Angela phục vụ Ðức Kitô và những người bé mọn của Ðức Kitô với tất cả sức mạnh của người.
Sinh ở Siepraw, gần Kraków, Ba Lan, người là con thứ 11 của ông bà Bartlomiej và Ewa Salawa. Vào năm 1897, người đến Kraków để sống với người chị Têrêsa. Trong Thế Chiến I, người giúp đỡ các tù nhân chiến tranh bất kể quốc tịch hay tôn giáo. Người thích nghiền ngẫm các văn bản của Thánh Têrêsa Avila và Thánh Gioan Thánh Giá.
Cũng trong thời chiến, người đã hết mình chăm sóc các thương binh của Thế Chiến I. Sau năm 1918, vì lý do sức khoẻ người phải chấm dứt công việc tông đồ này. Trong nhật ký, người tâm sự với Ðức Kitô, “Con muốn Chúa được kính mến nhiều cũng như khi Chúa bị khinh miệt.” Ở chỗ khác, người viết, “Lạy Chúa, con sống bởi thánh ý Chúa. Chết hay sống là tùy thuộc ý Chúa muốn; xin gìn giữ con vì Chúa có thể làm điều ấy.”
Trong lễ phong chân phước năm 1991 ở Kraków, Ðức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nói: “Chính trong thành phố này mà người đã hoạt động, đã chịu đau khổ và đã nên thánh. Trong khi sống theo tinh thần của Thánh Phanxicô, người vẫn đáp ứng một cách phi thường với tác động của Chúa Thánh Thần” (Báo L'Observatore Romano, tập 34, số 4, 1991)
Ðừng bao giờ lầm tưởng sự khiêm hạ với thiếu tự tin, thiếu ý chí và không có hướng đi. Chân Phước Angela đã đem Tin Mừng và sự giúp đỡ vật chất cho một số người “bé mọn” của Ðức Kitô. Sự hy sinh này phải khích động chúng ta hành động tương tự.
Cha Henri de Lubac, dòng Tên, đã viết: “Các Kitô Hữu tốt lành nhất và đầy sức sống nhất thì không thể tìm thấy trong những người khôn ngoan hay tài giỏi, người trí thức hay có đầu óc chính trị, hoặc những người có địa vị xã hội. Bởi đó, những gì họ nói thì không được báo chí để ý đến; những gì họ làm thì công chúng không ai biết. Ðời sống của họ ẩn khuất dưới con mắt thế gian, và nếu họ có được chút gì nổi tiếng, điều đó thường xảy đến cách muộn màng, và rất ngoại lệ, và luôn luôn kèm theo nguy cơ bị bóp méo” (The Splendor of the Church [Sự Huy Hoàng của Giáo Hội], trang 187).