Khoan dung là một đức tính mà xã hội theo thuyết tương đối dường như quý trọng. Sự thanh khiết, đạo đức, điều độ, khôn ngoan, và can đảm tất cả thì tùy ý. Nhưng sự khoan dung thì được dạy bảo từ khi còn trẻ và được mong đợi nơi mọi người. Đó là điều tốt nếu tất cả chúng ta đều biết khoan dung là gì. Những người theo thuyết tương đối dường như nghĩ rằng sự khoan dung có nghĩa không mạnh mẽ bất đồng với bất cứ ai về các vấn đề luân lý hay tôn giáo. Nói cách khác, điều trước đây được gọi là bất đồng thì bây giờ thường được đặt tên là thiếu khoan dung – hay tệ hơn.
Nhưng khi gọi ai đó thiếu khoan dung vì nói rằng, “Tôi đúng và bạn sai”, điều trớ trêu là một tuyên bố như thế phải là điều kiện tiên quyết cho sự khoan dung. Khoan dung là chịu đựng những ý tưởng hay hành động mà bạn không đồng ý. Do đó, để có thể dung thứ điều gì đó, trước hết bạn phải bất đồng hay không thích điều đó! Không ai lại dung thứ một ngày nắng đẹp. Họ phải dung thứ cơn mưa chứ. Như vậy thiếu khoan dung là từ chối không chấp nhận điều gì đó mà bạn không đồng ý.
Nhiều khi sự thiếu khoan dung có thể hữu ích, tỉ như, để duy trì sự an ninh chung (td., chúng ta không dung thứ việc giết người), để duy trì sự toàn vẹn của một tổ chức đặc biệt (td., bạn sẽ bị đuổi ra khỏi vị thế trong Đảng Dân Chủ nếu bạn là một người Cộng Hòa thẳng thắn), hoặc để gầy dựng một đứa trẻ với những mong đợi nào đó (td., một cha mẹ tốt thì không dung thứ cho đứa con đánh đập anh chị em của nó).
Thiếu khoan dung có thể tác hại nếu nó được dùng để kiểm duyệt các ý tưởng, buộc người ta phải đồng ý với bạn, hoặc nó có hình thức bạo lực. Khi tôi nói về sự thiếu khoan dung trong tập sách này, tôi sẽ ám chỉ diện tối tăm của nó.
Nhiều người dường như nghĩ rằng thuyết tương đối là điều duy nhất có thể cứu thế giới khỏi loại thiếu khoan dung này. Tôi sẽ lý luận rằng tuyệt đối điều đó không đúng.
những người theo thuyết tương đối có thể thiếu khoan dung hơn những ai tin vào sự thật tuyệt đối. Thử lấy Adolf Hitler làm thí dụ, ông nói, “Không có gì là sự thật, trong ý nghĩa luân lý hoặc trong ý nghĩa khoa học.”28 Đồng minh của Hitler là Benito Mussolini, nhà độc tài phát xít ở Ý, là một thí dụ rõ ràng của một người theo thuyết tương đối thiếu khoan dung. Vào hồi đầu sự nghiệp, ông viết:
Bất cứ gì tôi nói và thực hiện trong những năm này đều là thuyết tương đối, bởi trực giác. Từ sự kiện rằng mọi ý thức hệ đều bình đẳng giá trị, nên tất cả mọi ý thức hệ chỉ là tưởng tượng, người theo thuyết tương đối ngày nay kết luận rằng mọi người có quyền tạo cho mình ý thức hệ riêng, và cố gắng thực hiện nó với mọi năng lực mà họ có thể. Nếu thuyết tương đối có nghĩa khinh thường các phạm trù cố định và những người chủ trương chân lý bất diệt khách quan, thì không có gì tương đối hơn chủ nghĩa phát xít.29
Vì Mussolini không công nhận bất cứ thực tại nào cao hơn – luân lý hay tôn giáo – mà theo đó ông phải tuân theo, ông sáng chế ra quy tắc luân lý của chính ông và áp đặt nó trên mọi người nếu ông có thể. Nói cho cùng, một khi ông theo đúng các giá trị của chính ông, đâu là các tiêu chuẩn khách quan mà ông phải tự kiềm chế mình?
