Chúng không mâu thuẫn. Chúng đồng ý về các sự kiện chính yếu, và khác biệt ở chi tiết vì những lựa chọn văn chương mà các tác giả thời xưa thường làm.
Tất cả bốn Phúc Âm đều đồng ý rằng các phụ nữ đến mộ của Đức Giêsu sau ngày Sabát, khoảng bình minh ngày thứ nhất trong tuần (Matt. 28:1; Mark 16:1–2; Luke 24:1; John 20:1). Tảng đá bị lăn sang một bên, không còn thi hài, và họ gặp một thiên thần (Matt. 28:2–7; Mark 16:4–7; Luke 24:2–7, 10; John 20:1, 11–13).
Các thánh sử nhắc đến các chi tiết khác nhau. Tất cả bốn Phúc Âm cho biết bà Maria Mađalêna có trong nhóm phụ nữ này, nhưng Mátthêu, Máccô, và Luca còn nhắc đến các bà bạn. Ai là người được nhắc đến thì dường như được quyết định bởi ai là người thánh sử biết có mặt ở đó, ai là người mà thánh sử nghĩ rằng độc giả của mình sẽ nhận ra, và ai là người được nhấn mạnh.
Mátthêu và Máccô nhắc đến một thiên thần, trong khi Luca và Gioan cho biết có hai. Sự thiếu vắng một thiên thần trong hai phúc âm Mátthêu và Máccô chỉ là sự thiếu vắng, không phải sự mâu thuẫn. Máccô nhắc đến “một thanh niên… trong áo chùng trắng,” và để cho độc giả suy luận đó là một thiên thần. Các thánh sử khác nói rõ hơn, và còn nhận xét về y phục của người này, được diễn tả là “trắng như tuyết” (Mátthêu), “chói sáng” (Luca), và chỉ có “mầu trắng” (Gioan).
Các thánh sử ghi lại các phần khác nhau trong thông điệp của thiên thần. Mátthêu và Máccô nhắc đến rằng Đức Giêsu sẽ xuất hiện với các môn đệ ở Galilê, trong khi Luca và Gioan lại bỏ qua điều này.
Mátthêu nhắc đến các lính canh ở ngôi mộ, mà trước đây ông đã nhắc đến trong Mt 27:62-66. Ông cũng ghi nhận là một thiên thần lăn tảng đá. Điều này lại được hiểu ngầm trong ba thánh sử khác. Cách Mátthêu ghi nhận hành động của thiên thần này có thể được coi là một hồi tưởng (nghĩa là, điều xảy ra trước khi các bà đến nơi). Các thánh sử không bị buộc phải ghi nhận các biến cố theo thứ tự thời gian.
Gioan nhắc đến rằng giữa thời gian các bà đến viếng mộ lần đầu tiên và sự gặp gỡ với thiên thần, ông Phêrô và Gioan đến viếng mộ. Việc ông Phêrô đến viếng mộ cũng được xác nhận trong Luca 24:12.
Những thay đổi như thế là những lựa chọn mà một tác giả thời xưa thường làm. Không dính dáng gì đến sự mâu thuẫn.
Thờ tà thần gồm việc thờ lạy một bức tượng như là chúa. Đó không phải là điều người Công Giáo thi hành với các bức tượng.
Tượng các thánh không tượng trưng cho các chúa. Chúng tượng trưng cho con người hoặc các thiên thần được kết hợp với Thiên Chúa ở thiên đường.
Ngay cả những người Công Giáo ít học cũng ý thức rằng tượng các thánh thì không phải là chúa, và ngay cả các thánh cũng không phải là chúa. Nếu bạn chỉ vào tượng Đức Trinh Nữ Maria và hỏi, “Đây có phải là nữ chúa không?” hoặc “Trinh Nữ Maria có phải là nữ chúa không?” bạn sẽ nhận được câu trả lời là “không” trong cả hai trường hợp. Nếu điều này đúng với Đức Trinh Nữ Maria thì cũng đúng với bất cứ thánh nào khác.
