Thí dụ, nếu bột ngọt làm bao tử bạn khó chịu thì tốt nhất hãy hỏi người hầu bàn của nhà hàng ăn Tầu xem có bột ngọt trong món ăn bạn muốn không. Nhưng hãy thử gia tăng nguy cơ này – nếu bạn dị ứng với bột ngọt và sẽ bị phản ứng nguy hiểm đến tính mạng, có lẽ chính bạn muốn xem công thức nấu nướng trước khi ăn. Bạn muốn sự chắc chắn cao độ nếu thức ăn này có thể giết bạn.
Nguy cơ thì nhiều khi chạm đến ý nghĩa của đời sống (đức tin) và cách chúng ta sống đức tin ấy (luân lý). Những điều như thế chạm đến chính mục đích của sự hiện hữu của chúng ta và chúng ta phải sống điều đó như thế nào. Chỉ có sự chắc chắn ở mức độ cao về những điều này mới đem cho chúng ta sự tin tưởng cần thiết để đối đầu đời sống với một cảm nhận vững vàng về mục đích và sự chết với niềm hy vọng.
như thể vì có quá nhiều lý luận và quan điểm nên chúng ta có thể được miễn trách nhiệm đi tìm những câu trả lời xác đáng. Khi nói đến những câu hỏi thâm trầm, quan trọng nhất về ý nghĩa đời sống, tốt hơn bạn hãy nhìn đến chứng cớ và tìm các câu lời vững chắc, nếu không bạn có thể quên đi mục đích sự hiện hữu của bạn.
Có thể tìm thấy các câu trả lời cho những thắc mắc về đức tin và luân lý. Và dù các câu trả lời không thể được kiểm chứng về khoa học, chúng có thể được kiểm chứng về sự hợp lý.
Như chúng tôi khẳng định ở trên, sự thật là “hài hòa với sự kiện hay thực tế.”
Dù chúng ta nói về sinh học hay triết lý, chúng ta tìm kiếm sự thật bởi quan sát dữ kiện và đưa ra kết luận hợp lý về điều đó. Nếu đó là dữ kiện vật chất, bạn gọi những quan sát và kết luận của bạn là vật lý. Nếu nó liên quan đến các con số, bạn gọi đó là toán học. Nếu bạn quan sát các cảm nghiệm đạo đức, bạn gọi đó là luân lý. Nếu thông tin đó là về Thiên Chúa, bạn gọi đó là thần học. Nhưng trong từng trường hợp, đầu óc bạn làm việc qua dữ kiện để đưa ra kết luận và tìm ra sự thật.
Có sự khác biệt nào giữa dữ kiện bạn đặt dưới kính hiển vi và dữ kiện thuần túy triết học tự nhiên không? Chắc chắn có, nhưng điều đó không làm cho một khoa học này thì đáng tin hơn khoa học khác. Các ý niệm cũng có thể đáng tin như những gì trong đĩa thí nghiệm. Tỉ như, có lẽ không bao giờ bạn có thể kiểm chứng về vật lý rằng 10 ngàn tỷ cộng với 10 ngàn tỷ bằng 20 ngàn tỷ. Bạn sẽ cần một bảng tính khổng lồ. Nhưng bạn biết về diện khái niệm rằng câu trả lời đó đúng. Tương tự, các đầu óc vĩ đại trong lịch sử từ Aristotle (triết gia Hy Lạp xưa) cho đến Fred Hoyle (nhà thiên văn thế kỷ 20 và cựu vô thần) cho đến Thomas Aquinas (thần học gia thời trung cổ) đã suy diễn từ những gì chúng ta có thể quan sát được về vật lý và triết lý rằng có một “người chuyển dịch bất di dịch,”45 một “siêu trí tuệ,”46 hay một “Thiên Chúa”47 mà chúng ta không thể thấy.