Để công bằng, người theo thuyết tương đối cách trung bình thì không đi quá xa như Hitler và Mussolini, nhưng thế giới ngày nay đầy những ví dụ của sự thiếu khoan dung đối với những ai tin vào chân lý khách quan:
Bất đồng ý và lên tiếng thì không phải là thiếu khoan dung. Bắt nộp phạt những người bất đồng ý, đe dọa để buộc họ phải hành động trái lương tâm, và dẹp bỏ mọi dấu hiệu hay những diễn đạt niềm tin của họ nơi công cộng, đó là thiếu khoan dung. Những người theo thuyết tương đối càng có được sức mạnh chính trị bao nhiêu thì họ càng ít có khuynh hướng khoan dung với những ai họ bất đồng ý. Dường như một toà thẩm tra mới của những người theo thuyết tương đối đang tiến hành. Và, dĩ nhiên, nó được tiến hành nhân danh sự khoan dung!
Rất ít người ôm bom tự sát. Trong bầu khí văn hóa hiện nay, cũng quan trọng để nhận xét rằng trong một tỉ người Hồi Giáo trên thế giới, chỉ có thiểu số nhỏ là những người theo chủ nghĩa bành trướng triệt để. Thật vậy, người Hồi Giáo bình thường thì cố sống hòa bình mà họ là nạn nhân chính của chủ nghĩa cực đoan như thế.
Những người có hành vi bạo lực cực đoan nhân danh Thiên Chúa, nhưng nguồn bạo lực của họ không phải là sự kiện rằng họ theo thuyết tuyệt đối hay hiện thực (có nghĩa họ cho rằng biết được chính chân lý trong đức tin và luân lý) nhưng là những điều cơ bản họ tin hoặc sự giải thích lệch lạc các học thuyết hòa bình. Phần đông những người theo thuyết tuyệt đối thì không có những hành vi man rợ nhân danh tôn giáo; trái lại, tuy đức tin có thể tạo ra những bất đồng, nó cũng thường thúc đẩy đức ái và trật tự xã hội, là những gì cần thiết để các quyền lợi của cá nhân được tôn trọng.
Hãy nhìn đến một “người tuyệt đối tôn giáo” mà hầu hết người ta biết: Mẹ Têrêsa. Bà tin nơi Chúa Giêsu Kitô với tất cả sự ngoan cố mà bất cứ người ôm bom tự sát nào cũng sẽ đổ cho niềm tin của mình. Bà tin một cách chắc chắn rằng bà thì đúng và đức tin của người khác thì sai khi nói đến thiên tính của Đức Giêsu Kitô. Nhưng có thể nào bạn tưởng tượng bà bước vào một đám đông tín đồ Ấn Giáo và tự nổ tung chính mình bởi vì điều tin tưởng đó, hay các cuốn video mới được tìm thấy và được phổ biến trên YouTube về việc bà bắt một người Ấn nghèo hèn phải quỳ xuống vì họ không chấp nhận sứ điệp của Kitô Giáo không? Ý tưởng này thật nực cười. Đức tin của bà đã thúc đẩy bà đi vào một đời sống phục vụ bất cứ ai dù tôn giáo nào hay lối sống nào – từ việc cấp thức ăn cho các tín đồ Ấn Giáo sống trong các khu xóm lụp xụp ở Calcutta cho đến việc khởi sự nhà chăm sóc bệnh nhân AIDS đầu tiên của thành phố Nữu Ước và nhiều điều khác nữa.