Điều này cũng đúng trong Kinh Thánh. Ở nhiều điểm, Thiên Chúa ra lệnh cho dân Ít-ra-en làm các tượng và hình ảnh để dùng trong tôn giáo. Thí dụ, trong sách Dân Số, người Ít-ra-en phải đau khổ vì nọc độc của rắn, và Thiên Chúa ra lệnh cho ông Môsê làm một con rắn bằng đồng và treo trên một cái cột để những ai bị rắn cắn có thể nhìn đến rắn đồng và được sống (Ds 21:6-9). Hành động nhìn đến một bức tượng thì không có sức mạnh chữa lành tự nhiên, như thế đây là một việc sử dụng trong tôn giáo. Chỉ sau này, sau nhiều thế kỷ, dân bắt đầu coi các tượng như thần thánh nên được dùng như một “icon” (hình ảnh linh thiêng) và vì thế bị tiêu hủy (2 Các Vua 18:4).
Thiên Chúa còn ra lệnh rằng đền thờ của Người, tượng trưng cho thiên đường, có đầy những hình ảnh của các đấng trên thiên đường. Vì thế Người ra lệnh thêu hình ảnh thần kêrubim vào các màn của Lều Hội Ngộ (Xh 26:1). Sau này, hình thần kêrubim được tạc trên các bức tường và các cửa của đền thờ (1 Các Vua 6:29-35).
Các tượng cũng được làm ra. Nắp Hòm Bia Giao Ước có hai tượng thần kêrubim xòe cánh bao phù lên nhau (Xh 25:18-20), và đền thờ có các tượng thần kêrubim to lớn, cao mười lăm bộ trong nơi cực thánh (1 Các Vua 6:23-28). Kể từ khi Đức Kitô lên trời, các thánh được gia nhập với các thiên thần ở thiên đường (GLCG 1023), làm cho hình tượng của họ cũng thích hợp để trong thánh đường.
Bạn không phải là một nhân chứng để viết tiểu sử một cách chính xác.
Các người viết tiểu sử ngày nay cũng không biết người mà họ viết tiểu sử. Ngay cả họ không phải sống cùng thời với các nhân vật ấy. Hãy nghĩ đến các sách tiểu sử gần đây về ông Abraham Lincoln. Không tác giả nào là nhân chứng thấy ông Lincoln, nhưng người ta không dựa vào căn bản đó để hạ giá các sách này. Điều quan trọng là tác giả có được những nguồn đáng tin cậy, và cả hai thánh sử Máccô và Luca đều có được như vậy.
Theo nhân vật của thế kỷ thứ nhất là Gioan Trưởng Lão, dường như ông là một trong những tác giả sách Tân Ước và đôi khi được nhận biết là tông đồ Gioan, Máccô là người thông dịch của ông Phêrô (coi 1 Phêrô 5:13) và viết Phúc Âm của mình dựa trên sự hiểu biết về lời giảng dạy của ông Phêrô (coi Eusebius, Church History 3:39:14-15). Dựa trên sự nổi nang khác thường của ông Phêrô trong Phúc Âm Máccô, các học giả đều đồng ý rằng điều này thì chính xác. Richard Bauckham lý luận rằng Máccô dùng một dụng cụ văn hóa được gọi là inclusio để nói lên sự kiện là ông Phêrô là hậu thuẫn cho các sự kiện trong Phúc Âm của mình (coi Jesus and the Eyewitnesses, chương 6 -7). Như thế Máccô dựa trên lời khai của nhân chứng.
Tương tự, Luca đã cho chúng ta biết ngay ở đầu Phúc Âm rằng dữ kiện trong sách là “được truyền lại cho chúng tôi bởi những người đã được chứng kiến ngay từ đầu và là thừa tác viên của lời” (Luca 1:2). Ngay cả chúng ta cũng có thể biết các nhân chứng nào mà thông tin này xuất phát. Trước hết, Luca dùng Máccô là một trong các nguồn của ông, như thế một số tài liệu của ông đến từ Phêrô qua ông Máccô. Thứ hai, Luca sống vài năm với ông Phaolô ở Rôma (Cv 28:16, 30), ở đây ông Phêrô cũng sống vài năm cuối đời. Như thế Phêrô là một nguồn chính cho sách Công Vụ Tông Đồ 1 – 12, và dường như Luca cũng lấy một số tài liệu trực tiếp từ ông Phêrô.
