Lý luận này hiểu sai về thời gian mà T. Phaolô nói đến.
Thánh nhân nói những điều này sẽ qua đi “khi cái hoàn hảo đến”. Để cho rằng điều đó xảy ra trong thế kỷ thứ nhất, bạn phải biết “cái hoàn hảo” là gì. Có những đề nghị là cái chết của vị tông đồ sau cùng và việc hoàn tất cuốn sau cùng của bộ Kinh Thánh.
T. Phaolô nói về “sự hiểu biết của chúng ta” thì không hoàn hảo, nhưng người không nghĩ nó sẽ hoàn hảo vào lúc kết thúc thời các tông đồ hay sáng tác cuốn sau cùng của Kinh Thánh – người cũng không nhắc đến cuốn nào.
Thánh nhân viết: “Khi tôi còn là trẻ con, tôi nói năng như trẻ con, hiểu biết như trẻ con, suy nghĩ như trẻ con; nhưng khi tôi đã thành người lớn, tôi bỏ tất cả những gì là trẻ con” (1 Cor 13:11). Người diễn tả sự hiểu biết hiện thời của chúng ta như “con trẻ” so với những gì chúng ta sẽ biết về Thiên Chúa. Nhưng Đức Tin đã được “truyền lại cho các thánh một lần là đủ” (Giuđa 3) trong thời của T. Phaolô, và sự hiểu biết của người thì không như con trẻ so với những gì được biết vào năm 100, vào thời gian mà quy điển Kinh Thánh đã hoàn tất.
Thánh nhân cũng viết: “Bây giờ chúng ta thấy lờ mờ như trong một tấm gương, mai sau sẽ được mặt giáp mặt. Bây giờ tôi biết chỉ có ngần có hạn, mai sau tôi sẽ được biết hết” (1 Cor. 13:12). T. Phaolô đã không hiểu Đức Tin “lờ mờ” so với sự hiểu biết đức tin chỉ vài thập niên sau.
Sau cùng, Thiên Chúa biết thánh nhân đầy đủ, và như thế chính Thiên Chúa là đấng được Thánh Phaolô ám chỉ là được “mặt giáp mặt”. Vì vậy thánh nhân mong đợi sự hiểu biết hoàn hảo xảy đến vào lần Tái Giáng Lâm khi chúng ta sẽ nhìn thấy Thiên Chúa (1 Ga 3:2). Đó là khi những món quà này sẽ qua đi.
Thập giá thì quan trọng nhờ Khổ Hình Thập Giá.
Lời bác bẻ trên có liên quan đến các dấu hiệu căn tính của một nhóm hơn là suy tư thần học nghiêm chỉnh. Mỗi nhóm có những thực hành mà nó trở thành dấu hiệu căn tính khác với các nhóm khác (tỉ như, cắt bì và bánh không men của Do Thái Giáo).
Vào thời Cải Cách, ở Tây Âu, người Tin Lành bắt đầu phân biệt họ với người Công Giáo bởi thực hành nào đó. Một là tránh dùng hình ảnh ba chiều của Đức Giêsu, dù hình hai chiều (tranh vẽ) được giữ lại. Sự ác cảm với hình ảnh ba chiều của Đức Kitô dẫn đến việc sử dụng thập giá trơ trụi, không có tượng Đức Kitô.
Không có gì sai trái với thập giá trơ trụi. Chúng được sử dụng từ lâu trước thời Cải Cách, và vẫn còn được sử dụng trong vòng Công Giáo. Lý do thì không có tính thần học hay lý tưởng nhưng thực tế (tỉ như, một thập giá có thể quá nhỏ so với tượng Đức Kitô) hoặc nghệ thuật (tỉ như, để như thế có thể trang hoàng đặc biệt).
Cũng không có gì sai trái với tượng chịu nạn, nó diễn tả Đức Giêsu bị treo trên thập giá. Nó là những nhắc nhở sống động về điều Chúa Giêsu đã làm cho chúng ta.