Lịch sử gần đây cho thấy việc thiếu đức tin có khả năng đưa đến bạo lực cũng nhiều như đức tin, nếu không muốn nói là hơn nữa. Dường như rằng hãy chỉ “tưởng tượng không có thiên đường… không có hỏa ngục bên dưới chúng ta… cũng không có tôn giáo,” chúng ta có thể “sống trong hòa bình,” nhưng thế kỷ 20 đã minh chứng rằng ước mơ của John Lennon thì lại sai lầm. Những ai tưởng tượng rằng không có thiên đường, hỏa ngục, hay tôn giáo trong thế kỷ 20 làm cho sự vi phạm tội ác nhân danh đức tin giống như trò chơi của trẻ con. Thí dụ hãy nhìn đến chủ nghĩa cộng sản với cam kết vô thần mạnh mẽ. Chỉ trong một nước cộng sản nhỏ, Cam Bốt, 1.7 triệu người đã bị chết dưới bàn tay của nhà cầm quyền từ 1975 đến 1979, với toàn thể các gia đình, kể cả trẻ thơ, bị tử hình hàng chục ngàn người nếu họ bị coi là mối đe dọa cho Đảng Cộng Sản.
Một cái nhìn thành thật vào lịch sử cho thấy thuyết tuyệt đối tôn giáo không nhất thiết làm cho người ta thiếu khoan dung. Nó tùy thuộc vào những gì người ta tin, chứ không phải vì họ là tín hữu. Thật vậy, đức tin thực sự làm gia tăng sự khoan dung trong thế giới Tây Phương.
là sự tiết lộ căn bản nhất về phẩm giá con người mà chúng ta tìm thấy trong bất cứ hệ thống đức tin nào. Kitô Giáo dạy rằng mỗi người có giá trị lớn lao đến nỗi chính Thiên Chúa đã chết cho họ. Sự mặc khải về phẩm giá của mọi người, lớn hay nhỏ, có những ứng dụng lớn lao mà chúng ta thấy diễn ra trong lịch sử Âu Châu.
Chúng ta có thể lý luận rằng chính giá trị đặt trên sự khoan dung và sự tin tưởng vào quyền lợi của mỗi người trong nền văn hóa Tây Phương thì có thể truy ngược về di sản Do Thái-Kitô Giáo hơn là các nguồn gốc ngoại giáo. Thế giới ngoại giáo mà trong đó đầu tiên xuất phát Kitô Giáo thì vô cùng độc ác. Chiến tranh, giết người, thi đua của các giác đấu, và hình phạt tử hình tất cả là một phần quen thuộc của đời sống. Một người cha La Mã, mà quyền lợi của họ hầu như tuyệt đối, thì có thể để con mình chết cóng trong tuyết lạnh mà không bị hậu quả. Nói đơn giản, nếu không vì Kitô Giáo, bạn sẽ thấy các nô lệ từ nước ngoài thi đua chém giết kiểu giác đấu với con của bạn trên “prime-time” TV!35
Bất kể những toan tính trong hầu hết các sách sử để giảm bớt những đóng góp lịch sử của Kitô Giáo xuống chỉ còn các cuộc Thánh Chiến và tòa thẩm tra, nói chung sự khoan dung và nhân quyền lớn dần trong cộng đồng Kitô Hữu, tuy điều này không luôn được thể hiện tuyệt hảo. Giáo Hội Công Giáo phát minh ra hệ thống bệnh viện và đại học, duy trì các tác phẩm cổ điển khỏi tay các tên cướp man rợ, ủy thác việc thực hiện các công trình nghệ thuật mà bạn có thể thấy ở Âu Châu, và vẫn là tổ chức lớn nhất về bác ái và giáo dục trên mặt đất ngày nay. Xã hội Kitô Giáo, đúng với lý tưởng của nó, đặt con người trước hết và bảo đảm rằng kỹ thuật, nghệ thuật, khoa học, chính quyền, và giáo dục phải phục vụ con người, chứ không phải ngược lại. Sự nhận biết tầm quan trọng của vị trí con người trong vũ trụ và phẩm giá của từng người là nền tảng cho sự khoan dung.