Khi nói đến đạo đức học, một cách chúng ta có thể đưa ra những lý lẽ mạnh mẽ là bởi lý luận qua “dữ kiện” của những cảm nghiệm đạo đức.48 Chúng ta có thể biết rằng một số lựa chọn thì cao quý và tốt bởi vì hầu hết mọi người đều nhìn nhận như vậy. Chúng ta có thể biết một số điều thì sai bởi vì nói chung người ta chùn bước trước điều đó. Tỉ như, an tâm để nói rằng việc giết người thì sai bởi vì hầu như mọi người đều biết như thế qua trực giác. Khi đưa ra những phán đoán luân lý dựa trên cảm nghiệm chung của con người, điều đó có vẻ hơi chủ quan không? Có thể. Nhưng nó cũng không chủ quan hơn khi nói rằng chúng ta biết trái táo mầu đỏ vì hầu hết mọi người đều nhìn thấy nó mầu đỏ. Dĩ nhiên, ai đó bị loạn sắc sẽ thấy mầu xanh, nhưng sự nhận thức của họ thì sai. Và ai đó bị tẩy não có thể nghĩ rằng sự giết người thì có thể chấp nhận được, nhưng họ cũng sai.
Do đó câu hỏi của tôi cho những khoa học gia nào nghĩ rằng chỉ có dữ kiện vật chất mới có thể coi như “chứng cớ” là thế này: Tại sao bạn chấp nhận dữ kiện và đưa ra kết luận về thế giới vật chất nhưng lại bỏ qua những điều quan trọng hơn, tỉ như Thiên Chúa là ai và bạn phải sống thế nào? Tại sao bạn lại giới hạn những khám phá về vũ trụ vào thực tại bên trong đĩa thí nghiệm? Bạn nghiên cứu về vật thể trong vũ trụ, nhưng bạn quên đi ý nghĩa.
không thể nào biết được bất cứ gì có bản chất tinh thần một cách chắc chắn, chúng ta gọi đó là một người hoài nghi. Một số người hoài nghi vì họ từ chối nhìn nhận bất cứ gì phi vật chất là chứng cớ cho sự thật.
Với nhiều người, sự hoài nghi thì khác xa với một lập trường về trí tuệ. Đó là sự tẩy chay một tuyên bố dù có đủ chứng cớ để hỗ trợ. Sự hoài nghi như thế là một thái độ không tự nhiên đối với con người hay các ý niệm và không chỉ là dấu hiệu của một tinh thần bị tổn thương. Sau nhiều năm làm việc trong thừa tác vụ giới trẻ, tôi thấy rằng tất cả các câu trả lời hợp lý trên thế giới này cũng không thể giúp cho một người có đức tin nếu trong quá khứ họ đã từng gặp khó khăn tin cậy người cha của họ. Nhiều khi đối diện với những vấn đề tín thác nền tảng như thế có thể giúp ai đó phá vỡ sự hồ nghi.
Theo những lời của G. K. Chesterton, “Mục tiêu của việc mở tâm trí, cũng như mở miệng, là đóng lại ở điều gì vững chắc.”49 Đó là điều tốt để đóng tâm trí bạn một khi bạn tìm thấy điều gì đó đáng được đóng lại.
thì không giống như nói rằng mọi người khác thì 100 phần trăm sai. Giáo Hội Công Giáo cho rằng có được sự trọn vẹn của chân lý về Thiên Chúa, nhưng Giáo Hội không cho rằng mọi đức tin khác thì hoàn toàn sai.
Về chân lý và sự cao đẹp của các tôn giáo khác, Giáo Hội chính thức dạy bảo như sau:
Giáo Hội Công Giáo không từ chối những gì đúng và thánh thiện trong các tôn giáo [khác]. Với sự chân thành tôn trọng, Giáo Hội coi các cách cư xử và đời sống đó, các giới luật và dạy bảo đó, tuy trong nhiều khía cạnh khác với những gì Giáo Hội chủ trương và đề cao, tuy thế thường phản ánh một tia của Chân Lý mà nó khai sáng mọi người.50
Và một khi có những chân lý được tìm thấy trong các tôn giáo khác, Giáo Hội nhìn nhận rằng họ có thể dẫn đưa người ta đến Thiên Chúa và giúp họ gặp gỡ Người trong nhiều cách khác nhau.51
Ngày nay cũng phổ thông khi thấy các vị lãnh đạo tôn giáo đối thoại và cùng hoạt động cho ích lợi chung bất cứ khi nào có thể. ĐGH Bênêđích XVI vừa khích lệ sự đối thoại liên tôn mà nó sẽ “giúp các tôn giáo biết nhau tốt hơn và tôn trọng lẫn nhau, để hoạt động cho sự thành đạt những khao khát cao quý nhất của loài người, trong sự tìm kiếm Thiên Chúa và trong sự tìm kiếm hạnh phúc.”52
Trong một số phương cách, mọi người có đức tin thì trong cùng một “nhóm,” cùng chạy đến một Thiên Chúa. Lập trường của chúng ta, Kitô Hữu, thì không phải là trên họ, bởi vì chúng ta cho rằng biết được chân lý, nhưng đúng hơn bước đến Thiên Chúa với họ. Chắc chắn điều này là thái độ của ĐGH Bênêđích XVI.
