Chúng không mâu thuẫn. Các tác giả thời xưa có tự do để ghi nhận các biến cố theo niên đại hoặc không theo niên đại.
Ngay cả thời bây giờ, thời bị ám ảnh với thời gian, các người viết tiểu sử có tự do để xếp đặt tài liệu không theo niên đại. Một người viết tiểu sử của Abraham Lincoln có thể dành nguyên một chương để viết về các suy nghĩ của ông về vấn đề nô lệ và sắc tộc thay vì chia tài liệu này ra và lập đi lập lại trong tường thuật về sự nghiệp của ông theo niên đại. Tương tự, các giảng dậy đạo đức hay các tiên báo của Chúa Giêsu có thể đặt trong một chương của Phúc Âm, như Bài Giảng Trên Núi (Mt 5-7) và Bài Giảng về Thời Cánh Chung (Mt 24-25).
Trong thời xưa, người ta thường không ghi nhận sự kiện xảy ra hàng ngày của một đời người. Ký ức về một vĩ nhân vẫn tồn tại, nhưng không chính xác khi nào họ đã thi hành những điều ấy. Như vậy việc ghi nhận không theo niên đại là điều được mong đợi. Điều này đúng với ngay cả các vĩ nhân trên thế giới. Hãy đọc cuốn “The Lives of Twelve Ceasars” (Cuộc Đời của 12 Xêda) của Suetonius, nó ghi nhận các lời nói và hành động của các hoàng đế Xêda mà không có chi tiết về niên đại.
Sau cùng, những gì một vĩ nhân nói và hành động thì được coi là quan trọng, không chính xác khi nào các sự kiện ấy xảy ra. Đó là lý do những cái trước thì được ghi nhớ và những cái sau thì không.
Đức Giêsu giảng dạy trong nhiều trường hợp, nhưng không có một chi tiết niên đại, các thánh sử xếp chúng theo đề tài và trình độ học vấn. Điều này cũng đúng với các hành động cá biệt mà Đức Giêsu thi hành (tỉ như, các chữa lành). Điều này không muốn nói là các thánh sử không cho chúng ta biết về niên đại. Một số biến cố thì hiển nhiên xảy ra trước hay sau những cái khác. Như vậy, sự thanh tẩy của Đức Giêsu (khai mở sứ vụ) thì ở đầu các Phúc Âm và Khổ Hình Thập Giá thì ở cuối.
Nhiều khi chi tiết niên đại được nhớ đến, tỉ như sự kiện là Đức Giêsu thi hành việc chữa lành vào ngày Sabát (Mc 3:1-6), sứ vụ của Gioan Tẩy Giả bắt đầu vào năm thứ 15 thời hoàng đế Tiberius (Lc 3:1-3), hoặc một số biến cố nào đó trong đời Đức Giêsu đã xảy ra vào những ngày lễ lớn của người Do Thái (Ga 2:13, 6:4, 7:2, 10:22, 11:5). Như thế, có thể lượm lặt thông tin về niên đại từ các Phúc Âm.
Chương 1 Sáng Thế Ký dùng ngôn ngữ biểu tượng. “Chính Thiên Chúa tạo nên vũ trụ hữu hình với tất cả sự phong phú, đa dạng, và thứ tự của nó. Sách Thánh trình bày công việc của Tạo Hóa theo biểu tượng là sáu ngày ‘làm việc’ liên tục” (GLCG 337).
Giáo Hội nhận biết giá trị của các nghiên cứu khoa học. “Câu hỏi về nguồn gốc thế giới và con người là đối tượng của rất nhiều cuộc nghiên cứu khoa học, nhờ đó, chúng ta hiểu biết sâu rộng về độ tuổi và các chiều kích của vũ trụ, về sự biến hóa của các dạng sống, về sự xuất hiện của loài người. Những khám phá này mời gọi chúng ta thêm lòng cảm phục sự cao cả của Đấng Tạo Hóa” (GLCG 283).