Chúng ta còn có thể khám phá các nguồn khác. Thí dụ, Luca bảo tồn các truyền thống từ Đức Trinh Nữ Maria, và ông cho thấy dấu hiệu này khi nhận xét rằng Đức Maria “ghi nhớ tất cả những điều này, suy gẫm chúng trong tâm hồn” (Luca 2:19, x. 2:51).
Chúng ta có thể và phải trực tiếp xin Thiên Chúa tha tội, nhưng Kinh Thánh còn tiết lộ rằng chính thánh ý của Người – trong một số trường hợp – rằng chúng ta phải đến với các thừa tác viên của Người để xưng tội.
Sự cầu nguyện có thể đủ để tha thứ các tội nhẹ, hàng ngày, nhưng Đức Giêsu cho biết một số tội thì trầm trọng hơn qua việc thiết lập bí tích giải tội để đối phó với các tội này.
Sau khi Phục Sinh, Người nói với các môn đệ: “Như Chúa Cha đã sai thầy, thầy cũng sai các con.” Sau đó Người thổi hơi trên các ông, và nói, “Hãy nhận lấy Thánh Thần. Nếu anh em tha tội cho ai, tội của họ được tha; nếu anh em cầm buộc tội của ai, tội của họ sẽ bị giữ lại” (Gioan 20:21-23).
Trước đó, Thiên Chúa đã sai Đức Giêsu đến để tha thứ tội lỗi trên mặt đất (Mt 9:6), và dân chúng đã tôn vinh Thiên Chúa “đấng đã ban thẩm quyền như thế cho con người” (Mt 9:8). Bây giờ, Chúa Giêsu chia sẻ thẩm quyền này cho các thừa tác viên của Người.
Hãy để ý rằng Người ban cho họ quyền để tha thứ hay cầm giữ (không tha thứ) tội. Quyết định tha hoặc cầm buộc một tội thì nghiêm trọng, và các thừa tác viên của Chúa không được làm điều đó trong một kiểu cách thiếu hiểu biết. Để thi hành vai trò này, họ cần được hiểu biết cách thích hợp.
Đặc biệt, các thừa tác viên cần biết: (1) chúng ta đã phạm một tội rõ rệt nào, vả (2) chúng ta thực sự hối hận. Vì, không cách chi họ biết được những điều này nếu chúng ta không nói cho họ biết. Chúng ta buộc phải xưng ra. Như thế, chúng ta có bí tích xưng tội.
Đoạn Gioan 20:21-23 còn là điều cần biết khi chúng đọc về sự quả quyết của cùng tác giả rằng, “Nếu chúng ta thú nhận tội lỗi, Thiên Chúa là Đấng trung thành và công chính sẽ tha tội cho chúng ta, và sẽ thanh tẩy chúng ta sạch mọi điều bất chính” (1 Ga 1:9).
Thiên Chúa không muốn người ta xuống hỏa ngục. Người “khao khát mọi người được cứu chuộc và hiểu biết chân lý” (1 Tim 2:4), nhưng chúng ta có thể từ chối sự cống hiến ơn cứu độ của Người.
Tuy Kinh Thánh và Giáo Hội dùng ngôn ngữ hình phạt có liên quan đến hỏa ngục, điều này phải được hiểu cách thích hợp.