Dù bạn là Kitô Hữu hay không, bạn vẫn vui hưởng thành quả của văn hóa Do Thái-Kitô Giáo. Từ chối điều này là có một cái nhìn thành kiến về lịch sử.
ĐGH Gioan Phalô II đã viết về “[các] chương đau lòng của lịch sử mà con cái của Giáo Hội phải trở về với tinh thần sám hối… [nơi] sự mặc nhận được ban cho, nhất là trong một số thế kỷ nào đó, đối với sự thiếu khoan dung và ngay cả sử dụng vũ lực để phục vụ chân lý.”36 Chúng ta có thể nêu ra một vài thí dụ nhục nhã. Hãy lấy tòa thẩm tra (hay rõ ràng hơn, Tòa Thẩm Tra Tây Ban Nha khét tiếng, nó được điều khiển bởi nền quân chủ Tây Ban Nha). Hoặc những săn bắt phù thủy ở Âu Châu. Hoặc thời kỳ chiến tranh lâu dài là Thập Tự Chinh. Các cuộc thập tự chinh thường có thể biện minh và ngay cả thành công trong ý định giải phóng các thành phố và nhà thờ Kitô Giáo bị xâm lăng, nhưng thật buồn, không khó để tìm thấy các hồ sơ về sự tàn bạo và thiếu khoan dung của Thập Tự Quân nhân danh Công Giáo La Mã, ngay cả đối với Kitô Hữu Đông Phương.
Nhưng một cái nhìn công bằng vào lịch sử cho thấy bạo lực đó không bao trùm Kitô Giáo. Thế giới Công Giáo không được chiến thắng bằng gươm giáo nhưng bằng sự rao giảng thuyết phục và các việc bác ái. Đây không phải là quan điểm của tác giả. Đó là sự thật lịch sử. Kitô Giáo lan tràn mau chóng nhất khi ở đầu lưỡi gươm – mà đã từng như thế biết bao lần và vẫn còn trong nhiều quốc gia ngày nay.
Khi Giáo Hội Công Giáo phát triển, sự dạy bảo về khoan dung lại trở nên rõ ràng hơn. Những thí dụ trong quá khứ về sự thiếu khoan dung đã bị lên án cách chính thức và công khai.
Chúng ta chỉ có thể hy vọng và cầu xin rằng các quốc gia nào vẫn còn đàn áp tự do tôn giáo nhân danh cộng sản vô thần hay Hồi Giáo thì cũng có sự trưởng thành tương tự và cùng tham gia với thế giới ngày nay về vấn đề này. Đi vào một số nhà thờ ở Trung Cộng hay Bắc Hàn thì có thể bị tống giam. Cải đạo sang Kitô Giáo ở Saudi Arabia, A Phú Hãn, và các quốc gia khác thì vẫn là một án tử hình. Nhiều người không ý thức về sự bách hại lan tràn này. Buồn thay, ít áp lực hay phản đối từ Tây Phương là nơi Kitô Hữu đang chịu gánh nặng của sự thiếu khoan dung.