Thận trọng đọc chương 1 Sáng Thế cho thấy sách dùng ngôn ngữ biểu tượng. Sách nói rằng nguyên thủy “trái đất không có hình thể và trống rỗng” (Gen 2). Trong sáu ngày tạo dựng, Thiên Chúa giải quyết cả hai vấn đề này. Trước hết, Người tạo hình thể cho vũ trụ bằng cách tách biệt ngày với đêm (ngày 1), bầu trời với biển cả (ngày 2), và nước rút ra biển để đất khô xuất hiện (ngày 3). Thứ hai, Người trở lại các lĩnh vực này và làm cho chúng sinh sôi nảy nở vì thế chúng không còn “trống rỗng”: Người đưa mặt trời, mặt trăng, và các tinh tú vào ngày và đêm (ngày 4), đưa chim và cá vào bầu trời và biển cả (ngày 5), và đưa các thú vật và con người vào mặt đất (ngày 6). Sau đó Người nghỉ ngơi vào ngày thứ bảy. Như thế chương 1 Sáng Thế ký đưa công trình của Tạo Hóa vào cơ cấu một tuần lễ của người Do Thái theo biểu tượng.
Mấu chốt để hiểu điều này có tính cách văn học thay vì nghĩa đen là nhờ sự kiện rằng mặt trời không được làm ra cho đến ngày thứ 4, nhưng chu kỳ ngày/đêm lại được thiết lập vào ngày thứ 1. Người thời xưa biết rằng sự hiện diện của mặt trời làm thành ngày, như thế việc thành lập mặt trời vào ngày thứ 4 cho độc giả thấy rằng bản văn này có tính cách biểu tượng.
Đức Gioan Phaolô II nói: “Kinh Thánh nói với chúng ta về nguồn gốc của vũ trụ và những vật trang điểm trong ấy, không để cung cấp cho chúng ta một khái luận khoa học nhưng để nói lên sự tương quan giữa con người với Thiên Chúa và vũ trụ. Sách Thánh chỉ muốn tuyên bố rằng thế giới này được tạo dựng bởi Thiên Chúa” (Diễn văn trước Pontifical Academy of Sciences, October 3, 1981)
Mọi người đều nhìn nhận rằng Kinh Thánh có dùng biểu tượng. Vấn đề là chính xác nhận diện điều ấy.
Con người sử dụng cả hai kiểu nói theo nghĩa đen và biểu tượng, và chúng ta không ngừng nhận ra sự khác biệt, thường là không ý thức về điều đó. Nếu ai đó nói chúng ta cần “trải thảm đỏ” cho một bậc vị vọng, bằng trực giác người ta biết ngay đây là cách nói theo biểu tượng có nghĩa cần chào đón đặc biệt. Đó là một câu nói phổ thông không hiểu theo nghĩa đen.
Khi chúng ta gặp các bản văn thuộc các văn hóa khác, có thể khó phân biệt nghĩa đen và biểu tượng vì chúng ta không quen với thói quen của họ, nhưng có thể làm được. Mọi người nhìn nhận rằng các ngôn sứ trong Kinh Thánh dùng các biểu tượng và Đức Giêsu dùng các dụ ngôn. Điều này cho thấy chúng ta có thể nhận biết các hình thức không phải nghĩa đen trong Kinh Thánh.
Thông thường các biểu tượng được nhận biết qua các mấu chốt trong bản văn. Thí dụ, việc tạo dựng mặt trời vào ngày thứ tư là mấu chốt cho thấy các ngày trong chương 1 Sáng Thế thì không theo nghĩa đen, vì sự hiện diện của mặt trời là điều làm ra ban ngày (xem câu trên). Không ai chứng kiến việc tạo dựng vũ trụ, và sách Sáng Thế được viết xuống khoảng năm 1,000 trước Tây Lịch, và thật lâu sau khi biến cố này xảy ra. Chương 1 Sáng Thế Ký đúng hơn là bản văn không theo nghĩa đen chứ không được viết xuống ngay sau một biến cố và có dùng nhân chứng.