Thập giá tự nó không quan trọng, nhưng vì Đức Giêsu đã chết trên đó. Vì thế, người Tin Lành cũng có những bức tranh vẽ Đức Giêsu trên thập giá. Điều này cho thấy việc chống đối tượng chịu nạn thì không dựa trên sự ác cảm vì miêu tả Đức Giêsu trên thập giá. Một diễn tả ba chiều thì không khác với một diễn tả hai chiều, mà nó gợi ý rằng người Tin Lành thích thập giá trơ trụi hơn tượng chịu nạn là vấn đề văn hóa hơn là nguyên tắc thần học.
Rất đúng là Đức Giêsu không ở trên thập giá ngày nay, nhưng điều đó không liên quan. Ngày nay, thập giá mà Đức Giêsu bị treo trên đó không còn hiện hữu như một đồ vật, và vấn đề là nếu Đức Giêsu không ở trên đó thì nó có chỗ đứng nào không. Thông thường gióng ngang là một khúc gỗ tách biệt, được nâng lên để cột vào trụ dọc trong Khổ Hình Thập Giá và sau đó được lấy xuống khi nạn nhân đã chết.
Mọi thập giá Kitô Giáo – dù trơ trọi hay không – nhắc chúng ta nhớ đến Khổ Hình Thập Giá. Nó chỉ là vấn đề bạn có cảm động khi nhớ đến điều ấy hay không.
Nhiều chữ không được tìm thấy trong Kinh Thánh, nhưng chúng có nền tảng Kinh Thánh. Tước vị “Nữ Vương Thiên Đường” của Đức Maria là một chữ như thế.
Chỉ vì một chữ không được tìm thấy trong Kinh Thánh, điều đó không có nghĩa “trái Kinh Thánh”. Nó có thể có nền tảng Kinh Thánh vững chắc. Thí dụ, chữ “Ba Ngôi,” “tội nguyên thủy,” và ngay cả “Kinh Thánh” thì không được tìm thấy trong Kinh Thánh, nhưng mỗi chữ diển tả một thực thể trong Kinh Thánh.
Vai trò hoàng hậu (nữ vương) của Đức Maria được dựa trên vai trò của người Con là vua.
Đức Giêsu vừa là người kế vị Đavít là vua Ít-ra-en (Luca 1:32; Ga 1:49) và vừa là vua vũ trụ, tinh thần, mà “vương quốc không ở trần gian này” (Ga 18:36), đấng ngự trên thiên đường với Chúa Cha “ở trên ngai” (Kh 3:21), và vì thế Người là “vua của các vua” (Kh 17:14, 19:16).
Khi nhìn đến vương quyền của Đức Giêsu, Kitô Hữu tự nhiên suy nghĩ đến tình trạng của mẹ Người. Nếu Đức Giêsu là vua, một cách tự nhiên để nhìn về Đức Maria với những giới hạn trong vua chúa.
Trường hợp này lại đặc biệt hơn nữa theo ý niệm nữ vương của thời cổ Ít-ra-en. Vào lúc đó, một ông vua có thể có nhiều vợ, nhưng chỉ có một bà mẹ, và uy quyền bởi đó mà ra.
Trong nhà Đavít, mẹ của vua được gọi là gebirah (tiếng Hebrew là “bà” hay “bà chúa”). Đôi khi chữ này được dịch là “hoàng hậu” hay “mẫu hậu”. Bà gebirah có một chức vụ riêng biệt để cho phép bà hành sử quyền bình lớn hơn cả các người vợ của vua.
Nếu Đức Giêsu là vị vua mới của nhà Đavít, một cách tự nhiên phải coi Đức Maria là gebirah mới của nhà Đavít.
Vì bây giờ Đức Giêsu thi hành vương quyền của Người trên thiên đường, và Đức Maria cũng ở trên thiên đường, thật tự nhiên để áp dụng chữ “Nữ Vương Thiên Đường” cho người.