Nhưng sự tôn trọng các tôn giáo khác thì không giống như chủ trương trung lập tôn giáo. Trong cùng bài diễn văn, ĐGH Bênêđích XVI nói tiếp, “Thật vậy, [Giáo Hội] tuyên xưng, và luôn tuyên xưng Chúa Kitô là ‘đường, sự thật, và sự sống’ (Ga 14:6), trong Người mà nhân loại có thể tìm thấy sự trọn vẹn của đời sống tôn giáo, trong Người mà Thiên Chúa giao hòa mọi sự với chính mình.”
Các tôn giáo trên thế giới là kết quả việc loài người tìm kiếm Thiên Chúa, nó phát sinh từ bản tính của chúng ta là những tạo vật tôn giáo, được dựng nên bởi Thiên Chúa và cho Thiên Chúa. Kitô Hữu cho rằng họ biết câu chuyện Thiên Chúa tìm kiếm con người – cho đến độ trở nên một người trong chúng ta và nói thẳng với chúng ta Người là ai, và khi làm như vậy, tiết lộ cho chúng ta biết con người của chúng ta. Do đó, trong khi các tôn giáo khác cung cấp một ý niệm lờ mờ về Thiên Chúa, Đức Giêsu tiết lộ toàn thể chân dung.
Do đó, tóm lại, Kitô Hữu cho rằng 100 phần trăm đúng về Thiên Chúa thì không được coi ngang hàng với tuyên bố rằng mọi người khác thì 100 phần trăm sai. Và chắc chắn đừng lẫn lộn với sự thiếu tôn trọng người khác. Nói ai đó sai thì không giống như nói họ không thánh thiện. Cũng như đúng về thần học thì không giống như sự thánh thiện. Tỉ như, quỷ là một chuyên gia về thần học.
bạn có thể tạo ra chân lý cho chính mình – về đạo đức và tâm linh của bạn. Nó không nhiều kiêu hãnh bằng cho rằng hầu hết loài người trong quá khứ thì sai cho đến khi có làn sóng “cởi mở” gần đây. Và nó không nhiều kiêu hãnh bằng việc hạ giá những mặc khải từ Thiên Chúa hay từ thiên nhiên xuống mức độ quan điểm cá nhân, như thể tư tưởng của con người thì có sức nặng. Những ai tin vào chân lý khách quan thì có sự khiêm tốn để tìm kiếm chân lý và cố gắng tuân theo khi họ tìm thấy chân lý ấy. Thật khó để nghĩ rằng triết lý và thần học thì kiêu hãnh hơn thuyết tương đối.
để phân biệt những quan niệm đúng và sai về Người, dường như đi từ sự mênh mông đến sự mập mờ. Thật lạ lùng, trong văn hóa tương đối, nếu một ý niệm tinh thần thì mơ hồ và khó để nắm vững, chúng ta kết luận rằng nó phải như thế vì nó thâm trầm. Trái lại, nếu một ý niệm tinh thần thật rõ ràng trắng đen, chúng ta lại gán cho nó nhãn hiệu quá đơn giản và nhỏ nhen.
Kitô Hữu tin rằng “Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga 4:8). Sự kiện trở nên một con người và chết cho chúng ta chỉ có ý nghĩa trong sự hợp lý của tình yêu. Thật khác xa với điều bị coi là một định nghĩa “hạn hẹp”, không có gì mênh mông và thâm trầm hơn tình yêu. Chúng ta có thể tranh luận rằng không tôn giáo nào khác có thể có một tuyên bố cao siêu về Thiên Chúa là ai - hay điều gì. Và nếu Thiên Chúa là tình yêu, vậy, bất kể tất cả sự mênh mông của Người, Người không thể tự tỏ lộ cho chúng ta theo những cách rõ ràng và dễ dàng lĩnh hội hay sao? Đó là những gì về Đức Giêsu: Thiên Chúa với một diện mạo và một danh xưng nói ngôn ngữ của loài người. Tình yêu tự tỏ lộ này của một Thiên Chúa siêu phàm thì thật thâm trầm và mênh mông hơn sự diễn tả về một khối thần thánh lờ mờ, vô định hình, bâng quơ mà không bao giờ lưu tâm đủ đến con người để tự tỏ lộ một cách rõ ràng cho họ.