Trong sự Phục Sinh của Đức Giêsu có nhân chứng. Sách Tân Ước được viết xuống trong vài thập niên sau sự Phục Sinh và được sáng tác bởi hoặc với sự tư vấn của các nhân chứng (x. Luca 1:2, Ga 21:24). Nó còn có những câu nhấn mạnh đến thực tại Phục Sinh (x. 1 Cor 15:1-20).
Chúng ta không sợ rằng việc nhận biết các phần của Kinh Thánh là biểu tượng sẽ nguy hại đến Đức Tin, không khác gì Đức Giêsu dùng các dụ ngôn.
Đức Giêsu không trưng bày một ác ý vô cớ. Người dạy một bài học.
“Khi thấy một cây vả đầy lá ở đằng xa, [Đức Giêsu] tiến đến để xem Người có thể tìm thấy cái gì trên cây không. Khi đến nơi, Người không tìm thấy gì ngoài các lá, vì đó không phải là mùa cây vả ra trái” (Mc 11:13).
Cây vả thường được biết là mọc trái trước khi mọc lá (Pline the Elger, Naturalis Historia 16:49). Khi nhìn thấy cây vả đầy lá, Đức Giêsu có lý do để nghĩ rằng cây này mọc trái sớm hơn thường lệ. Qua các lá ở bên ngoài, nó phải có trái ở bên trong, nhưng lại không có gì. Như thế Đức Giêsu dùng cây vả để dạy một bài học.
Trong những trường hợp khác, Đức Giêsu chỉ trích hàng ngũ lãnh đạo Do Thái vì trưng ra một tinh thần phô trương, sai lạc (Mt 23:5–7, 25–28). Người còn dùng trái của cây để tiêu biểu cho một kết quả tinh thần đích thực (Mt. 7:16–20, 12:33, 13:23, v.v.). Nhất là, Người tố cáo các thượng tế và người Biệt Phái vì không sinh được hoa quả tinh thần, khi nói: “Tôi nói cho các ngươi biết, nước Thiên Chúa sẽ được lấy đi khỏi các ngươi và ban cho một dân tộc biết làm cho nó sinh kết quả” (Mt 21:43).
Khi nguyền rủa cây vả và làm cho nó khô héo, Đức Giêsu biểu tượng hóa số phận của những người giả dối về tinh thần và sự phán xét sẽ đổ xuống trên hàng ngũ lãnh đạo Do Thái.
Điều này được xác nhận trong tường thuật của Máccô. Các học giả nhận xét rằng Máccô thường phối hợp các bản văn để hai phân nửa của một câu chuyện bị gián đoạn bởi một điều gì đó quan trọng mà nó làm cho câu chuyện được sáng tỏ hơn. Những chỗ mà Máccô đặt tài liệu theo kiểu này thì được gọi là “xen giữa kiểu Máccô”.
Việc nguyền rủa cây vả là một trường hợp như thế: Trước hết, Đức Giêsu nguyền rủa cây vả (Mc 11:12-14), sau đó Người quét sạch khỏi đền thờ những ai lạm dụng sự thánh thiêng của đền thờ (11:15-19), và rồi các môn đệ trở lại và thấy cây vả đã chết khô (11:20-21). Các người cầm quyền Do Thái, bất kể sự đạo đức bên ngoài, đã để cho đền thờ bị suy đồi, và sự kết án của Đức Giêsu ở đền thờ được đặt ngay trước việc nguyền rủa cây vả, điều đó cho thấy ý nghĩa mà hành động sau muốn dạy bảo. Nó còn tiên báo số phận của người cầm quyền Do Thái và chính đền thờ (Mc 12:1–12, 13:1–2).
Người xưa cũng biết rõ như chúng ta là thiên nhiên tuân theo các quy luật nhất định. Ý tưởng cho rằng ngày nay không còn phép lạ phản ánh một xu hướng chống đối phép lạ, chứ không phải khoa học.