Biết về một biến cố không có nghĩa tạo ra biến cố ấy. Thiên Chúa có thể biết mọi sự mà người ta sẽ thi hành mà không lấy đi tự do ý chí của họ.
Thật đúng là Thiên Chúa ở ngoài thời gian và biết những chọn lựa của chúng ta trong quá khứ cũng như tương lai, nhưng nó không có nghĩa Người định trước những điều ấy.
Hãy suy nghĩ: Bạn biết nhiều về biến cố trong quá khứ - về cá nhân của bạn, gia đình bạn, và lịch sử thế giới. Nhưng sự hiểu biết của bạn không buộc bất cứ điều nào phải xảy ra. Chúng đã xảy ra, vì bất cứ lý do gì, và bạn chỉ biết về chúng.
Một số xảy ra là vì sự chọn lựa của người khác. Thí dụ, cha bạn muốn chấm dứt một nghề nghiệp. Sự hiểu biết của bạn về nghề của ông thì không thể đi ngược thời gian và buộc ông phải chọn như thế. Nó không lấy đi sự tự do ý chí của ông.
Bạn có thể phản đối rằng chúng ta chỉ nói về quá khứ, nhưng điều này cũng áp dụng cho hiện tại và tương lai. Giả sự bạn biết một nơi mà ngay bây giờ ai đó đang ca hát. Sự hiểu biết của bạn không buộc người này phải ca hát. Hay giả sử bạn đang đứng trên đỉnh tòa nhà cao, và bạn thấy hai xe hơi sắp sửa đụng nhau ở trên đường bên dưới. Sự hiểu biết của bạn về điều sẽ xảy ra thì không tạo ra tai nạn ấy. Những lựa chọn của các người lái xe là điều đưa đến tai nạn.
Dù chúng ta nói về quá khứ, hiện tại, hay tương lai, sự hiểu biết về một biến cố không có ảnh hưởng đến việc nó xảy ra hoặc làm mất đi tự do ý chí của những ai có liên quan.
Sự hiểu biết của Thiên Chúa về các biến cố cũng vậy. Thiên Chúa ngự nơi vĩnh cửu, bên ngoài thời gian. Đối với Người, mọi thời gian đều như nhau, và Người biết những gì con người chọn thi hành vào những thời gian ấy, nhưng sự hiểu biết của Người về những gì họ chọn thì không làm sự lựa chọn của họ mất tự do, cũng không khác gì sự hiểu biết của chúng ta về những gì họ chọn.
Bí tích thêm sức được ghi nhận trong Kinh Thánh. Việc đặt tay thì được sử dụng trong vài nghi thức Kitô Giáo, kể cả việc chữa lành (Mc 6:5; Công Vụ 28:8) và tấn phong chức thánh (Công Vụ 6:1-6, 13:2-3). Nó còn được dùng trong bí tích tháp nhập Kitô Giáo.
Thư gửi tín hữu Do Thái kể ra việc đặt tay trong “giáo lý cơ bản của Đức Kitô” – những điều căn bản mà một người trở lại đạo cần được dậy bảo – cùng với sự sám hối, đức tin, rửa tội, sự sống lại của kẻ chết, và sự phán xét đời đời (Dt 6:1-2).
Chúng ta thấy nghi thức này được sử dụng trong sự tháp nhập Kitô Giáo trong Công Vụ 8, ở đây ông Philíp (x. Cv 6:5, 21:8-9) đã hoán cải một số người Samari. Tuy ông rửa tội cho họ (Cv 8:12), ông không có khả năng để đặt tay trên họ. Vì thế hai tông đồ – Phêrô và Gioan – đến từ Giêrusalem và đã cầu nguyện “để họ có thể nhận lãnh Chúa Thánh Thần; vì ơn ấy chưa đổ xuống trên họ, nhưng họ chỉ được rửa tội trong danh Chúa Giêsu. Sau đó các tông đồ đặt tay trên họ và họ nhận được Chúa Thánh Thần” (8:15-17).