Giáo sĩ Do Thái James Rudin viết trong cuốn sách của ông The Baptizing of America: The Religious Right’s Plans for the Rest of Us rằng nếu Kitô Hữu đủ mạnh,
Mọi biểu hiện của hành vi đồng tính luyến ái – kể cả nắm tay hoặc hôn nhau – sẽ bị phạt và bị tù… Mọi nhân viên chính quyền – liên bang, tiểu bang, và địa phương – sẽ bị đòi hỏi phải tham dự các lớp Kinh Thánh hàng tuần ở nơi làm việc, cũng như các buổi cầu nguyện ép buộc hàng ngày… [Kitô Hữu] tìm cách kiểm soát những gì xảy ra trong mọi căn phòng của lâu đài người Hoa Kỳ: phòng ngủ, phòng bệnh viện và giải phẫu, phòng họp báo, phòng thư viện, phòng xử án, phòng học, phòng công cộng, và phòng làm việc – các khía cạnh chính của xã hội Hoa Kỳ.37
Nhưng lịch sử cận đại cho thấy những lo sợ như thế thì không có nền tảng trong thực tế. Có thể lý luận rằng 60 năm qua, Kitô Hữu giữ tay trên trong xã hội Hoa Kỳ. Cầu nguyện thì bình thường trong lớp học. Các máng cỏ được dựng nên nơi công cộng, và không ai than phiền là bị “phiền toái” bởi hài nhi Giêsu. Các bia Mười Điều Răn được trưng bày nơi công cộng và không ai bị xúc phạm. Nhưng không ai nhớ thần quyền chính trị Hoa Kỳ vĩ đại này đã tống cổ những người khác đức tin vào trong ngục. Điều đó không có.38 Trái lại, Kitô Hữu trong lịch sử cận đại cho thấy, khác xa với nhiều văn hóa khác, họ rất có thể bất đồng với người khác và vẫn khoan dung, dù là một thành phần đa số.
Và vì không có “quy tắc” luân lý nào được tôn trọng bởi 100 phần trăm dân số, mọi đạo luật là sự áp đặt một quy tắc luân lý mà nó được nhìn nhận bởi một nhóm đặc biệt trong xã hội (thường là đa số) trên mọi người khác.
Nếu Kitô Hữu tìm cách lập pháp hóa tôn giáo – thí dụ, buộc phải đi lễ ngày Chúa Nhật – điều đó sẽ sai lầm. Ép buộc đức tin, giống như ép buộc tình yêu, thì không có thật, và nó vi phạm sự tự do và phẩm giá của con người.39 Nhưng nếu Kitô Hữu tìm cách lập pháp hóa quy tắc luân lý mà nó hợp lý, được dựa trên luật tự nhiên (giác quan bẩm sinh về đúng và sai), và đề cao ích lợi chung, họ không nên im lặng chỉ vì những luật đó cũng phù hợp với các nguyên tắc được thấy trong đức tin của họ. Toan tính làm như vậy là cố chấp chống tôn giáo.
Mọi nhóm, từ câu lạc bộ đua thuyền đến trường Công Giáo trong vùng, tất cả phải có các hướng dẫn. Không có các hướng dẫn, quy tắc ứng xử, hay điều tin tưởng cốt yếu, sẽ không thể xác định nhóm. Có những khi, các nguyên tắc này đòi hỏi sự loại trừ. Loại trừ những ai không chia sẻ cùng niềm tin hay sở thích mà trên đó nhóm này được thành lập thì không nhất thiết là thiếu khoan dung. An tâm để nói rằng tổ chức “Gay, Lesbian, and Straight Education Network” (GLSEN) sẽ không chấp nhận đức tổng giám mục của tôi là hội viên trừ khi người chối bỏ những điều tin tưởng mà người nói công khai về hôn nhân đồng tính. Nhưng kiểu loại trừ này thì không thiếu khoan dung trong nghĩa tiêu cực của chữ. Nó đơn giản là một nhóm đúng với các quy tắc làm ra nó.
Như thế loại trừ người ta khỏi một nhóm vì các điều tin tưởng cốt yếu thì không thiếu khoan dung. Nhưng thiếu khoan dung khi buộc người khác phải gia nhập một nhóm hay phải tuân giữ các quy tắc nếu họ bất đồng ý với nhóm. Ngược lại, đó là thiếu khoan dung khi những người không phải là phần tử nhưng lại buộc một nhóm phải từ bỏ những điều tin tưởng cốt yếu để bất cứ ai cũng có thể tham gia, theo học các trường, hay được kết hôn trong nhà thờ của nhóm. Tổ chức GLSEN phải được tự do để tự xác định, và Giáo Hội Công Giáo cũng phải như vậy. Các tổ chức bất đồng ý với nhau vẫn có thể hiện diện một cách hòa bình, đầy tôn trọng trong thế giới tự do – ngay cả những bất đồng đó thì mạnh mẽ.