Người xưa va chạm với thiên nhiên nhiều hơn chúng ta. Họ biết nó tuân theo các chu kỳ thường lệ và những điều xảy ra có thể tiên đoán được. Họ biết mặt trời mọc lên hàng ngày, họ có thể dùng sự vận chuyển của tinh tú ban đêm để tiên đoán mùa màng và khi nào thì gặt hái, và họ biết rõ là hòn đá thì rơi xuống chứ không bay lên, v.v.
Họ cũng biết rằng trinh nữ thì không sinh con, nước thì không biến thành rượu, bánh không thể tự nhiên hóa nhiều, và người chết thì không thể sống lại – đừng nói gì đến việc lên trời. Chính vì họ biết sự bình thường của thiên nhiên nên họ có thể nhận biết các biến cố sau này là phép lạ.
Sự khác biệt giữa hồi xưa và bây giờ là chúng ta hiểu biết hơn về tính cách bình thường của thiên nhiên. Chúng ta có những đo lường chính xác về nhiều điều, và những điều này cho phép chúng ta diễn tả chúng với các công thức toán học. Một số thật chắc chắn đến độ chúng ta gọi là các quy luật khoa học.
Nhưng các “quy luật” này chỉ là những diễn tả dựa trên sự quan sát cách hoạt động bình thường của thiên nhiên. Không có gì nói rằng vũ trụ luôn luôn hoạt động theo kiểu cách ấy. Khoa học dựa trên sự quan sát, và cách duy nhất để chúng ta có thể biết là vũ trụ luôn luôn hành xử theo cách nào đó là bởi quan sát toàn thể lịch sử của vũ trụ và nhận xét thiên nhiên làm gì vào thời từng thời điểm, nhưng chúng ta không thể làm điều đó. Hậu quả là, ý tưởng cho rằng thiên nhiên phải luôn luôn hành xử theo những cách mà nó thông thường hành xử thì vượt lên trên những gì khoa học có thể xác định. Đó là một giả thuyết theo triết học, chứ không phải một sự kiện khoa học. Cách tiếp cận cởi mở về vấn đề này là đừng đưa ra giả thuyết, nhưng hãy nhìn đến chứng cớ, nhìn nhận rằng thiên nhiên thường hoạt động theo những phương cách nào đó nhưng để ngỏ cho sự khả dĩ là các biến cố bất thường, các phép lạ vẫn có thể xảy ra.
Bất kể tình trạng của chúng ta trong đời sống hiện tại, là con người không có nghĩa là tội nhân.
Nếu khi là con người, điều đó gây ra tội thì Thiên Chúa đã dựng nên bản tính con người với tội, điều đó sẽ làm cho Người trở thành tác giả của sự dữ. Thay vào đó, bản tính con người bị hư hỏng vì sai lầm sử dụng tự do ý muốn – mà chính nó thì tốt, vì giúp cho người ta có thể chọn sự thiện.
Bởi vì bản tính con người không gây ra tội, điều khả dĩ là con người có thể không có tội. Như thế Adong và Evà không có tội trước khi sa ngã.
Có lúc trong tất cả đời sống chúng ta, bất kể bản tính sa ngã, không ai phạm tội riêng. T. Phaolô nhận xét rằng khi trong bụng mẹ, Giacóp và Esau “chưa sinh ra và chưa làm điều tốt hay xấu” (Rom 9:11).
Và sẽ có một thời gian trong tương lai, nếu chúng ta chết trong tình bằng hữu với Thiên Chúa, tất cả chúng ta sẽ vô tội, vì chúng ta sẽ không tiếp tục phạm tội trên thiên đường, bởi vì “không có gì không thanh sạch được vào nơi ấy” (Kh 21:27). Thật vậy, chúng ta sẽ có “sự thánh thiện, nếu không, không ai sẽ nhìn thấy Chúa” (Dt 12:14), vì “khi Người xuất hiện chúng ta sẽ giống như Người, vì chúng ta sẽ nhìn thấy Người đúng như vậy” (1 Ga 3:2). Tất cả những ai được cứu sẽ được ban cho món quà thánh thiện này, và vì vai trò đặc biệt của Đức Maria trong kế hoạch của Thiên Chúa cho mọi thế hệ, người được ban cho sự thánh thiện ngay từ sớm.