Trong Công Vụ 19 cũng vậy, ông Phaolô ban bí tích rửa tội cho một nhóm và sau đó ông đặt tay trên họ, kết quả là Chúa Thánh Thần ngự xuống trên họ (19:5-6).
Chúa Thánh Thần có liên quan và được nhận trong bí tích rửa tội (Mt 3:11; Mc 1:8; Lc 3:16; Ga 1:33; Cv 2:38; 1 Cor. 12:13), nhưng các đoạn trên cho thấy còn có việc đặt tay để được mạnh sức hơn nữa với Chúa Thánh Thần là một phần trong sự tháp nhập.
Các đoạn trên còn cho thấy việc đặt tay này thì khác với bí tích rửa tội và không phải mọi thừa tác viên đều có thể thi hành. Ông Philíp rửa tội nhưng không đặt tay, trong khi thừa tác viên cấp bậc cao hơn, tỉ như ông Phêrô, Gioan, và Phaolô, vừa rửa tội và vừa đặt tay.
“Để biểu thị rõ hồng ân Thánh Thần, ngoài việc đặt tay, Hội Thánh đã sớm thêm nghi thức Xức Dầu với dầu thơm (chrism)” (GLCG 1289). Ngày nay nghi thức này được gọi là thêm sức ở Tây Phương và ở Đông Phương là “chrismation”.
Cho đến bây giờ, không phải mọi thừa tác viên đều có thể cử hành bí tích thêm sức. Các giám mục – người kế vị các tông đồ – thì có thể, cũng như các linh mục với một vài điều kiện nào đó, nhưng không phải mọi thừa tác viên.
Ý niệm về sự mặc khải thì không phi lý. Sự thật, đó là điều chúng ta sử dụng thường xuyên. Điều gì đó được tiết lộ nếu nó hé mở cho chúng ta biết bởi một người khác thay vì được cá nhân kiểm chứng. Đôi khi điều này còn được đề cập đến là chấp nhận một thỉnh cầu “dựa trên thẩm quyền.”
C.S Lewis viết:
Tin vào những điều dựa trên thẩm quyền chỉ có nghĩa là tin điều gì đó vì bạn được cho biết bởi người đáng tin cậy theo bạn nghĩ. Chín mươi chín phần trăm những gì bạn tin là “dựa trên thẩm quyền”. Tôi tin có nơi nào đó gọi là Nữu Ước. Chính tôi chưa nhìn thấy. Tôi không thể minh chứng bằng lý giải trừu tượng rằng phải có một nơi như thế. Tôi tin điều đó vì người đáng tin đã nói với tôi như vậy. Một người bình thường tin vào thái dương hệ, nguyên tử, sự tiến hóa, và máu lưu chuyển là dựa vào thẩm quyền – vì các khoa học gia nói như vậy.
Mọi biến cố lịch sử trên thế giới được tin dựa vào thẩm quyền. Không ai trong chúng ta nhìn thấy cuộc chinh phục của Kha Luân Bố hay trận đánh Bạch Đằng Giang. Không ai trong chúng ta có thể minh chứng các sự kiện ấy thuần túy bằng lý luận như minh chứng toán học. Chúng ta tin các điều ấy chỉ vì những người chứng kiến đã để lại các chứng từ cho chúng ta biết về các điều ấy: thật vậy, dựa vào thẩm quyền. Một người không thích thẩm quyền trong những điều khác như một số người đối với tôn giáo thì họ phải bằng lòng chấp nhận là cả đời họ không biết gì” (Mere Christianity, chương 2).
Như thế ý niệm mặc khải thì hợp lý. Vấn đề là nó hoạt động thế nào trong khung cảnh tôn giáo.
