Đây là sự hiểu sai về nguyên tội. Thiên Chúa không trừng phạt chúng ta vì những gì Adong đã làm.
Sách Sáng Thế 1 và 2 miêu tả Thiên Chúa dựng nên loài người trong một tình trạng “rất tốt đẹp” (St 1:31). “Bao lâu còn sống mật thiết với Thiên Chúa, con người sẽ không phải chết cũng không phải đau khổ. Sự hài hòa nội tâm của con người, giữa người nam và người nữ, và sau cùng sự hài hòa giữa đôi vợ chồng đầu tiên và toàn thể vạn vật, tạo nên tình trạng được gọi là ‘sự công chính nguyên thủy’.” (GLCG 376). Nhưng con người đã xa cách khỏi sự hợp nhất với Thiên Chúa vì tội lỗi, mà sách Sáng Thế miêu tả như hành động ăn trái cấm (GLCG 390).
Nếu Adong và Evà vẫn trong sự công chính nguyên thủy, con cháu của họ cũng sẽ không bị sinh ra trong tình trạng ấy. Tuy nhiên, bị mất vì tội, con cháu của họ bị tước đoạt sự thánh thiện và công chính nguyên thủy khi sinh ra. Vì thế chúng ta được nói là sinh ra trong nguyên tội.
Tuy nhiên, chúng ta không phạm tội của Adong về phương diện cá nhân, và Thiên Chúa không quy trách nhiệm ấy cho chúng ta. “Nguyên tội được gọi là ‘tội’ theo nghĩa loại suy: Nó là một thứ tội bị ‘nhiễm’ chứ không phải đã ‘phạm’ – một tình trạng chứ không phải một hành vi” (GLCG 404). “Nguyên tội không có tính cách một tội riêng nơi bất kỳ ai trong con cháu Adong. Nó làm mất đi sự thánh thiện và công chính ban đầu” (GLCG 405).
Tuy không phải là một tội riêng, nguyên tội có những hậu quả trên bản tính con người, đó là “bị thương tổn trong các khả năng tự nhiên, bị lâm cảnh mê muội, đau khổ, và phải chết, và hướng chiều về tội lỗi – sự hướng chiều này được gọi là nhục dục” (GLCG 405).
Tình trạng này giống như một người giầu có, vì cờ bạc ông đã tiêu tán cả gia tài nên không thể trao lại cho con cháu của ông. Sự bài bạc là lỗi cá nhân, nhưng con cháu ông bị tước đoạt và bị nghèo vì hành động của ông. Cũng một cách như vậy, Thiên Chúa ban cho nguyên tổ vô số sự giầu sang tinh thần mà họ đã đánh mất vì sự khờ dại của chính họ. Lỗi là của họ, nhưng chúng ta bị sinh ra trong sự nghèo nàn tinh thần và không có sự mật thiết với Thiên Chúa.
Câu trả lời tùy theo quan điểm của một người.
Nếu một người tin vào Sách Thánh Do Thái, người ấy có thể nhìn đến nhiều lời tiên báo đã được ứng nghiệm bởi Đức Giêsu. Trong Do Thái Giáo, có nhiều sự hiểu biết về Mêsia mà sự nghiên cứu không nằm trong lãnh vực của cuốn sách này.
Tuy nhiên, thật giá trị để nêu ra một lời tiên báo rõ rệt đã được ứng nghiệm bởi Đức Giêsu. Các ngôn sứ tuyên bố rằng “mặt đất sẽ đầy sự hiểu biết về Đức Chúa như nước bao phủ đại dương” (Isa 11:9; xem Hab 2:14).
Khi những lời tiên báo này được đưa ra, số người tin vào Thiên Chúa của Abraham còn rất ít. Phần đông dân chúng thời bấy giờ là tín đồ đa thần, và thế giới còn bao phủ trong sự tăm tối vô tín ngưỡng.
Tuy nhiên, ngày nay hoàn cảnh thì rất khác biệt. Một nửa nhân loại thờ phượng Thiên Chúa của Abraham, và hiển nhiên mọi người đều nghe biết về Người. So với thời các ngôn sứ, thế giới ngày nay được bao phủ với sự hiểu biết về Thiên Chúa như nước bao phủ đại dương.