Nó làm phát sinh nhiều quốc gia thịnh vượng trong biết bao phương cách bởi vì sự sáng tạo và cởi mở đón nhận các ý kiến của các quốc gia ấy. Nó linh hứng cuộc đối thoại về trí tuệ, thách đố chúng ta sống bác ái và hiểu biết, và giúp chúng ta biết quý trọng nhân loại nói chung mà nó kết hợp chúng ta lại. Nhưng thật nghịch lý, thuyết tương đối tiêu hủy sự đa dạng đích thực!
Một thế giới mà người ta công khai và thành thật bất đồng ý thì đa dạng. Một thế giới mà thúc ép sự thống nhất qua sự tuân thủ với thuyết tương đối – và buộc tội người ta là cuồng tín vì bất đồng ý với người khác – thì khác xa với sự đa dạng.
Một xã hội tương đối coi mọi quan điểm tôn giáo như nhau và sẽ đàn áp bất cứ ai coi mình là “đúng” hơn người khác. Một xã hội như thế có thể có nhiều nhà thờ, nhưng cuối cùng, mỗi người chỉ là một phần tử của “giáo hội tương đối” – chủ trương cùng một tín lý trọng tâm mà không có sự khác biệt hiển nhiên giữa các tôn giáo, và Thiên Chúa là điều gì đó mỗi người tự tạo ra cho mình thay vì một Đấng mà mỗi người khám phá ra. Không có gì đơn sắc và chán chường hơn điều đó. Đó là một tháng Mười Hai lạnh lẽo khi đèn nến bảy ngọn (menorah) và cây Giáng Sinh bị thay thế với các biểu ngữ mơ hồ mang hàng chữ hy vọng và tin tưởng nhưng không bao giờ cho biết tại sao lại hy vọng và những gì phải tin.
Sự đa dạng đích thực là khi chúng ta có thể mạnh mẽ bất đồng ý với sự tôn trọng và lòng bác ái.
Em rể của tôi là một người theo Do Thái Giáo. Tôi tin rằng nó nghĩ tôi thật sai lầm về Đức Giêsu. Nó không bị ảo tưởng rằng Đức Giêsu có thể là Thiên Chúa cho tôi, nhưng là ai đó hoàn toàn khác biệt cho nó. Thật khó để là một người theo thuyết tương đối khi nói đến một nhân vật lịch sử. Đức Giêsu hoặc là đấng mà Người tự nhận hoặc là người điên. Dĩ nhiên, tôi tuyên bố rằng Người tuyệt đối là Thiên Chúa và em rể của tôi thì hoàn toàn sai.
Như thế chúng tôi bất đồng ý về con người Giêsu. Tôi giả sử rằng vì tình cảm nó dành cho tôi, nó sẽ vô cùng sung sướng nếu tôi chia sẻ đức tin Do Thái của nó. Tương tự, tôi rất thích nếu nó trở nên một Kitô Hữu. Điều đó không có nghĩa chúng tôi ghét nhau hoặc đánh nhau mỗi khi gia đình xum họp (không những thế mà vấn đề này không bao giờ được đưa ra). Trái lại, chúng tôi tôn trọng lẫn nhau trên hành trình đến với Thiên Chúa, và ngay cả có thể cùng nhau cầu nguyện. Đó là một thí dụ đích thực về sự hợp nhất trong đa dạng. Chúng ta không cần phải được hợp nhất trong thuyết tương đối để được đoàn kết trong tình huynh đệ.
luật tự nhiên và luật của Thiên Chúa. Luật của Thiên Chúa, được nhìn nhận bởi những người có đức tin, là những gì Thiên Chúa trực tiếp tiết lộ về cách chúng ta phải hành động. Luật tự nhiên ám chỉ các quy tắc luân lý “được viết” vào chính bản tính của chúng ta.
Làm thế nào chúng ta có thể biết luật tự nhiên? Câu hỏi tốt hơn là “Làm thế nào chúng ta không thể?” Các Tổ Phụ Sáng Lập quốc gia Hoa Kỳ viết rằng các quyền căn bản của con người thì “tự minh chứng.” Không cần phải được huấn luyện chuyên sâu để hiểu được rằng con người có quyền đối với sự sống, sự tự do, và theo đuổi hạnh phúc. Đúng hơn, thiếu huấn luyện thì mới không thấy điều đó.