Theo quan điểm Kitô-Do Thái Giáo, Thiên Chúa tiết lộ cho các ngôn sứ, và cho phép họ thông tin những điều đó cho người khác. Khi hành động như thế, ngôn sứ chịu sự thắc mắc là làm thế nào người ta biết đó là một ngôn sứ đáng tin cậy, và trong Kinh Thánh có những thử thách để phân biệt ngôn sứ thật. Các thách đố này gồm cả vấn đề, có thể nào ngôn sứ ấy làm ra một phép lạ để minh chứng cho điều ông tự nhận rằng ông đã được tiếp xúc với siêu nhiên hay không (Tl 18:21-22) và thông điệp của ông có phù hợp với sự mặc khải trước đây của Thiên Chúa hay không (Tl 13:1–4; 1 Cor. 12:3).
Từ quan điểm của Kitô Giáo, sự Phục Sinh của Chúa Giêsu là một phép lạ chính yếu minh chứng cho thông điệp của Người (Cv 17:31).
Nhiệm vụ truyền giáo không được dựa trên ý tưởng rằng, không thể nào được cứu chuộc nếu không công khai đón nhận đức tin Kitô Giáo.
Chúng ta có bổn phận truyền giáo vì Chúa Giêsu nói với chúng ta: “Hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, hãy rửa tội họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, hãy dạy bảo họ tuân giữ tất cả những gì Thầy đã truyền cho các con” (Mt 28:19-20), và, “Hãy đi vào thế giới và rao giảng tin mừng cho toàn thể tạo vật” (Mc 16:15).
Thiên Chúa muốn chúng ta truyền giáo, và bất kể lý do gì cho việc này, một cảm nhận về bổn phận và sự biết ơn phải thúc giục chúng ta rao giảng tin mừng. Thiên Chúa ban cho chúng ta sự sáng suốt để hiểu tại sao Chúa muốn chúng ta truyền giáo, và không phải tất cả những điều này có liên quan đến sự sống đời sau. Biết được sự thật về Thiên Chúa thì tốt, và rao giảng chân lý về Tạo Hóa cho tạo vật là một hoạt động đáng giá bất kể những gì xảy đến ở đời sau. Hơn nữa, đức tin Kitô Giáo không chỉ lưu tâm đến đời sau mà thôi. Là một Kitô Hữu thì cũng đem lại ơn lành cho đời này, và thật đáng giá khi chia sẻ tin mừng ấy cho người khác.
Dĩ nhiên, phản ứng của một người đối với tin mừng thì ảnh hưởng đến sự cứu độ, và đây là một động lực mạnh mẽ để truyền giáo, nhưng nó không phải duy nhất.
Ngoài ra, không cần phải có động lực dựa trên sự cứu độ để truyền giáo. Nếu trở nên một Kitô Hữu giúp cho sự cứu độ được dễ dàng hơn hoặc nhiều khả năng hơn, đó là lý do để chia sẻ tin mừng với họ.
Có những nguy hiểm về tinh thần trong thế giới này: “Bị ma quỷ gạt gẫm, con người thường phán đoán sai lạc, và đánh đổi chân lý của Thiên Chúa lấy sự giả dối, và phục vụ loài thụ tạo hơn là Đấng Sáng Tạo. Hoặc đàng khác, sống và chết trong đời này mà không có Thiên Chúa, họ rơi vào sự thất vọng tột độ” (GLCG 844).
Nếu một người hiểu biết chân lý rõ ràng hơn và dễ có cơ hội gần với ơn sủng mà đức tin Kitô Giáo cung ứng, họ sẽ được chuẩn bị tốt hơn để vượt qua những nguy hiểm đó và được cứu độ.
Sự vô hiệu thì không giống như ly dị, và sự dạy bảo của Giáo Hội về sự vô hiệu có nguồn gốc trong sự giảng dạy của Chúa Giêsu.
Sự ly dị phá vỡ sự ràng buộc hôn nhân đã thực sự hiện hữu, trong khi sự vô hiệu là thấy rằng ngay từ đầu đã không có một hôn nhân thực sự.
