhà nước trả mọi án phí. Người bị kiện phải tự trả án phí và không có quyền đối diện nguyên cáo. Theo luật này (nó có thể được dùng để buộc những ai tán thành chân lý khách quan phải phục tùng), các giáo sĩ từng bị trải qua những phiên xử mệt mỏi và tốn kém vì bảo vệ hôn nhân truyền thống hoặc lên tiếng chống với các nhóm vận động đồng tính luyến ái. Thí dụ, một mục sư Tin Lành ở Alberta tên là Stephen Boission được bảo phải nộp tiền phạt và viết bản khước từ quan điểm của ông trên một tờ báo trong vùng. Ông còn bị ra lệnh là không bao giờ được nói hay viết về đề tài này nữa. Phán quyết này bị lật ngược nhưng chỉ sau hơn bảy năm bị luật pháp quấy rầy.25 Bất cứ lập trường nào của bạn về vấn đề quyền lợi người đồng tính, bạn phải thú nhận rằng tốt nhất đây là không khoan dung. (Thật cay đắng, người có trách nhiệm của Ủy Ban Nhân Quyền cho vụ kiện này cũng bác bỏ một vụ kiện về ban nhạc rock với lời nhạc “hãy giết Kitô Hữu” trong một bài hát của ban nhạc).26
Như chúng ta có nhắc đến, dường như ngày nay hầu hết người ta có ấn tượng sai lầm rằng nếu điều gì đó có thể minh chứng về khoa học, nó là sự thật khách quan, trong khi mọi thứ khác thì chỉ là “sự thật chủ quan” (đó là, cảm xúc hay quan điểm). Sự tin tưởng như thế giáng cấp Thiên Chúa từ địa vị Bản Thể sống động thành một cảm xúc cá nhân mà nó có thể thay đổi từ người này sang người khác một cách hợp pháp.
Vì sự giáng cấp này, những người theo thuyết tương đối có thể nói những điều như “Đức Giêsu là Chúa của bạn, nhưng Vishnu là Chúa của người nào khác.” Qua câu này, họ không chỉ muốn nói rằng người ta nhìn Thiên Chúa cách khác biệt nhưng Thiên Chúa, thật sự, còn khác biệt cho từng người, như thể mỗi người có thể tạo ra thần thánh cho chính mình dựa trên sở thích cá nhân, rất giống như họ tự pha chế càphê ở tiệm Starbucks. Có chuyện khôi hài rằng sự khác biệt chính yếu giữa loài người và Thiên Chúa là Thiên Chúa không bao giờ nghĩ rằng Người là chúng ta. Bởi coi ngang hàng với Thiên Chúa, thuyết tương đối nâng người ta lên như người sáng tạo Thiên Chúa thay vì Thiên Chúa là Đấng Sáng Tạo chúng ta.
Ý tưởng này thì không phù hợp với nhận xét rằng Thiên Chúa là một Bản Thể thực sự. Nếu Thiên Chúa là ai đó hay điều gì đó mà mỗi người tạo ra – thay vì ai đó chúng ta khám phá ra hay ai đó chúng tìm kiếm – thì Người không còn thật nữa mà chỉ là kết quả của trí tưởng tượng con người. Người bị giáng cấp chỉ còn là một phỏng đoán từ trí óc của tín hữu hay một nhóm tín hữu. Tuy nhiên, nếu một Thiên Chúa cá biệt và thông minh thực sự hiện hữu (như hơn 95 phần trăm dân số thế giới đồng ý),27 thì Người có các thuộc tính mà quan điểm cá nhân hay chung của chúng ta không tạo ra hay thay đổi được, cũng như bạn có các thuộc tính mà nó không thay đổi bởi những gì người ta tin về bạn. Không như các đặc tính giả dối, một Thiên Chúa thật sẽ là một Bản Thể mà sự hiện hữu không lệ thuộc vào những gì chúng ta nghĩ về Người và với các thuộc tính không bị ảnh hưởng bởi niềm tin của chúng ta. Điều này có nghĩa một số người tin những điều về Thiên Chúa, những điều ấy thì sai.
Tìm hiểu, yêu mến, và đi theo Thiên Chúa hằng sống là mục tiêu của đức tin. Một tương giao như thế sẽ là điều bất khả nếu Thiên Chúa không được coi như một Bản Thể không lệ thuộc vào sự tưởng tượng của tín hữu. Tín hữu có thể vẫn trải qua những chuyển động của thói quen tôn giáo vì truyền thống hay nuối tiếc quá khứ, nhưng họ không còn làm như thế khi toan tính tìm hiểu và tuân theo một Thượng Đế mà Người hiện hữu vượt trên chính họ. Với người theo thuyết tương đối, cái vỏ đức tin có thể vẫn không thay đổi, nhưng ở tâm điểm, nó đã thối nát.
Tôi vừa trình bày cho bạn lý do tại sao thuyết tương đối thì sai và theo sau đó là nhiều đường lối tiêu diệt thế giới này. Ngay cả bạn muốn đồng ý với tôi, nhưng nếu bạn bị thuyết phục rằng thuyết tương đối là cách duy nhất để đạt được sự khoan dung và bạn cho rằng niềm tin nơi sự thật khách quan là gốc gác của mọi sự hung ác, tôi sẽ không thể thay đổi tâm trí của bạn.
Như bạn thấy, nhiều người bị thuyết phục rằng thuyết tương đối là chất keo giữ cho một xã hội đa nguyên gần lại với nhau và nếu không có nó chúng ta sẽ phân hủy thành các bộ lạc gây chiến, thiếu khoan dung. Vì lý do này, một tranh luận về chân lý tuyệt đối thường được coi là một tranh luận cho sự thiếu khoan dung thời Đức Quốc Xã. Đương nhiên, một tranh luận như thế sẽ bị tẩy chay dù nó có vẻ hợp lý.