“Không phải là một hình phạt được Thiên Chúa áp đặt nhưng là sự phát triển những gì đã có do người ta gây ra trong cuộc đời này… Vì thế, ‘luận phạt đời đời’ không được quy cho sáng kiến của Thiên Chúa, vì với tình yêu thương xót, Người chỉ có thể khao khát sự cứu độ cho mọi tạo vật mà Người dựng nên. Trên thực tế, chính các tạo vật đã tự khép kín với tình yêu của Người. Sự luận phạt, chính yếu, bao gồm sự tách biệt dứt khóat với Thiên Chúa, được tự do lựa chọn bởi con người và được xác nhận bởi cái chết mà nó đã niêm yết sự lựa chọn đời đời của họ. Sự phán xét của Thiên Chúa phê chuẩn tình trạng này” (Gioan Phaolô II, Tiếp Kiến Chung, 28 tháng Bảy, 1999).
Hậu quả là, “Thiên Chúa không tiền định cho ai xuống hỏa ngục; đó là điều tất nhiên khi cố ý lìa bỏ Thiên Chúa (một tội trọng) và cố chấp sống trong tội cho đến cùng” (GLCG 1037).
Không phải Thiên Chúa chọn để đưa một người xuống hỏa ngục. Người này chọn sống tách biệt với Thiên Chúa, khước từ sự cống hiến tình thương và sự tha thứ của Chúa, và Người tôn trọng sự lựa chọn của người này. Thiên Chúa sẽ không ép buộc người ta đi vào sự hiệp nhất với Người nếu họ chọn sự tách biệt.
Vào cuối cuộc đời, sự lựa chọn của chúng ta trở nên dứt khoát. Sau khi chết, chúng ta không thể thay đổi ý định, đó là lý do cả thiên đường lẫn hỏa ngục kéo dài đời đời (x. GLCG 1035).
Nhưng một khi chúng ta còn sống, chúng ta vẫn có thể chọn quay về với Thiên Chúa, bất kể những gì chúng ta làm, bất kể tội của chúng ta xấu xa đến đâu. “Không có tội nào nặng đến nỗi Hội Thánh không thể tha thứ được. Dù có ai gian ác và xấu xa đến đâu... họ vẫn có thể tin chắc được tha thứ, miễn là chân thành sám hối. Đức Ki-tô, Đấng đã chết cho mọi người, muốn rằng mọi cánh cửa tha thứ trong Hội Thánh luôn rộng mở cho bất cứ ai ăn năn trở lại” (GLCG 982).
Những thí dụ nào người ta thấy có vẻ thuyết phục thì tùy theo quan điểm thần học của họ, nhưng sau đây là một số có thể thuyết phục mọi truyền thống Tin Lành.
Một thí dụ là không có thêm các tông đồ. Hàng ngũ các tông đồ không kéo dài quá thế kỷ thứ nhất. Nhiệm vụ chăn dắt Giáo Hội được các tông đồ trao cho các người kế vị, là các giám mục, nhưng hai chức vụ này không giống nhau (GLCG 860-62).
Sự đình chỉ các tông đồ không buộc phải như thế. Tuy phần tử của Nhóm Mười Hai phải là người chứng kiến hoạt động của Đức Giêsu (Cv 1:21-26), có những tông đồ khác, tỉ như ông Banabê và Phaolô (Cv 14:14). Nhất là ông Phaolô không phải là một nhân chứng; Chúa Giêsu chỉ xuất hiện với ông sau này (Cv 9:1-9; 1 Cor 9:1). Chúa Giêsu hiện ra với ông Phaolô, điều đó có nghĩa Người đã có thể tiếp tục xuất hiện và chọn các tông đồ mới trong suốt lịch sử, nhưng Người đã không làm. Một số người trong lịch sử tự nhận là các tông đồ mới, nhưng Kitô Hữu chính thống rất đúng khi từ chối những tự nhận đó.
Liên quan đến việc chấm dứt nhóm tông đồ là sự kiện rằng sự mặc khải chung cũng chấm dứt (GLCG 66), và vì thế quy điển Thánh Kinh cũng được đóng lại. Không còn sách nào khác được coi là Kinh Thánh. Điều này cũng không buộc phải như vậy. Thiên Chúa đã có thể tiếp tục linh ứng các tác giả, giúp họ viết các sách mới của Kinh Thánh. Các tác giả này không phải là tông đồ, vì một số tác giả nguyên thủy của sách Tân Ước (tỉ như Máccô và Luca) thì không phải là tông đồ.