Đây là lý do khi một tòa dân sự được yêu cầu ban cho sự ly dị, các người phối ngẫu không cần phải chứng minh gì về thời gian họ kết hôn. Một người chỉ cần trưng ra rằng, sau khi kết hôn, người kia đã làm điều gì đó mà nó là nguyên do cho sự ly dị (tỉ như, ngoại tình, hành hạ, bỏ rơi) – hoặc, trong thời đại ly dị không-cần-lỗi, chỉ cần nói rằng họ không còn muốn kết hôn với nhau nữa.
Ngược lại, khi một tòa án Giáo Hội được yêu cầu đưa ra một tuyên bố vô hiệu, họ phải điều tra các hoàn cảnh được áp dụng vào lúc đám cưới, để xem có yếu tố nào mà nó đã ngăn cản sự hiện hữu của một hôn nhân có giá trị.
Không phải mọi hôn nhân đều có giá trị, sự kiện này thì rõ ràng trong sự giảng dậy của Chúa Giêsu, Người nói: “Ai ly dị vợ mình và kết hôn với người khác thì phạm tội ngoại tình với vợ; và nếu ai ly dị chồng mình và kết hôn với người khác, họ phạm tội ngoại tình” (Mc 10:11-12; x. Luca 16:18). Trong những trường hợp này, Chúa Giêsu cho biết hôn nhân thứ hai thì không có giá trị. Khi các phần tử giao hợp với nhau, họ phạm tội ngoại tình đối với người phối ngẫu trước mà họ vẫn thực sự kết hôn. Như thế một số hôn nhân (như hôn nhân đầu) thì có giá trị, trong khi các hôn nhân khác (như hôn nhân thứ hai) thì không; chúng vô hiệu, và vì thế trong những trường hợp này Giáo Hội có thể đưa ra một phán quyết vô hiệu.
Có nhiều yếu tố làm cho một hôn nhân trở nên vô hiệu ngay từ đầu. Một trong những lý do là đã kết hôn. Tuy nhiên, mục đích của sự vô hiệu thì không phải để hủy bỏ một hôn nhân đã có nhưng để cho thấy rằng – bất kể những bề ngoài – nó đã không thực sự hiện hữu.
Vì chúng ta không nghĩ như vậy.
Dựa trên các biến cố tỉ như nuôi năm ngàn người và bốn ngàn người ăn (Mt 14:13–21, 15:32–38), chúng ta có thể ước lượng số người được chứng kiến hoạt động của Chúa Giêsu là mười ngàn người. Tuy nhiên, phần đông không phải là những người thường đồng hành và họ chỉ gặp Người trong một hai trường hợp. Như thế, họ không chắc để lại một chứng từ.
Hơn nữa, phần đông thuộc về giai cấp nông dân và mù chữ như phần lớn những người ở Palestine vào thế kỷ thứ nhất. Thế giới Địa Trung Hải xưa có văn hóa truyền miệng là chính, và hầu hết không biết viết, nhất là ở những vùng nông thôn như Galilê. Hậu quả là các thông tin về những nhân vật nổi tiếng như Đức Kitô thì được kể lại qua sự truyền khẩu.
Những ai rất muốn truyền lại những điều về một bậc thầy – dù hình thức truyền khẩu hay chữ viết – là các môn đệ của Người, trong trường hợp này họ phải là Kitô Hữu. Những người ngoài-Kitô-Giáo thì ít quan tâm đến việc truyền lại những gì về Chúa Giêsu, đừng nói đến việc viết xuống.
Số người chứng kiến Đức Giêsu, ngoài-Kitô-Hữu, có thể biết viết, và được thúc giục viết về Người thì có lẽ rất ít. Có thể bao gồm một vài người, tỉ như quan tổng trấn Philatô, thượng tế Caipha, và một số trong nhóm ấy. Có lẽ một số người này đã viết về Đức Giêsu. Nhất là Philatô, có lẽ ông đã ghi chép việc hành quyết Đức Giêsu vào hồ sơ của chính quyền. Tuy nhiên, chúng ta không có hồ sơ nào từ những người này – về bất cứ gì. Tất cả những hồ sơ chính từ nguồn La Mã thì đều bị mất, cũng như những gì được giữ bởi giới thẩm quyền Do Thái (bị mất khi người La Mã đốt đền thờ Giêrusalem năm 70).