Đức Giêsu Kitô – Adong thứ hai (1 Cor 15:45) – thì vô tội (2 Cor. 5:21; Dt. 4:15; 1 Phêrô. 2:22; 1 Ga 3:5). Cùng phương cách ấy, Đức Maria – Evà thứ hai (GLCG 411, 494) – cũng được gìn giữ khỏi mọi tội. Món quà này được ban cho người vì những gì Đức Kitô đã thực hiện trên thập giá. Nó được áp dụng cho Đức Maria từ sớm để làm cho người thánh thiện trong một phương cách đặc biệt và như thế thích hợp với vai trò là mẹ của Con Thiên Chúa.
Kết quả là, sự thánh thiện của Đức Maria “ngay từ lúc thành thai thì hoàn toàn xuất phát từ Chúa Kitô: người được cứu chuộc, trong phương cách kỳ diệu, nhờ công nghiệp Con của người” (GLCG 492).
Như thế bản tính loài người không dẫn đến tội – mà có thể đem cho chúng ta niềm hy vọng là một ngày nào đó chúng ta được vô tội!
Mọi chân lý là chân lý của Thiên Chúa, và sự thật là chúng ta biết được những điều mới ở một lĩnh vực, không có nghĩa nó cao hơn lĩnh vực khác.
Điều này thì đúng trong chính các ngành khoa học. Điều biết được trong một lĩnh vực thì ảnh hưởng đến các lĩnh vực khác. Thí dụ, một khám phá trong vật lý có thể tác động đến thiên văn hay hóa học. Hoặc ngược lại. Như vậy, các lĩnh vực khoa học hiện diện trong một trạng thái tương tranh sáng tạo đối với nhau, và điều này đúng trong mọi lĩnh vực nghiên cứu, kể cả thần học. Nhưng điều này không có nghĩa một dạng nghiên cứu thì cao hơn dạng kia. Tất cả là những khám phá về các khía cạnh khác nhau của sự thật.
Khi chúng ta biết được điều gì mới trong một lĩnh vực, tự nhiên chúng ta đi tìm sự liên quan đến các lĩnh vực khác, kể cả tôn giáo. Nếu một khám phá khoa học được xác định rõ và dường như trái ngược với một quan điểm tôn giáo chung, tự nhiên chúng ta duyệt lại quan điểm đó để xem nó có được hiểu đúng hay không.
Như thế, khi các khám phá thiên văn nói rằng trái đất không ở tâm điểm của vũ trụ, hoặc các khám phá cổ sinh vật học và sinh học nói rằng trái đất đã có từ lâu hơn người ta thường nghĩ, và sự tiến hóa về sinh học đã xảy ra, tự nhiên người ta duyệt lại các bản văn Kinh Thánh để xem chúng có được hiểu đúng hay không.
Trong cả hai trường hợp, sự thật, việc đọc kỹ cho thấy chúng không mâu thuẫn với các quan điểm khoa học. Các đoạn nói về mặt trời mọc và lặn chỉ là sự diễn tả hiện tượng tự nhiên theo sự xuất hiện và không ám chỉ sự di chuyển của mặt trời xoay quanh trái đất, cũng như ngày nay chúng ta nói “mặt trời mọc” và “mặt trời lặn.” Tương tự, từ lâu trước khi khoa học hiện đại phát sinh, những người chú giải như T. Augustine đã vạch ra các đặc điểm của sách Sáng Thế rằng những ngày trong sách thì không hiểu theo nghĩa đen.