Nhưng Kitô Hữu nhìn nhận rằng, cũng như hàng ngũ tông đồ chấm dứt việc sáng tác Kinh Thánh cũng thế. Dĩ nhiên, các cá nhân có thể cho rằng họ nhận được các sách Thánh mới (tỉ như, Joseph Smith), nhưng, xin nhắc lại, Kitô Hữu chính thống có quyền từ chối những tự nhận này.
Việc chấm dứt thời các tông đồ và thời Kinh Thánh là những yếu tố thiết yếu của nền tảng đức tin, hay Truyền Thống Tông Đồ, nhưng không được chứng thực trong Kinh Thánh. Không ở đâu trong Kinh Thánh nói hoặc ám chỉ rằng Chúa Giêsu sẽ không tiếp tục xuất hiện với người ta và tạo ra các tông đồ mới. Kinh Thánh cũng không nói rõ hay hàm ý rằng Thiên Chúa sẽ không tiếp tục linh ứng các tác giả để viết sách Thánh mới. Vì thế đây là những yếu tố của Truyền Thống Tông Đồ chứ không trong Kinh Thánh.
Chữ “sám hối” của Hy Lạp – metanoia – xuất phát từ những gốc có thể có nghĩa “thay đổi” (meta) và “tâm trí” (nous), nhưng gốc của một chữ không xác định nghĩa của nó. Cách dùng chữ thì xác định nghĩa của nó.
Kinh Thánh nói rõ là nếu chúng ta muốn cứu chuộc khỏi tội của mình, chúng ta cần xa lánh tội – chứ không chỉ nhận biết đó là tội.
Ông Gioan Tẩy Giả nói: “Hãy sinh hoa quả phù hợp với lòng sám hối, và đừng tự phụ nhủ thầm rằng, ‘Chúng ta đã có Abraham là cha chúng ta’; vì tôi nói cho các ông biết, Thiên Chúa có thể làm cho những hòn đá này thành con cái của Abraham. Bây giờ cái rìu đã đặt sát gốc cây; bởi thế cây nào không sinh hoa quả tốt thì bị đốn đi và quăng vào lửa” (Mt 3:8-10).
Hoa quả này bao gồm việc xa lánh tội lỗi và làm điều đúng, như ông Gioan nhấn mạnh với người thu thuế và binh lính, họ muốn biết sự sám hối bao hàm những gì cho đời sống của họ.
“Những người thu thuế cũng đến chịu phép rửa. Họ hỏi ông: ‘Thưa thầy, chúng tôi phải làm gì?’ Ông bảo họ: ‘Đừng đòi hỏi gì quá mức đã ấn định cho các anh.’ Binh lính cũng hỏi ông: ‘Còn anh em chúng tôi thì phải làm gì?’ Ông bảo họ: ‘Chớ hà hiếp ai, cũng đừng tống tiền người ta, hãy bằng lòng với số lương của mình.’” (Luca 3:12-14).
Sám hối không có nghĩa là một quyết tâm sống tuyệt đối không phạm tội, vì như sách Tân Ước nói với chúng ta, “tất cả chúng ta đều làm lỗi” (Gia 3:2), và “nếu anh em nói chúng ta không có tội, anh em tự lừa dối mình, và sự thật không có trong chúng ta” (1 Ga 1:8). Tuy nhiên, nó có nghĩa chúng ta phải muốn lánh xa tội lỗi và, nhờ ơn Chúa, quyết liệt tách biệt với nó, tuy chúng ta vẫn phải vật lộn với tội trong cuộc sống hàng ngày.
Những câu này đề cập đến loại rửa tội, chứ không phải những chữ được dùng trong nghi thức này.