Điều này không phải tình cờ xảy ra. Nó nằm trong sự hoạch định của Thiên Chúa.
Nó cũng không xảy ra ngoài Đức Giêsu ở Nagiarét. Chính qua Người mà mọi dân tộc đến thờ lậy Thiên Chúa của Abraham. Kết quả, Người có một vai trò rất quan trọng trong kế hoạch của Thiên Chúa.
Vai trò này có liên hệ đến điều Người tự nhận là Mêsia. Không có sự tự nhận này, các dân tộc sẽ không tin vào Thiên Chúa qua Người, và Người là đấng duy nhất tự nhận là mêsia trong lịch sử, ngay cả những ai không tin vào Người cũng thường xuyên đề cập đến Người là “Giêsu Kitô” (Christos [kitô] là chữ Hy Lạp của “Mêsia”). Vai trò của Người là Mêsia nên đáng được để ý một cách nghiêm trọng và không thành kiến.
Nếu người ta chưa tin vào Sách Thánh Do Thái, ngay cả không tin, một minh chứng đáng kể về vai trò Mêsia của Đức Giêsu thì được thấy trong sự Phục Sinh của Người. Chúng ta có chứng cớ rất tốt rằng sự kiện này đã xảy ra, và cũng như các phép lạ để xác nhận tác vụ của các ngôn sứ, phép lạ này hiệu lực hóa sứ vụ của Đức Giêsu và giúp Người đủ tư cách để nói với chúng ta về vai trò của Người trong hoạch định của Thiên Chúa.
Sự thách đố này giả sử rằng chúng ta cần Kinh Thánh để giải quyết vấn đề. Chúng ta không cần.
Trước hết, lý trí không thôi cũng có thể biết rằng thai nhi là con người và như thế chúng có quyền đối với sự sống. Thứ hai, người Công Giáo không phải là Tin Lành và không cần phải minh chứng mọi thứ từ Kinh Thánh mà thôi (xem GLCG 2270-75).
Thứ ba, Kinh Thánh có những quy tắc áp dụng cho vấn đề phá thai. Nguyên tắc căn bản nhất là trong Mười Điều Răn: “Ngươi không được giết người” (Xh 20:13; Tl 5:17).
Mười Điều Răn không rõ ràng áp dụng nguyên tắc này cho thai nhi, nhưng Kinh Thánh nhìn nhận rằng, thực sự chúng là các trẻ nhỏ và chúng phải được bảo vệ:
Khi các ông đánh nhau, và làm tổn thương một người đàn bà có thai, làm sẩy thai nhưng không gây tổn thương nào khác, thì phải bồi thường theo đòi hỏi của người chồng, và phải trả như người phân xử quyết định. Nếu có gây tổn thương thì ngươi phải lấy mạng đền mạng, mắt đền mắt, răng đền răng, tay đền tay, chân đền chân” (Xh 21:22-24). Sự thật, thai nhi là trẻ em – và chính chúng ta đã từng ở trong lòng mẹ – được sinh ra một cách thật cảm động như Thánh Vịnh viết:
Lạy Chúa, Ngài dò xét con và Ngài biết rõ, … Tạng phủ con, chính Ngài đã cấu tạo, dệt tấm hình hài trong dạ mẫu thân con. Tạ ơn Chúa đã dựng nên con cách lạ lùng, công trình Ngài xiết bao kỳ diệu (Tv 139:1, 13-14).
Sách Thánh còn nhận xét rằng thần khí là điều giữ cho thân xác sống động, vì thế “thân xác không có thần khí thì chết” (Gia 2:26). Vì một người sống thì hiện diện ngay từ phút thụ thai, linh hồn cũng hiện diện từ lúc đó (x. GLCG 365).
Tân Ước liên kết bí tích rửa tội với sự cứu độ.
Rửa tội không chỉ là một nghi thức. Nó truyền đạt ơn sủng của Thiên Chúa, tỉ như sự tha tội và ban ơn của Chúa Thánh Thần. Vì thế ông Phêrô nói với đám đông vào ngày Pentecost: “Hãy sám hối, và mọi người hãy rửa tội trong danh Đức Giêsu Kitô để tội của anh chị em được tha; và anh chị em sẽ nhận được ơn của Chúa Thánh Thần” (Cv 2:38). Tương tự, khi trở về với Đức Tin, ông Phaolô được dặn: “Hãy đứng dậy và chịu phép rửa, và thanh tẩy cho sạch tội lỗi của anh, kêu cầu danh của Người” (Cv 22:16).