Giáo Hội dạy rất rõ ràng rằng hoạt động đồng tính luyến ái vi phạm luật tự nhiên và cả luật Thiên Chúa. Nhưng Giáo Hội cũng rõ ràng trong sự dạy bảo về sự khoan dung. Theo Giáo Lý Công Giáo, những ai có sự hấp dẫn cùng giới tính “phải được chấp nhận với sự tôn trọng, thương cảm và tế nhị. Bất cứ dấu hiệu nào của sự kỳ thị bất công này đối với họ thì phải tránh.”40
nhưng Người cũng thách đố họ thay đổi đời sống. Hai khía cạnh này trong tác vụ của Người thì trái ngược nhau nếu bạn không nắm vững được điều đã thúc đẩy Người tương tác với người khác: là tình yêu.
Thái độ tiếp đón của Đức Giêsu Kitô đã chấn động những người thời ấy và có lẽ cũng gây tai tiếng cho một số tín hữu ngày nay. Người ăn uống với kẻ tội lỗi. Nói cách khác, Người có thể lai vãng với những người hoàn toàn vô tôn giáo mà không làm họ sợ.
Đàng khác, Đức Giêsu cũng rất thử thách những ai Người tiếp đón. Cũng như bất cứ người lãnh đạo tôn giáo nào khác trong lịch sử, Đức Giêsu mời người ta sống theo một đường lối rõ ràng. Những đòi hỏi của Người thực sự vượt quá những đòi hỏi của các người lãnh đạo tôn giáo thời bấy giờ – không theo các đòi hỏi bề ngoài nhưng theo một quy tắc bên trong với những đòi hỏi cao nhất. Tỉ như, Người ví sự tức giận với sự sát hại và dục vọng với sự ngoại tình trong tâm hồn. Người mạnh bạo lật đổ các bàn của những người đổi tiền trong Đền Thờ. Người cảnh cáo dân chúng về lửa hỏa ngục. Người gọi những ai giả hình trong thời đó là “mồ mả quét vôi trắng,” xinh đẹp bên ngoài và đầy chết chóc bên trong. Phải, Người đã cứu một phụ nữ ngoại tình sắp sửa bị ném đá với câu nói nổi tiếng “Ai vô tội hãy ném đá người này trước.” Nhưng Người còn nói với phụ nữ này, “Hãy đi và đừng phạm tội nữa.” (Xem Gioan 8:1-11 để biết toàn câu chuyện).
Người ta có khuynh hướng phản ứng khắc nghiệt khi Giáo Hội Công Giáo có một lập trường vững chắc về một vấn đề luân lý, họ thường hỏi, “Chúa Giêsu sẽ làm gì?” – như thể nếu bám lấy một tiêu chuẩn luân lý cao thì sẽ xa lạ với ý định của Đức Kitô. Tôi đoán là những người này chưa bao giờ đọc Kinh Thánh.
Đức Giêsu Kitô yêu thương mọi người đủ để chấp nhận con người họ. Lối sống vô luân dù thiệt hại, Người cũng yêu thương họ rất nhiều để họ theo đường lối đó.
Đức Giêsu dạy các môn đệ hãy thi hành như những gì Người đã làm: tiếp đón mọi người nhưng cũng dạy bảo về tội, vì tình yêu đòi hỏi phải cảnh giác con người về những gì có thể tổn thương họ. Hơn nữa, các lý tưởng đề ra trong Kinh Thánh thách đố chúng ta hãy lên án các hành động mà không lên án con người. Vì chúng ta không thể nhìn thấy linh hồn con người như Thiên Chúa, vai trò phán xét dành cho một mình Người, chúng ta được lệnh hãy yêu thương mọi người mà không phân biệt hay có điều kiện. Nhưng lệnh yêu thương này thì không mâu thuẫn với yêu cầu lên tiếng với sự rõ ràng về các vấn đề luân lý hoặc thách đố người ta thay đổi kiểu cách đối xử khi cần.