Nhờ luật tự nhiên, các văn hóa bộ lạc xa xôi nhất cũng “hình dung ra” các bổn phận của hôn nhân và của cha mẹ và không tán thành lối cư xử làm hao mòn điều đó. Các bổn phận quen thuộc được viết vào chính bản tính của thân xác có khả năng sinh sản của chúng ta.
Luật tự nhiên là lý do việc giết người từng là tội đáng bị trừng phạt nặng nhất trong hầu hết mọi văn hóa của dòng lịch sử. Nó vi phạm đến sự sống mà chúng ta “nhìn thấy” trong một người. Chúng ta tự nhiên chùn bước trước điều đó. Chúng ta không phải suy nghĩ về điều đó.
Chủ nghĩa hiện thực luân lý – một nhìn nhận rằng có các quy tắc đạo đức mà tất cả chúng ta phải sống theo đó – thì không được pha chế bởi các nhà lãnh đạo tôn giáo. Nó trong DNA của chúng ta. Trẻ em có một cảm nhận bẩm sinh rằng có điều đúng và sai, công bằng và không công bằng được in sâu trong các nền tảng của vũ trụ. Sau khi một đứa trẻ cảm được sự đau khổ vì bất công ở sân chơi, không cần lâu để nó rành mạch nói rằng điều đó sai hay xấu xa khi có người lấy cắp trái banh của nó hay đánh vào mặt nó.
Thuyết tương đối – một bác bỏ ý niệm rằng có những điều nên và không nên – là một cách suy nghĩ thiếu tự nhiên. Nó được thận trọng dạy bảo con em chúng ta bởi giới thượng lưu trí thức hoặc áp đặt trên chúng ta bởi một chính phủ ngoài tầm cỡ mà họ hăm dọa hình phạt đối với công dân nào đưa ra một tuyên bố luân lý mà bị gán cho là cuồng tín.
Bởi vì thuyết tuyệt đối và luật tự nhiên là một phần của cảm nghiệm con người, thuyết tương đối chỉ thống trị một phần nhỏ trong lịch sử con người, và đơn giản nó không thể thống trị thế giới mãi mãi. Nếu cuối cùng nó thành công xé nát xã hội ra từng mảnh (hầu như đã như thế trong thời Mussolini), các người hiện thực mới sẽ vươn dậy từ đống tro tàn.
Nó tiêu biểu cho sự hủy hoại toàn thể cách tiếp cận luân lý của loài người trong dòng lịch sử, thay thế luân lý với một triết lý sai sót – “quy luật vàng” mới mà chẳng có quy tắc gì cả.
Một khi cho rằng các quan điểm luân lý trở nên “lỗi thời”: Những chữ như lỗi thời phải được dùng cho những điều như máy nướng bánh mì. Những chữ như đúng và sai phải được dùng cho các ý tưởng. Nếu chúng sai, chúng phải bị quăng đi bởi vì chúng luôn luôn sai. Nếu chúng đúng, chúng phải được tin tưởng hơn nếu đã từng đứng vững theo thời gian. Quãng thời gian không làm cho một ý niệm đạo đức trở nên sai hay lỗi thời. Bạn không dùng luân lý để biết thời gian. Dùng một đồng hồ để phán đoán vấn đề luân lý thì cũng như khùng.
Dĩ nhiên, trong một số lãnh vực, những khám phá mới thay thế những ý tưởng cũ. Bạn không dùng sách giáo khoa từ 1850 trong lớp sinh học ngày nay cũng giống như bạn không đi tìm mua một lò vi sóng cũ kỹ. Nhưng các chân lý được nhận biết trong triết học (và thần học) thì phi thời gian. Chúng có thể được đánh bóng, nhưng chúng không rỉ sét.
để đưa ra một kết luận hợp lý. Lý trí có thể dẫn chúng ta đến ngưỡng cửa đức tin. Lý trí cũng có thể giúp chúng ta hiểu nội dung của đức tin sau khi vượt qua ngưỡng cửa này. Nhưng lý trí không thể thực sự vượt qua ngưỡng cửa này cho chúng ta. Để trở nên một người có đức tin sâu đậm, cần có nhiều điều hơn là một bậc kỳ tài thần học. Đó là vì đối tượng của đức tin không phải là một điều hay một đề tài nhưng là một con người – Thiên Chúa. Đức tin không phải là một khoa học nhưng là một sự tương giao. Đây là lý do đức tin xảy ra bởi một hành vi của ý chí, không chỉ của trí tuệ. Như một suy diễn, hãy nhìn đến hôn nhân.