Trong các lá thư, ông Phêrô rõ ràng liên kết bí tích rửa tội với sự cứu độ. So sánh bí tích rửa tội với việc tám người được cứu trong con tầu của ông Nôe, ông viết: “Phép rửa, tương ứng với nước này, giờ đây cứu thoát anh chị em, không như sự tẩy sạch vết nhơ thể xác nhưng như một sự cầu khẩn Thiên Chúa ban cho một lương tâm trong trắng, nhờ sự phục sinh của Đức Giêsu Kitô” (1 Phêrô 3:21). Ông nói, phép rửa không cứu thoát vì làm chúng ta sạch sẽ về thân xác, Đúng hơn nó “cứu thoát anh chị em” vì nó bao gồm “một sự cầu khẩn Thiên Chúa ban cho một lương tâm trong trắng,” mà điều đó được ban cho chúng ta “qua sự phục sinh của Đức Giêsu Kitô”.
Tân Ước còn cho thấy rằng bí tích rửa tội là một phương tiện mà qua đó chúng ta được “tái sinh.” Đức Giêsu dạy: “Thật, tôi bảo thật ông: không ai có thể thấy Nước Thiên Chúa, nếu không được sinh ra một lần nữa bởi ơn trên... Không ai có thể vào Nước Thiên Chúa, nếu không dược sinh ra bởi nước và Thần Khí” (Ga 3:3, 5).
Ông Phaolô đồng ý khi nói rằng “Người đã cứu chúng ta, không phải vì tự chúng ta làm nên những việc công chính, nhưng vì Người thương xót, nhờ phép rửa tái sinh và đổi mới trong Thánh Thần” (Titô 3:5). Như thế, bí tích rửa tội đưa chúng ta vào tình trạng cứu độ.
Nữ Vương Thiên Đường mà Giêrêmia nói đến thì không ám chỉ Đức Maria. Vì thế, ngôn sứ này không kết án việc sùng kính Đức Maria.
Sự kiện là Ngôn Sứ Giêrêmia không ám chỉ đến Đức Maria thì hiển nhiên, vì người viết vào khoảng năm 600 trước TL, không phải thế kỷ thứ nhất TL. Trong thời của người, danh xưng “Nữ Vương Thiên Đường” được dùng để ám chỉ các nữ thần ngoại giáo. Có nhiều nữ thần như thế, tỉ như mọi đền thờ ngoại giáo đều có một ông thần cai quản chính, được diễn tả như một ông vua trên thiên đường. Tương tự, nhiều nữ thần được coi là các nữ vương trên thiên đường. Các học giả không chắc là nữ thần nào mà Giêrêmia muốn nói đến. Có thể là một nữ thần của người Canaan tỉ như Ashtoreth (vợ của Baal), Asherah (vợ của El), hoặc nữ thần chiến binh Anat. Bất cứ thần nào ông muốn nói đến, hiển nhiên rằng việc kết án sự sùng kính đã xảy ra trong thời của ông, vì Giêrêmia ám chỉ đến điều đó là “điều họ đang làm trong các thành của Giuđa và trong các đường phố của Giêrusalem” (Giêr 7:17). Ông còn nói rằng cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sẽ đổ xuống trên các phần tử của chính thế hệ ông và là một hậu quả của sự thực hành này (Giêr 44:24-30).
Sự kiện là “Nữ Vương Thiên Đường” được sử dụng cho một nữ thần ngoại giáo trong thời của Giêrêmia thì không có nghĩa điều đó cũng không thể được sử dụng cách chính đáng. Những chữ và câu có được ý nghĩa và nghĩa rộng từ cách chúng được sử dụng trong một cộng đồng nào đó, và chúng không vĩnh viễn bị hủy bỏ vì đã có lần người ngoại giáo sử dụng nó.
Như đã nhận xét, các đền thờ dân ngoại có các Nữ Vương Thiên Đường thì cũng có các Vua Thiên Đường, nhưng điều đó không cản trở các tác giả Kinh Thánh ám chỉ đến Thiên Chúa đích thật như một Vua (Tv 29:10, 47:2, 6-7, 103:19; Isa 6:5; Mal 1:14; 1 Tim 1:17; Kh 15:3, v.v.) Ngay cả họ dùng chính danh xưng “Vua Thiên Đường” để ám chỉ Người (Đan 4:37; Tôb 1:18, 13:7).