Hơn nữa, yêu cầu lên tiếng về các vấn đề luân lý thì không mâu thuẫn với mệnh lệnh không bao giờ phán đoán. Trong một xã hội tương đối mà nó mơ hồ giữa những lựa chọn luân lý với những diễn tả cá biệt thiếu tính khách quan, nhiều người cho rằng phán xét một hành động luân lý thì giống như phán xét một người. Nhưng nói rằng hành động của ai đó thì sai, điều đó không giống như nói rằng người này thì xấu.
Đức Giêsu là người khoan dung nhất trên đời. Con Thiên Chúa toàn năng tự để mình bị tra tấn và đã cầu xin tha thứ cho các lý hình. Người dạy bảo các môn đệ hãy thi hành những gì Người đã làm cho đến mức phục vụ, tha thứ, và ngay cả yêu thương kẻ thù – một mệnh lệnh dường như bất khả (tuy có vẻ dễ đối với bạn, cho đến khi bạn có một kẻ thù phải yêu thương). Đơn giản là không có một hình thức khoan dung nào triệt để hơn hay mệnh lệnh nào phải yêu thương kẻ thù nghiêm nhặt hơn là mệnh lệnh này trong bất cứ văn bản thiêng liêng nào khác.
Giáo Hội Công Giáo, bao gồm hơn một tỉ người trong hai tỉ Kitô Hữu trên thế giới, không dạy rằng mọi người của các tôn giáo khác phải xuống hỏa ngục.
Giáo huấn chính thức của Giáo Hội là một người không biết hoặc không được nghe biết về Chúa Giêsu nhưng cố gắng hết sức để sống theo đường lối của Thiên Chúa như họ biết – lưu ý: tôi không viết, “cố gắng hết sức để tử tế”: Hitler tử tế với người mà ông ưa thích – thì có thể vào thiên đường qua Chúa Giêsu theo một đường lối mà chỉ có Thiên Chúa biết.41 Giáo huấn này được dựa trên sự hiểu biết rằng Thiên Chúa thì công bình và chính trực, Người muốn mọi người lên thiên đường, và Người có thể hoạt động ngoài những phạm vi thông thường mà Người đã đặt ra để chúng ta được cứu chuộc: tin vào Chúa Giêsu, kế đó là bí tích rửa tội và một đời sống Kitô Hữu.
Tuy không phải mọi Kitô Hữu tin là bạn phải có tên trong một giáo hội để được vào thiên đường, họ vẫn cảm thấy có bổn phận phải nói với thế giới về Chúa Giêsu.42 Tín hữu Kitô rao giảng tin mừng vì họ cho rằng họ biết được đường lối thông thường và chắc chắn mà Thiên Chúa đã tiết lộ để người ta được bảo đảm lên thiên đường, bởi vì Người ra lệnh cho các môn đệ phải thi hành như vậy (truyền giáo thì không phải là điều tùy ý của Kitô Giáo), và, nhất là, vì đó là tin mừng không thể giữ riêng cho mình. Người ngoài Kitô Giáo: Nếu bạn thực sự tin rằng Thiên Chúa yêu thương chúng ta đủ để trở nên một người trong chúng ta, và sự Phục Sinh của Người là bằng chứng cho hạnh phúc vĩnh cửu đang chờ đợi chúng ta, bạn có muốn nói với những người mà bạn có thể không? Nhìn trong ý nghĩa này, lời mời của Kitô Hữu thì không thể bị hiểu sai là cưỡng ép. Theo những lời của ĐGH Gioan Phaolô II, “Giáo Hội đề nghị, không áp đặt gì cả.”43
đang áp đặt trên chúng ta khi nghe một đề nghị luân lý hay tôn giáo. Nếu bạn muốn dập tắt tiếng nói đó, bạn được tự do để thử, nhưng vui lòng đừng im tiếng tôi! Tôi chỉ đang đề nghị thôi.