Những ý nghĩ hợp lý có thể giúp một người nam loại trừ mọi lựa chọn khác và tập trung vào một người mà anh muốn kết hôn, nhưng sau cùng, lời nói “tôi chấp nhận” là một hành vi của ý chí, một quyết định để dâng hiến cho một người. Bạn không thể dùng khoa học để kiểm chứng mọi điều bạn biết về cô ta, bạn cũng không thể dùng mọi kiến thức của mình để giải thích những bí ẩn của cô ta, tuy nhiên sau khi bạn có đủ “chứng cớ,” sự xinh xắn và tốt lành của cô ta khiến bạn quyết định trao cho cô cuộc đời của bạn.
Trong một số ý nghĩa, đức tin là một sự mạo hiểm mù quáng, giống như hôn nhân, nhưng điều này không phải vì Đức Tin phi lý nhưng đúng hơn, siêu lý lẽ – nó vượt lên trên những giới hạn của lý trí. (Có những phần của vũ trụ vượt ra ngoài tầm nhìn của chúng ta. Điều đó không có nghĩa là chúng không có ở đó). Cũng quan trọng như việc sử dụng lý trí của bạn, bạn không thể hoàn toàn thấu hiểu Thiên Chúa cũng như hiểu rõ hôn nhân mà bạn bước vào, nhưng một khi bạn có đủ chứng cớ, bạn bước vào dù thế nào đi nữa.
Hơn nữa, hãy nghĩ đến sự kiện là người vô thần cũng đòi hỏi một bước nhảy vọt về đức tin. Không người vô thần nào có thể minh chứng về khoa học rằng tuyệt đối không có Thiên Chúa hoặc, nếu không có Thiên Chúa, tại sao trong vũ trụ có những sự vật trái ngược với sự hư không. Tuy nhiên sau khi có được một vài “khám phá”, người vô thần cần có bước nhảy vọt về đức tin và quyết định rằng không có Thiên Chúa. Như vậy, có đức tin hay thiếu đức tin bao gồm một hành vi của ý muốn.
Chúng ta đang rời xa thuyết tương đối, nhưng chỉ trong một vài câu hỏi thôi.
Với sự thích đáng tôn trọng người vô thần, thuyết vô thần thì cũng điên khùng như một con bọ chét từ chối không tin có một con chó. Trong những lời của Edwin Conklin, nhà sinh vật học và cộng sự viên của Albert Einstein tại Princeton University, “Xác suất về sự sống xuất phát từ một sự tình cờ thì có thể so sánh với xác suất của một cuốn tự điển đầy đủ xuất phát từ một vụ nổ trong tiệm in.”53 Một sợi DNA thì phức tạp hơn một cuốn tự điển. Có thể có một vụ nổ lớn được theo sau bởi hàng tỉ năm tiến hóa, nhưng nhận xét rằng tất cả những điều này có thể xảy ra mà không có trí óc nào đó “giám sát” thì cũng ngớ ngẩn như nhìn thấy một cuốn sách và cho rằng không có tác giả chỉ vì không tận mắt nhìn thấy họ. Cũng ngớ ngẩn tương tự khi cho rằng các điều kiện có thể đã có ở đó, bởi tình cờ, để một cuốn sách tiến triển từ hư không nếu có đủ thời gian.
Chúng ta không thể cho rằng biết được lý do tại sao Thiên Chúa có ở đó và một vũ trụ trái ngược với sự hư không, nhưng chúng ta có thể biết là nếu nhìn thấy một cuốn sách thì phải có một tác giả, nếu nhìn thấy một bức tranh thì phải có một họa sĩ, nếu nhìn thấy một chuỗi sự kiện mở đầu thì phải có một “khởi đầu” tối thượng, và nếu chúng ta nhìn thấy một vũ trụ thì phải có Đấng Tạo Hóa.
Đây là lý do các triết gia xưa tin có Thiên Chúa, hầu hết các người theo thuyết tương đối tin có Thiên Chúa, và, tôi cho rằng, nhiều người tự nhận là vô thần cũng tin vào Thiên Chúa – họ chỉ tức giận Người vì lý do này hay lý do khác.