Đức Giêsu cho biết những chữ dùng trong việc rửa tội, khi nói: “Hãy ra đi làm cho muôn dân trở thành môn đệ, hãy rửa tội họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần” (Mt 28:19).
Đề cập đến bí tích rửa tội của Kitô Giáo bởi những chữ này thì rất vụng về, và vì thế cần có một cách ngắn hơn để ám chỉ đến nó.
Một phần, điều này là vì có nhiều loại thanh tẩy trong thời Tân Ước. Chính yếu trong các loại này là nghi thức tẩy rửa được người Do Thái thi hành (Lêvi 14:8, 15:5–27, 16:4, 24–28, 17:15–16, 22:6; Dân Số 19:7–8, 19; Deut. 23:11), sự thanh tẩy của Gioan Tẩy Giả (Mt. 3:13–14, 21:25; Cv 1:22, 10:37, v.v.), và bí tích rửa tội của Đức Giêsu (Mt 28:19; Mc 16:16; Ga 4:1–2; Cv 2:38; Rom. 6:3–4, v.v.). Thêm vào đó còn có các nghi thức thanh tẩy của các dị giáo và ngay cả dân ngoại. Hậu quả là cần có một cách để ám chỉ đến nghi thức Kitô Giáo chỉ trong một vài chữ. Vì nó có liên quan đến Đức Giêsu, Luca đề cập đến nó như rửa tội “trong danh Đức Giêsu Kitô” (Cv 2:38, 8:12, 10:48) và “trong danh Chúa Giêsu” (Cv 8:16, 19:5).
Nhưng công thức Ba Ngôi đã được dùng trong những trường hợp này, như được thấy khi ông Phaolô rửa tội một số người ở Êphêsô. Họ được rao giảng bởi ông Apôlô, là người chỉ biết đến sự thanh tẩy của Gioan Tẩy Giả (Cv 18:24-25). Sau khi ông Apôlô ra đi (19:1), ông Phaolô gặp họ và hỏi một câu quan trọng: “’Anh em có nhận được Thánh Thần khi tin không?’ Và họ trả lời, ‘Không, chúng tôi chưa bao giờ nghe đến Thánh Thần’. Và ông nói, ‘Vậy anh em được chịu phép rửa nào?’ Họ nói, ‘Phép rửa của Gioan’” (19:2-3).
Sự kiện là họ chưa nghe nói về Chúa Thánh Thần đã ngay lập tức khiến ông Phaolô đặt câu hỏi là họ nhận được phép rửa nào. Nếu là bí tích rửa tội của Kitô Giáo thì phải dùng đến công thức Ba Ngôi và như thế đề cập đến Chúa Thánh Thần. Lý do duy nhất họ không nghe biết về Chúa Thánh Thần là vì họ không nhận được bí tích rửa tội Kitô Giáo – và điều này minh chứng là đúng: Họ nhận được phép rửa của Gioan. Sau đó ông Phaolô đã ban cho họ bí tích rửa tội của Kitô Giáo.
Giá trị cái chết của Chúa Kitô trên thập giá thì vô cùng – nhiều hơn những gì cần để đền bù cho tội lỗi cả nhân loại. Nhưng ngay cả sau khi Thiên Chúa tha thứ hậu quả đời đời của tội lỗi chúng ta, Người vẫn muốn chúng ta cảm nghiệm được một số hậu quả tiêu cực.
Khi đứa con có hành vi sai trái, cần có những hậu quả. Nếu cha mẹ không áp dụng bất cứ kỷ luật nào, đứa con sẽ không bao giờ học được điều gì. Kinh Thánh dùng sự kỷ luật của cha mẹ như một hình thức để diễn tả cách Thiên Chúa liên hệ với chúng ta: “Thiên Chúa rèn luyện những ai Người yêu mến, và trừng phạt những đứa con trai Người nhận được” (Dt 12:6). Người “rèn luyện chúng ta vì sự tốt lành cho chúng ta, để chúng ta có thể chia sẻ sự thánh thiện của Người” (Dt 12:10).