đó là, nếu chúng ta từ bỏ ý tưởng rằng một số ý nghĩ thì đúng và những cái khác thì sai, thì tất cả chúng ta có thể sống chung. Nhưng tôi đã cho thấy rằng làm thế nào thuyết tương đối có thể tạo ra sự cực kỳ trái ngược với khoan dung bởi vì nó lấy đi những lý do khách quan để người ta tập tự kềm chế đối với những ai họ bất đồng ý.
Cộng thêm với điều này, thuyết tương đối không phải là “thuốc trị” sự thiếu khoan dung bởi vì đơn giản là nó không bao giờ được chấp nhận bởi những người theo thuyết tuyệt đối là những người thiếu khoan dung. Hãy thử tổ chức một cuộc hội thảo mở rộng trong khu rừng núi A Phú Hãn để thuyết phục các phần tử của phe Taliban rằng thực sự không có khác biệt giữa Kitô Hữu, tín đồ Do Thái, hay Hồi Giáo. Bạn sẽ không đi tới đâu – bất kể bạn có cố gắng minh họa điểm của bạn.
Như vậy điều gì có thể chữa trị sự thiếu khoan dung? Tôi lý luận rằng người khoan dung nhất là một người hiện thực (đó là, người nhận biết có tôn giáo khách quan và các sự kiện luân lý) họ nhận biết rằng sự thiếu khoan dung thì sai.
Công Đồng Vatican II dạy rất rõ về sự khoan dung:
Chúng ta không thể thực sự kêu cầu đến Thiên Chúa, Cha của mọi người, nếu chúng ta từ chối đối xử theo một phương cách huynh đệ với bất cứ người nào, được dựng nên là con người họ trong hình ảnh của Thiên Chúa. Sự tương quan của con người với Thiên Chúa là Cha và sự tương quan của họ với anh chị em của họ thì rất liên kết với nhau đến nỗi Kinh Thánh nói: “Ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa” (1 Ga 4:8)… Giáo Hội khiển trách, vì xa lạ với ý định của Đức Kitô, bất cứ sự kỳ thị nào đối với người khác hoặc quấy rối họ vì sắc tộc, mầu da, hoàn cảnh đời sống, hay tôn giáo.44
Một giáo huấn rõ ràng rằng thiếu khoan dung là một sự xấu luân lý thì phải được xuất phát từ mọi người lãnh đạo tôn giáo của mọi đức tin.
Thông điệp này cũng cần xuất phát từ những nhà hoạt động trần tục mà những người theo họ, khi họ có đủ sức mạnh, có khuynh hướng đàn áp những người họ bất đồng. Tỉ như, một số nhà hoạt động ủng hộ hôn nhân đồng tính cách triệt để muốn chính quyền ép buộc các tổ chức tôn giáo phải thay đổi sự giảng dạy và thực hành về đạo đức tình dục để hỗ trợ hôn nhân đồng tính hay nhận con nuôi – hoặc nếu không sẽ bị kiện hoặc mất tình trạng miễn thuế vì “lời căm thù.” Điều này vượt trên sự hoạt động để cưỡng bách và thiếu khoan dung.
Như thế chúng tôi đã vạch ra làm thế nào thuyết tương đối chỉ đưa đến sự khoan dung mong manh và làm thế nào chỉ cần tin tưởng vào chân lý khách quan thì có khả năng bảo đảm sự khoan dung có thật và lâu dài. Hy vọng chúng tôi đã lấy đi sự sợ hãi của bạn về chủ nghĩa hiện thực để giúp bạn thoải mái đi sâu vào cuộc thảo luận kế: làm thế nào bạn có thể biết những câu trả lời cho những câu hỏi quan trọng nhất với sự chắc chắn – những câu hỏi về đức tin, luân lý, và ý nghĩa đời sống.