Vị sáng lập Kitô Giáo đã chỗi dậy từ sự chết. Trong thế kỷ 19, giáo sư luật đáng kính là Simon Greenleaf nhận thấy rằng Kitô Giáo dựa vào niềm tin ở sự Phục Sinh của Đức Giêsu. Thật vậy, nếu Đức Giêsu Kitô đã chỗi dậy từ sự chết, điều đó chứng minh mọi điều Người đã tuyên bố. Nếu không, hoặc Người là một tên dối trá cơ hội chủ nghĩa hoặc một tên điên nghĩ rằng mình là Thiên Chúa. Ông Greenleaf tìm cách chứng minh rằng sự Phục Sinh không bao giờ đứng vững trong một tòa án – nhưng ông gặp phải một khó khăn về giả thuyết của mình: Ông biết rằng một nhân chứng là cách chắc chắn để kết thúc vụ kiện. Trong trường hợp Phục Sinh, ông không chỉ tìm thấy nhiều nhân chứng nhưng tất cả đều sẵn sàng chịu chết thay vì rút lại lời chứng của họ. (Điều quan trọng để nhận xét là các nhân chứng này không chỉ sẵn sàng chịu chết cho một niềm tin hay một triết thuyết nhưng để xác nhận một biến cố đặc biệt họ được thấy: sự Phục Sinh). Mười tông đồ chịu cái chết khủng khiếp và một người bị lưu đầy. Sau cùng, ông Greenleaf trở nên một Kitô Hữu.54
Nếu bạn chưa bao giờ cảm nghiệm, rồi đây bạn sẽ cảm được, bởi vì không ai tránh được đau khổ, và mọi người phải chết. Điều tệ hơn là có lẽ bạn cảm nghiệm sự chết của người thân yêu trước khi của bạn. Vào những lúc như thế, có thể bạn sẽ gào lên, “Chúa ơi, Ngài ở đâu?” (Hãy xem Mátthêu 27:46. Đức Giêsu cũng đã từng kêu lên như thế nên bạn không phải lẻ loi). Làm thế nào bạn giữ được đức tin trong những lúc như thế? Bạn có thể tiếp tục chọn sự tin tưởng.
Như chúng ta đã nói ở trên, đối tượng của đức tin thì không phải là một đề tài nhưng là một Người, và vì lý do đó, đức tin thì không chỉ ở trong đầu bạn nhưng nó bao gồm một hành vi của ý chí. Đầu của bạn có giới hạn. Nó chỉ có thể nhớ được một số dữ kiện giới hạn vào một lúc. Ở giữa thảm kịch, bạn không thể nhớ ngay lập tức mọi lý do để tin hoặc mọi sự đã giúp củng cố đức tin sau nhiều năm – cũng như người chồng đối diện với sự cám dỗ không thể ngay lập tức nhớ được mọi điều tuyệt vời từng cảm nghiệm trong hôn nhân. Nhưng cũng như người phối ngẫu trung tín đó, bạn có thể tiếp tục chọn sự tin tưởng vào một Tác Giả sự sống đầy yêu thương thay vì tuyệt vọng.
Thường trong ánh sáng đức tin, sự xáo trộn của thảm kịch lại có ý nghĩa một cách nào đó, hoặc tối thiểu có thể chịu đựng nổi và không làm cạn kiệt ý nghĩa của đời sống. Nói theo T. Augustine, “Đừng tìm sự hiểu biết để bạn có thể tin, nhưng hãy tin để bạn có thể hiểu.”55
Sau đây là một vài lời khuyên để giúp bạn chống với thuyết tương đối. Lời khuyên sau khó hơn lời khuyên trước, và lời sau cùng thì dường như bất khả - nhưng cần thiết nhất cho đến bây giờ.
Khi Phongxiô Philatô hỏi Đức Giêsu, “Sự thật là gì?” ông đang nhìn đến diện mạo của Đấng đã từng nói, “Ta là đường, là sự thật, và là sự sống.” Người không nói, “Ta là một con đường, một quan niệm, và một lối sống.” Đừng chỉ nói về Người: Hãy cho thế gian thấy diện mạo của Người. Tôi ao ước có thể đưa ra một giải pháp dễ dàng hơn, vì điều này đòi hỏi cả cuộc đời của bạn, nhưng không có điều nào khác.