Được động viên là một quân nhân Đức Quốc Xã để phục vụ quê hương mình, hiển nhiên ông Franz đã từ chối, và người chồng và người cha này của ba cô con gái đã bị hành quyết vì lý do đó.
Sinh ở St. Radegund vùng bên trên nước Áo, Franz mồ côi cha sau Thế Chiến I và được nhận nuôi bởi ông Heinrich Jaegerstaetter kết hôn với bà Rosalia Huber. Khi là thanh niên, anh thích cưỡi xe gắn máy và là người lãnh đạo của một nhóm mà có khi họ bị bắt vì cãi lộn. Trong ba năm, anh làm việc trong các hầm mỏ ở thành phố khác và sau đó trở về St. Radegund, ở đây anh trở thành một nông dân, lấy cô Franziska và âm thầm sống đức tin với lòng tin mãnh liệt.
Năm 1938, ông công khai chống đối việc sát nhập nước Áo vào nước Đức. Năm sau, ông bị động viên vào quân đội Áo, được huấn luyện bảy tháng và sau đó ông trì hoãn. Năm 1940, ông Franz được gọi nhập ngũ lần nữa nhưng lại được phép về nhà theo lời yêu cầu của ông thị trưởng. Ông thuộc thành phần hoạt động từ tháng Mười 1940 và tháng Tư 1941, nhưng lại trì hoãn. Cha xứ của ông, cũng như các linh mục khác, và đức giám mục của Linz khuyên ông đừng từ chối nữa nếu bị động viên.
Vào tháng Hai 1943, ông Franz bị gọi nhập ngũ và trình diện với các sĩ quan ở Enns, nước Áo. Khi ông từ chối thề trung thành với Hitler, ông bị giam ở Linz. Sau này ông tình nguyện phục vụ trong quân y nhưng không được chấp nhận.
Trong Tuần Thánh, ông Franz viết cho vợ: “Lễ Phục Sinh đang đến và, nếu đó là thánh ý Chúa, có thể chúng ta sẽ không bao giờ cử hành lễ Phục Sinh trong vòng thân mật gia đình, chúng ta vẫn vui vẻ tin tưởng mong đợi khi sáng Phục Sinh vĩnh cửu ló dạng, không ai trong gia đình chúng ta bị thiếu – như thế chúng ta có thể được phép cùng nhau hân hoan mãi mãi.” Vào tháng Năm ông bị chuyển vào một nhà tù ở Bá Linh.
Khi luật sư nói với ông rằng các người Công Giáo khác cũng phục vụ trong quân đội, ông Franz trả lời, “Tôi chỉ có thể thi hành theo lương tâm của tôi. Tôi không phán đoán ai. Tôi chỉ phán đoán chính tôi.” Ông nói tiếp, “Tôi đã nghĩ đến gia đình tôi. Tôi đã cầu nguyện và đặt chính tôi cũng như gia đình tôi trong tay Thiên Chúa. Tôi biết rằng, nếu tôi làm những gì mà tôi nghĩ Thiên Chúa muốn tôi làm, Người sẽ lo cho gia đình tôi.”
Vào ngày 8 tháng Tám, 1943, ông Franz viết cho bà Fransizka: “Em yêu dấu, anh hết lòng cảm ơn em một lần nữa vì mọi sự mà em đã làm cho anh trong suốt cuộc đời, vì tất cả những hy sinh mà em đã gánh chịu vì anh. Anh xin em tha thứ cho anh nếu anh đã làm em đau lòng, cũng như anh đã tha thứ tất cả… Anh chân thành cầu chúc cho các con yêu dấu của anh. Chắc chắn anh sẽ xin Thiên Chúa, nếu anh được phép vào thiên đường sớm, là Người sẽ dành một chỗ nhỏ trên thiên đường cho em và các con.”
Vào ngày hôm sau ông Franz bị chặt đầu và hỏa thiêu. Năm 1946, tro của ông được cải táng ở St. Radegund gần một đài kỷ niệm có khắc tên ông và tên của gần 60 dân làng đã chết vì phục vụ trong quân đội. Ông được tuyên chân phước ngày 26 tháng Mười, 2007.
Trong bài giảng lễ tuyên chân phước, ĐHY Saraiva Martins, trưởng Thánh Bộ Tuyên Thánh của Vatican, nói rằng quyết định của Chân Phước Jagerstatter tiêu biểu cho “một thách đố và một sự can đảm” cho tất cả các Kitô Hữu nào muốn “sống đức tin với sự quyết tâm chặt chẽ và triệt để, ngay cả phải chấp nhận những hậu quả cùng cực nếu cần.” Đức tin can đảm của ông là một tấm gương quan trọng cho thời đại ngày nay, khi người ta đối diện với “sự thay đổi và thao túng đức tin cũng như tâm trí, nhiều khi qua các phương kế lừa dối.”