Trong thời của Đức Giêsu có những ông độc thân, và có chứng cớ cho thấy Đức Giêsu không kết hôn.
Phúc âm Philíp là một bản văn ở thế kỷ thứ hai hoặc thứ ba bằng tiếng Coptic. Nó không đáng tin cậy về lịch sử, và không diễn tả bà Maria là vợ của Đức Giêsu nhưng là một người đồng hành, như chính bà, cùng với những người khác (x. Luca 8:1-3).
Có một vài phụ nữ tên Maria trong Tân Ước, và để phân biệt rõ ràng, họ được đề cập đến bởi vài tên gọi khác nhau. Thông thường, phái nữ được đề cập đến bởi thân tộc phái nam, như “bà Maria, mẹ của Đức Giêsu” (Cv 1:14), Nếu Maria Mađalêna là vợ của Đức Giêsu, bà sẽ được ám chỉ là “Maria, vợ của Đức Giêsu,” nhưng không phải như vậy. “Mađalêna” là tên một nơi chốn. Mađalêna là một làng ven biển Galilê, và bà là “Maria ở Mađalêna” (Gioan 19:25, 20:1, 18). Sự kiện rằng bà được đề cập đến bởi tên của một nơi chốn, điều đó cho thấy bà không có cha, chồng, hoặc con trai mà bà có thể được gọi bởi tên của họ.
Có những người Do Thái độc thân trong thời Đức Giêsu, cũng như trước đó. Ngôn Sứ Giêrêmia là một (Giêr 16:1-2). Trong thế kỷ thứ nhất, sự độc thân được thực hành trong người Do Thái bởi cá nhân (Life of Josephus 2) cũng như bởi nhóm tỉ như “Theraputae” (Philo, On the Contemplative Life 3[21]), người Essenes (Philo, Hypothetica 11:14; Josephus, Antiquities 18:1:5, War, 2:8:2), và Kitô Hữu. Đức Giêsu gợi ý sự độc thân như một cách rèn luyện tinh thần (“vì nước trời”) cho những ai có thể chấp nhận nó (Mt 19:11-12). Sẽ là điều rất ngạc nhiên khi Đức Giêsu cổ vũ sống độc thân nếu chính Người không thực hành.
Tân Ước không bao giờ nói về bà Maria Mađalêna, hoặc bất cứ ai khác, là vợ của Đức Giêsu. Thay vào đó, sách nói về toàn thể Giáo Hội như nàng dâu của Người (2 Cor. 11:2–3; Eph. 5:21–32; Rev. 19:6–9, 21:1–2, 9–10). Điều này quan trọng vì ẩn dụ Giáo Hội như nàng dâu của Đức Kitô sẽ không phát sinh nếu Đức Giêsu có kết hôn với một bà nào và được gọi là “Bà Giêsu” trong thời Giáo Hội tiên khởi.
Điều này giả sử rằng chúng ta không biết tôn giáo nào là thật.
Nếu chúng ta biết ít về thế giới siêu nhiên – có lẽ đơn giản là nó hiện diện – thì chỉ cần bám lấy một loại tâm linh tổng quát. Tuy nhiên, nếu chúng ta biết nhiều hơn thì hoàn cảnh thay đổi. Càng biết nhiều hơn, chúng ta càng buộc phải tin hơn. Nếu chúng ta hiểu biết đủ để thấy rằng một tôn giáo nào đó là đích thật, chúng ta buộc phải yêu quý tôn giáo ấy vì sự thật. Và nếu tôn giáo chúng ta biết là thật và có tổ chức thì chúng ta buộc phải yêu quý tổ chức tôn giáo ấy.
Cá nhân thay đổi trong sự hiểu biết. Một số chỉ biết đủ đề biện minh cho loại tâm linh tổng quát, nhưng đây không phải là trường hợp của mọi người.