Tìm ra cách thích hợp để hài hòa Kinh Thánh và khoa học thì về nguyên tắc, nó cũng không khác việc tìm cách hài hòa những khám phá của vật lý với thiên văn. Các kết quả tìm kiếm của từng lĩnh vực thì được hiểu thích hợp trong sự hài hòa với các lĩnh vực khác.
Có nhiều cách khác để hiểu đoạn này.
Các tài liệu trong các Phúc Âm thì thường không theo niên đại. Các thánh sử có tự do để sắp xếp tài liệu theo tiêu chuẩn khác, tỉ như đề tài. Họ có thể đưa một lời về Tái Giáng Lâm vào nhóm các câu tiên đoán khác bởi vì tất cả đều bao gồm sự tiên báo. Nếu nguyên thủy, Đức Giêsu nói câu này trong một bối cảnh khác, thì sự ứng nghiệm không được chi phối bởi những câu về đền thờ.
Nhưng câu này có thể không ám chỉ đến Tái Giáng Lâm. Kinh Thánh diễn tả Thiên Chúa và Con Người “đến” trong nhiều cách khác nhau. Như vậy Thiên Chúa được diễn tả như cỡi trên đám mây khi Người đến xét xử một dân tộc (Tv. 104:3; Isa. 19:1–2; Giêr. 4:13–14). Có thể đây là loại “ngự đến” mà Đức Giêsu muốn nói – một phán xét của Thiên Chúa trên Giêrusalem vào năm 70.
Câu nói của Người còn phản ánh các câu Đanien 7:13-14 mà Con Người được đưa ra trước Thiên Chúa trên thiên đường để nhận lãnh vương quốc. Như vậy, lời tiên báo này có thể ám chỉ đến việc Đức Giêsu lên trời (Cv 1:9), ở đây Người lãnh nhận vương quốc (Cv 7:55-56) và nơi Người ngự trị (1 Cor 15:24-26). Cả hai giải thích đều có thể áp dụng. Có thể Đức Giêsu gợi ra hình ảnh của Đanien 7 để cho biết Người sẽ ngự trị với Thiên Chúa trên thiên đường và điều này sẽ được thấy trong sự phán xét Giêrusalem với việc phá hủy đền thờ.
Các thần học gia còn khai triển ý tưởng “adventus medius” (“biến cố ở giữa”) của Đức Giêsu giữa hai sự ngự đến, lần thứ nhất và thứ hai. Đây là sự “ngự đến” về tinh thần của Đức Kitô, trong đó Người rao giảng cho thế gian để chuẩn bị cho lần ngự đến dứt khoát, sau cùng. Nếu đây là điều Đức Giêsu muốn nói, có lẽ Người nghĩ đến việc rao giảng mà nó giúp cho nhiều người nhận biết Đức Giêsu là Con Người cũng như quyền bính của vương quốc Người (x. Mt 24:31, Mc 13:27).
Kinh Thánh không nhấn mạnh đến các chi tiết tạo dựng, khi linh ứng các tác giả Kinh Thánh, Thần Khí Thiên Chúa “không muốn dạy bảo loài người về sự kiện này mà chúng vô ích cho sự cứu độ” (T. Augustine, “The Literal Meaning of Genesis” 2:9:20).
Tương tự, Hồng Y Caesar Baronius được ghi nhận với câu, “Ý định của Chúa Thánh Thần là dạy bảo chúng ta cách lên thiên đường, chứ không phải thiên đường như thế nào” (trích trong Gelileo Galilei, “Letter to the Grand Duchess Christina”)
Theo Đức Gioan Phaolô II:
Kinh Thánh không lưu tâm đến các chi tiết của thế giới vật chất, sự hiểu biết này thuộc khả năng cảm nghiệm và lý lẽ con người. Có hai lĩnh vực kiến thức, một có nguồn gốc trong sự mặc khải và một có thể dùng lý lẽ để khám phá. Lĩnh vực sau, đặc biệt, thuộc về cảm nghiệm khoa học và triết lý. Sự phân biệt giữa hai lĩnh vực kiến thức này thì không nên hiểu là trái ngược. Hai lĩnh vực này không hoàn toàn xa lạ với nhau, chúng có các điểm tiếp giáp. Các phương pháp thích hợp với từng lĩnh vực có thể bộc lộ các khía cạnh thực tế khác biệt (Diễn văn trước “Pontifical Academy of Sciences”, 31 tháng Mười, 1992).