Đó là lý do chúng ta sám hối. Nếu chúng ta học được cách từ chối chính mình, chúng ta sẽ có thể từ chối những cám dỗ.
Chúa Kitô mong chúng ta sám hối. Khi Đức Giêsu được hỏi là tại sao các môn đệ của Người không giữ chay, Người nói họ sẽ giữ chay trong tương lai (Mc 2:18-20). Do đó Người nói với các môn đệ, “Khi các con giữ chay, đừng có vẻ buồn rầu, giống như bọn giả hình” (Mt 6:16). Chúa không nói, “nếu các con giữ chay,” nhưng “khi các con giữ chay.” Trong Công Vụ, các Kitô Hữu tiên khởi đã thực hành việc này (Cv 13:2, 14:23). Khi giữ chay và thực hành một số hình thức sám hối khác, chúng ta yêu quý sự rèn luyện tinh thần mà nó sẽ giúp chúng ta lớn lên trong sự thánh thiện, như thư gửi tín hữu Do Thái đã viết.
Sự sám hối còn đem cho chúng ta cơ hội để bày tỏ sự buồn sầu vì tội lỗi. Trong thâm tâm, chúng ta cảm thấy thương tiếc khi điều bi thảm xảy ra, và điều đó cũng bao gồm tội lỗi của chính chúng ta. Nói rằng người ta không cần cảm thấy hay cần bày tỏ sự đau buồn vì tội lỗi, điều đó trái tự nhiên và bỏ qua phản ứng mà Thiên Chúa đã dựng nên chúng ta. “Có thời để khóc… có thời để thương tiếc” (Ecc 3:4)
Chúng ta có thể và phải cầu nguyện trực tiếp với Thiên Chúa – là nguồn mọi ơn sủng (Giacôbê 1:17). Tuy nhiên, điều tiếp theo không phải là bạn chỉ cầu nguyện với Thiên Chúa. Đây là một trường hợp “cả hai/và”, chứ không phải “hoặc điều này/hoặc điều kia”.
Một cách tự nhiên chúng ta cảm thấy hữu ích khi được người khác cầu nguyện cho chúng ta, và trong nhiều thế kỷ, Kitô Hữu từng xin người khác cầu nguyện cho họ. Nhưng điều này sẽ bất khả nếu Thiên Chúa chỉ muốn chúng ta cầu xin với Người.
Sự thật, Thiên Chúa muốn chúng ta cầu nguyện cho nhau. Điều này được minh họa trong kinh Lậy Cha, trong đó chúng ta cầu cho chúng ta và cho người khác (“Xin cho chúng con lương thực hàng ngày,” “Và tha nợ chúng con,” “Xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ”; Mt 6:11-13); bởi Đức Giêsu cổ vũ chúng ta cầu cho kẻ thù (Mt 5:44); và bởi lời cổ vũ của T. Phaolô, “Tôi khuyên ai nấy dâng lời cầu xin, khẩn nguyện, nài van, tạ ơn cho tất cả mọi người” (1 Tim 2:1).
Thiên Chúa còn muốn chúng ta xin người khác cầu thay nguyện giúp cho chúng ta, như được minh họa bởi T. Phaolô yêu cầu độc giả cầu nguyện cho ông (Rom 15:30; 2 Cor 1:11; Eph 6:18-19; 1 Thê 5:25; 2 Thê 3:1-2) – đây cũng là lời yêu cầu của tác giả thư Do Thái (13:18). Xin các thánh cầu bầu chỉ nới rộng nguyên tắc đó. Chúng ta có thể xin các Kitô Hữu trên thiên đường cầu bầu cho chúng ta với cùng một lý do như chúng ta xin Kitô Hữu dưới đất: được người khác cầu cho bạn thì hữu ích, để bạn không cầu nguyện một mình. Đặc biệt hơn là được người công chính cầu cho mình, vì “lời cầu xin của người công chính có hiệu quả lớn lao” (Gia 5:16b). Không ai công chính hơn những vị ở trên thiên đường với Thiên Chúa.