Có cả một khối chứng cớ hỗ trợ cho đức tin Ktiô Giáo. Chứng cớ này được tổng hợp bởi một lĩnh vực được gọi là biện giáo. Những ai để ý đến chứng cớ này và chân lý của đức tin Kitô Giáo, họ buộc phải chấp nhận đức tin ấy. Với họ, chỉ có tâm linh thì chưa đủ. Bởi sự hiểu biết ấy, họ buộc phải tuân theo sự thật để trở nên Kitô Hữu.
Kitô Giáo là một tổ chức tôn giáo và đã là như thế ngay từ ban đầu. Nó được thành lập bởi Đức Giêsu, Người chọn mười hai tông đồ để trở nên những người lãnh đạo đầu tiên (Mt. 10:1–4, Mc. 3:13–19, Lc. 6:12–16). Sau đó họ chọn các người lãnh đạo khác, và tín hữu Kitô có bổn phận tôn trọng những người lãnh đạo của mình (1 Thê 5:12; Dt. 13:17).
Có thêm kiến thức – và vì thế thêm chân lý – thì tốt. Chúng ta áp dụng nguyên tắc này cho mọi lĩnh vực khác, và nó cũng đúng trong tôn giáo và tâm linh. Sự kiện là Thiên Chúa đã tiết lộ thêm về chính Người, điều đó còn đem cho chúng ta thêm lý do để yêu mến và kính trọng Người và những gì Người đã thực hiện cho chúng ta.
Đức Giêsu dùng kiểu cường điệu. Các đoạn khác trong Tân Ước cho thấy các thừa tác viên của Đức Kitô có một hình thức cha tinh thần.
Cường điệu là nói quá đáng về một điểm. Nó là một nét phổ thông trong kiểu nói trong Kinh Thánh, như khi Đức Giêsu nói các môn đệ phải “ghét bỏ” các phần tử trong gia đình (Lc 14:26; một sự giải thích không cường điệu của đoạn này được thấy trong Mt. 10:37).
Đức Giêsu không muốn nói theo nghĩa đen rằng bạn không thể gọi ai ở dưới đất là “cha”. Nếu Người cố ý như vậy thì chúng ta không thể gọi cha đẻ của mình bằng danh từ này, đó là điều vô lý. Nó còn lấy đi sự hiểu biết của chúng ta về tư cách làm Cha của Thiên Chúa trong khung cảnh trần thế (GLCG 41, 238-39).
Điểm của Đức Giêsu là chúng ta không nên lẫn lộn tư cách làm Cha của Thiên Chúa – là tối hậu – với bất cứ hình thức làm cha nào khác, vì nó giới hạn và tạm thời. Đức Giêsu dùng ngôn ngữ cường điệu để làm điểm này nổi bật và đáng nhớ, nhưng Người không mong đợi sự cường điệu được hiểu theo nghĩa đen.
Như thế các đoạn khác trong Tân Ước cho thấy các thừa tác viên của Đức Kitô có một vai trò như người cha tinh thần. T. Phaolô đề cập đến việc trở nên cha tinh thần của tín hữu Côrintô như thế nào (1 Cor 4:14-15), Người đề cập đến các tín hữu Galát như con cái (Gal 4:19) và với Timôthê (1 Cor. 4:17; 1 Tim. 1:2, 18; 2 Tim. 1:2, 2:1), Titô (Titô 1:4), và Onesimus (Philem 10) như những người con tinh thần. T. Phêrô đề cập đến Máccô như con tinh thần (1 Phê 4:13) và Gioan đề cập đến các độc giả như con cái của người (1 Ga 2:1; 3 Gioan 4).
Đây là một kiểu nói thông thường trong Tân Ước được nhiều tác giả sử dụng, kể cả các nhân chứng của Đức Giêsu (Phêrô và Gioan). Sự thực hành rộng rãi này trong các tông đồ lại càng nhấn mạnh hơn nữa đến tính chất cường điệu trong lời nói của Đức Kitô.
Khuôn mẫu ấy lại càng cho thấy vai trò cha tinh thần của các thừa tác viên của Đức Kitô, và nếu ai đó có một vai trò đặc biệt, thật trung thực để đề cập đến người ấy qua vai trò ấy. Thiên Chúa không chống đối điều đó, và Giáo Hội theo gương các tông đồ khi nhắc đến tư cách cha tinh thần của các linh mục.