Nhà sinh học tiến hóa Stephen Jay Gould cũng đưa ra cùng một điểm, ông lý luận rằng khoa học và tôn giáo, mỗi thứ đều có thẩm quyền dạy bảo (magisteria) đối với lĩnh vực nghiên cứu của mình, nhưng phần lớn không chồng chéo, ông nói:
Giải pháp này có thể vẫn giữ được sự gọn gàng và sạch sẽ nếu các “magisteria” của khoa học và tôn giáo không chồng chéo lên nhau, được tách biệt bởi một vùng đất trống mênh mông. Nhưng, sự thật, hai “magisteria” này va chạm với nhau, giao tiếp trong các phương cách phức tạp dọc theo ranh giới của chúng. Nhiều câu hỏi thâm trầm của chúng ta dựa vào các khía cạnh của cả hai phần khác biệt để có một câu trả lời đầy đủ - và sự phân loại các lãnh vực có thể rất phức tạp và khó khăn (“Nonoverlapping Magisteria”)
Chứng cớ cho thấy Mátthêu, Máccô, Luca, và Gioan đã viết các Phúc Âm.
Nói cho cùng, điều quan trọng thì không phải ai viết Phúc Âm nhưng các sách ấy có xác thực không.
Tính cách vô danh không cản trở sự xác thực, và có nhiều công trình vô danh mà các học giả dựa vào để biết về thế giới cổ xưa. Thí dụ, các học giả sử dụng cuốn Itinerarium Burdigalense, một tường thuận quan trọng về du lịch từ năm 333-334, được viết bởi một người vô danh chỉ được gọi là “Người Hành Hương ở Bordeaux”.
Tên các tác giả Phúc Âm có thể không được liệt kê trong văn bản, nhưng các Phúc Âm thì không ẩn danh trong ý nghĩa là các tác giả không ẩn danh đối với thành phần khán giả nguyên thủy. Luca viết cho ông chủ Theophilus (Lc 1:3, Cv 1:1), và Theophilus biết Luca là ai. Gioan rõ ràng nhận diện tác giả của sách là người môn đệ yêu dấu (Ga 21:20-24), mà tên này được biết đối với thành phần khán giả được nhắm đến. Tương tự, các tác giả Mátthêu và Máccô được biết đối với khán giả nguyên thủy.
Các tên được gán cho các Phúc Âm thì không xuất phát từ thế kỷ thứ hai. Các tên này được dùng trong thế kỷ thứ nhất. Nếu các Phúc Âm được luân lưu mà không có tên trong một thời gian dài, chúng sẽ được gọi với các tên khác, giống như nhiều tựa đề cho các công trình thời xưa. Tuy nhiên, không phải thế. Trong các tài liệu cổ chúng thường được đề cập đến là các Phúc Âm của Mátthêu, Máccô, Luca và Gioan.
Khi các Phúc Âm được đọc trong nhà thờ, giáo đoàn cần được biết đang đọc sách gì, và cần có cách để phân biệt các sách ấy với nhau, vì nội dung có nhiều phần giống nhau, mỗi phần đều nói về cuộc đời Đức Giêsu. Các giáo hội đề cập đến sách qua tên tác giả. Nhu cầu phân biệt này xuất hiện ngay khi có nhiều hơn một Phúc Âm, và vì thế các tên được sử dụng ngay lập tức, không đợi đến sau này. Đây là một dấu chỉ cho thấy các tên này thì chính xác.