Chúng ta biết về một số người trong giai đoạn này (nhân vật Do Thái nổi tiếng tỉ như Hôni “Người Làm Vòng Tròn”, Giuđa người Galilê, Theudas, và cuộc cách mạng được biết là “người Ai Cập”) không phải vì chúng ta có các tường thuật nhân chứng, chúng rất hiếm, nhưng vì họ được nhắc đến bởi các sử gia thời xưa và các văn gia khác. Những nguồn nói về những người ấy thì cũng nói về Đức Giêsu. Thật vậy, chứng cớ của chúng ta về Đức Giêsu thì tốt hơn, trong trường hợp của Người chúng ta có cả tuyên bố của các nhân chứng, tỉ như các Kitô Hữu môn đệ là Mátthêu và Gioan.
Đây là một sáo ngữ và không đúng khi được kiểm tra.
Trước hết, bao nhiêu lề luật là “quá nhiều”? Người ta không bao giờ đưa ra một con số để biết nhiều thế nào thì thích hợp. Họ chỉ lập lại những điều mà người ta muốn chỉ trích Giáo Hội.
Thứ hai, các luật lệ của Giáo Hội thì rất ít so với những nhóm có cùng số thành viên.
Giáo Hội có một tỉ thành viên, phần đông thuộc về lễ điển La Tinh. Lề luật chi phối lễ điển Latinh là bộ Giáo Luật, nó là một quyển dày hơn 500 trang một chút theo ấn bản Anh ngữ.
Để so sánh, nước Hoa Kỳ có khoảng 300 triệu công dân, nhưng bộ luật liên bang để quản trị là ba mươi bốn quyển theo ấn bản 2012, tổng cộng hơn 45,000 trang!
Thứ ba, hầu hết luật của Giáo Hội Công Giáo hiện có để đối phó với những hoàn cảnh mà một phần tử bình thường ít khi gặp. Những hoàn cảnh như thế có xảy ra, nhưng rất bất thường mà một người Công Giáo không được mong phải biết các chi tiết của luật ấy. Chúng có thể được tóm lược khi những hoàn cảnh ấy xảy đến (như là, cần có những gì khi lãnh nhận bí tích thêm sức, là cảm nghiệm một lần trong đời).
Một người Công Giáo bình thường được mong phải biết một vài luật lệ, tỉ như Mười Điều Răn và năm giáo huấn của Giáo Hội (GLCG 2041-43). Họ còn phải biết cách chuẩn bị cho các bí tích họ lãnh nhận thường xuyên (chính yếu là xưng tội và Thánh Thể). Các điều này không bao gồm mọi thứ mà một người Công Giáo cần phải biết, nhưng nó cho thấy sự khiêm tốn tương đối của luật lệ được áp dụng cho một phần tử bình thường.
Thứ tư, người Công Giáo phải biết các quy tắc luân lý căn bản, và mọi người khác cũng vậy. Mọi người phải sống luân lý.
Điều này dẫn đến lý do chính khiến người ta kết án là “quá nhiều luật”. Nó không phải là về số luật. Thật vậy, nó là về các quy tắc luân lý đặc biệt. Hầu như không thay đổi, người kết án thì không thích một hay nhiều quy luật về bản chất luân lý – thường đối phó với sở thích cá nhân (tỉ như, không được quan hệ tình dục ngoài hôn nhân, không được lạm dụng rượu hay ma túy).
Nhưng đây là những quy tắc luân lý căn bản thuộc về bản tính con người. Giáo Hội Công Giáo chỉ nêu rõ, và sự cáo buộc “quá nhiều luật” là loại hỏa mù để khỏa lấp những cám dỗ của con người.