Gioan Tẩy Giả có chức năng tiêu biểu như một Êlia mới, nhưng ông thực sự từ chối là cá nhân Êlia (Ga 1:21).
Tân Ước khẳng định nhiều lần rằng chúng ta sẽ được chỗi dậy, chứ không phải được đầu thai. Sự Phục Sinh của Đức Giêsu được ghi nhận trong cả bốn Phúc Âm (Matt. 28:6–7; Mark 16:6, 14; Luke 24:5, 34; John 21:14), và đặt ra một khuôn mẫu cho chúng ta (1 Cor. 6:14). Vì thế Người được đề cập đến là “con đầu lòng của kẻ chết” (Col 1:18; Kh 1:5). Tân Ước nhấn mạnh đến sự chỗi dậy của chúng ta (1 Cor. 15), khẳng định rằng “Phận con người là phải chết một lần, rồi sau đó chịu phán xét” (Dt 9:27).
Trong Mátthêu, khi các môn đệ đặt câu hỏi về Êlia, họ vừa mới nhìn thấy Đức Giêsu biến hình cùng với ông Môsê và Êlia (Mt 17:1-9). Êlia – không phải Gioan Tẩy Giả – vừa mới xuất hiện với họ, và họ tự hỏi có phải đây là sự ứng nghiệm lời ngôn sứ nói rằng Êlia sẽ trở lại trước Mêsia (Mal 4:5-6).
Gioan Tẩy Giả không thể là sự đầu thai của Êlia bởi vì Êlia không chết. Thật vậy, ông được đưa lên trời trong một cơn lốc (2 Các Vua 2:1-15). Vào lúc bấy giờ, người hầu của Êlia, là Êlisa, xin được hưởng hai phần thần khí của ông Êlia, và Êlisa đã được (2 Các Vua 2:10-11, 15). Êlisa không thể là sự đầu thai của Êlia vì cả hai sống cùng thời. Vì Êlisa được hưởng hai phần thần khí của Êlia, điều đó có nghĩa ông cũng có thể hưởng vai trò ngôn sứ của Êlia; ông có cùng thần khí ngôn sứ, không phải là cùng linh hồn cá biệt.
Khi Phúc Âm Luca nói Gioan Tẩy Giả “sẽ đi trước [Đức Giêsu] trong thần khí và quyền năng của Êlia” (Luca 1:17), điều đó nói rằng Gioan Tẩy Giả sẽ thừa hưởng chức năng và quyền năng của Êlia là ngôn sứ như Êlisa đã được.
Chúng ta có chứng cớ là các thánh cầu cho chúng ta, kể cả Kinh Thánh.
Trước hết, chúng ta có thể suy diễn từ sự kiện là các thánh đang ở trên thiên đường nên họ sẽ cầu nguyện cho chúng ta. Ở trên thiên đường có nghĩa được kết hợp với Thiên Chúa, Người là Tình Yêu (1 Ga 4:8-9, 16). Khi được kết hợp với Thiên Chúa, chúng ta sẽ được biến đổi trở nên giống như Người (Rm 8:29; 1 Cor. 15:49-52; 2 Cor 3:18; 2 Phêrô 1:4; 1 Ga 3:2), vì “không có gì không thanh sạch được vào” thành thánh trên trời (Kh 21:27).
Như thế, nhờ được biến đổi bởi tình yêu Thiên Chúa, các thánh được tràn đầy tình yêu và vì thế họ lưu tâm đến người khác. Điều tự nhiên là khi bạn lưu tâm đến ai đó, bạn cầu nguyện cùng Chúa cho người ấy. Như thế chúng ta có thể suy diễn rằng, cũng như Thiên Chúa yêu thương chúng ta và chu cấp cho chúng ta, các thánh cũng yêu thương và cầu nguyện cho những người ở dưới thế.
Chúng ta còn có chứng cớ trực tiếp về sự can thiệp của các thánh trong Sách Thánh. Ông Giuđa Macabê được thị kiến thấy hai người đã chết. Người thứ nhất nguyên là thượng tế Onia, và trong thị kiến này, ông “dang tay cầu nguyện cho toàn thể cộng đồng Do thái” (2 Mac 15:12). Khi được thấy người thứ hai, ông Giuđa được bảo, “Đây là Giêrêmia, ngôn sứ của Thiên Chúa, ông yêu mến người Do Thái và cầu nguyện nhiều cho chúng ta và cho Giêsuralem, thành thánh” (2 Mac 15:14).
Cuốn 2 Macabê thì không thuộc quy điển của Tin Lành, nhưng có trong quy điển Công Giáo, nên nó hợp pháp để người Công Giáo trưng ra nhằm hiểu biết về đức tin. Ngay cả cho người Tin Lành, cuốn 2 Macabê chứng thực niềm tin của người Do Thái vào sự can thiệp của các thánh trước thời Kitô Giáo.
Sách Khải Huyền, trong các quy điển của Tin Lành và Công Giáo, cũng cho thấy các thánh và thiên thần can thiệp ở thiên đường. Trong Khải Huyền 5:8, chúng ta thấy hai mươi bốn trưởng lão, họ dường như đại diện cho các người lãnh đạo dân Chúa ở thiên đường, dâng hương lên Thiên Chúa, mà chúng ta được bảo là tiêu biểu cho lời cầu nguyện của các thánh. Trong Khải Huyền 8:3-4, chúng ta thấy một thiên thần dâng hương lên Thiên Chúa, hương được trộn “với lời cầu nguyện của tất cả các thánh trên bàn thờ vàng” ở thiên đường. Các thiên thần bản mệnh cũng can thiệp (Mt 18:10).
Giáo lý về Ba Ngôi Thiên Chúa không nói rằng Thiên Chúa là một và ba trong cùng ý nghĩa. Người là một Thiên Chúa và ba Ngôi Vị.
“Đấng tối cao phải duy nhất, không ai sánh bằng… Nếu Thiên Chúa không duy nhất, Người không phải là Thiên Chúa” (GLCG 228). Tuy nhiên Thiên Chúa còn là Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, “Ba Ngôi là Một. Chúng ta không tuyên xưng ba Thiên Chúa, nhưng một Thiên Chúa có Ba Ngôi” (GLCG 253).
Thật không ngạc nhiên vì giáo lý Ba Ngôi Thiên Chúa thì khó hiểu. Thiên Chúa thì vô hạn và chúng ta thì hữu hạn. Điều tự nhiên là tâm trí chúng ta khó hiểu được một hữu thể vô cùng cao hơn chúng ta như thế nào. Tâm trí chúng ta được thiết kế chính yếu để giao tiếp với thế giới mà chúng ta sống trong đó, và trong cuộc đời này chúng ta không gặp được các hữu thể như Ba Ngôi. Điều đó ngoài cảm nghiệm của chúng ta. Ngay cả chúng ta không biết Thiên Chúa thì Ba Ngôi nếu Người không tiết lộ điều ấy (GLCG 237).
Tuy nhiên, Thiên Chúa thiết kế để tâm trí chúng ta hiểu được một số khía cạnh của mầu nhiệm này, và chúng ta có thể thấy rằng ý niệm Ba Ngôi không mâu thuẫn về lý lẽ.
Điều này có thể vì phạm trù hữu thể và phạm trù cá thể (ngôi vị) thì khác nhau – những gì chúng ta có thể thấy trong các sự vật mà chúng ta quen thuộc với chúng (GLCG 40-41). Trong đời sống, chúng ta gặp nhiều hữu thể, hoặc những gì hiện hữu. Một số phi cá nhân (không phải cá thể), tỉ như đất đá, cây cối hay tuyết. Các hữu thể khác là cá thể. Bạn, tôi, và mọi người chúng ta biết là cá thể (ngôi vị). Điều này cho thấy có một sự khác biệt giữa hữu thể và cá thể.
Sự phân biệt này thì quan trọng, vì một số hữu thể thì kém hơn một cá thể, và một số hữu thể thì đúng là một ngôi vị, như vậy không có sự mâu thuẫn trong ý tưởng là một hữu thể mà có nhiều hơn một ngôi vị.
Như vậy Thiên Chúa – đấng tối cao và vì thế là nền tảng của mọi hữu thể - thì ba ngôi vị. Điều này thì khó để hình dung ra trong đời này. Chúng ta không thể cảm nghiệm được Thiên Chúa theo phương cách mà Người sẽ hiện hữu trong đời sau (GLCG 163), nhưng bây giờ chúng ta có thể thấy là không có sự mâu thuẫn.