Không thiếu người đã ví Tin Mừng Matthêu và Tin Mừng Luca như là “Tin Mừng về Thánh Giuse” và “Tin Mừng về Đức Maria”. Sự đối chiếu ấy dựa trên nhiều chi tiết, đặc biệt khi so sánh hai cảnh truyền tin của thiên sứ nói ở chương đầu tiên. Tuy nhiên chưa chắc đó là dụng ý của hai thánh sử. Như đã thấy trong mục vừa rồi, có lẽ Thánh Matthêu muốn trình bày Đức Giêsu như là con cháu Đavit, con cháu Abraham, Em-ma-nu-en; còn ông Giuse chỉ là một chứng nhân cho chân lý ấy. Còn dụng ý của hai chương đầu Tin Mừng Luca là gì? Một vài nhà chú giải cho rằng trọng tâm nằm ở chỗ đối chiếu hai nhân vật: Gioan tiền hô và Đức Giêsu, qua cảnh truyền tin (1,5-25 // 26-38) và sinh hạ (1,57-66 // 2,1-21), và liên kết với nhau qua cảnh Đức Maria đi thăm viếng bà Elisabeth (1,39-56). Dù nói thế nào đi nữa, chắc là Luca không hề muốn so sánh Đức Maria với Thánh Giuse. Ở đây, chúng tôi chỉ giới hạn vào việc nghiên cứu vai trò của Thánh Giuse mà thôi.
Trong Tin Mừng Luca, Thánh Giuse không được nổi bật như là trong Tin Mừng Matthêu.
Sau đây là những đoạn văn có liên quan đến ông Giuse:
Hai thánh sử đồng nhất ở vài điểm căn bản liên quan đến đạo lý về việc cưu mang do quyền năng Thánh Thần:
Có nhiều điểm khác biệt giữa hai thánh sử, đôi khi có thể xem như bổ túc cho nhau, nhưng đôi khi xem ra tương phản nhau.
1/ Luca cung cấp vài dữ kiện bổ túc cho Matthêu, chẳng hạn như cuộc giáng sinh của Chúa Giêsu tại Bêlem và các mục đồng đến thờ lạy, việc cắt bì, dâng con trong đền thờ, và việc Hài nhi thất lạc trong đền thờ.
2/ Tuy nhiên, có vài chi tiết xem ra trái ngược với Matthêu và đã gây ra nhiều tranh luận, chẳng hạn như:
Dĩ nhiên, các nhà chú giải Kinh Thánh đã đưa ra nhiều giả thuyết để giải thích những sự khác biệt giữa hai thánh sử. Có lẽ hai vị đã thu thập dữ liệu từ hai nguồn độc lập (Matthêu từ phía ông Giuse, và Luca từ phía Đức Maria). Họ đã không tìm cách trao đổi để kiểm chứng. Cả hai bản văn đã được nhận vào quy điển Sách Thánh. Chúng ta cần chấp nhận tất cả hai bản văn và tìm cách dung hợp các sự khác biệt trong tầm mức có thể.
Chúng ta sẽ bắt đầu khảo sát bản gia phả ở chương 3, rồi sau đó trở lại thứ tự các biến cố nói ở chương 1 và chương 2: truyền tin cho Đức Maria, giáng sinh tại Bêlem, cắt bì, dâng con trong đền thờ, lạc con trong đền thờ.
Giữa hai bản gia phả theo Matthêu và theo Luca, có nhiều sự khác biệt không nhỏ và chắc hẳn không ngoài ý muốn của tác giả.
1/ Bối cảnh
- Tin Mừng Matthêu mở đầu bằng gia phả của Đức Giêsu “con cháu vua Đavit, con cháu tổ phụ Abraham” (1,1). Như đã thấy, xem ra điểm nhấn là Đức Giêsu là con cháu vua Đavit, là đấng Mêsia được hứa cho các tổ phụ. Thứ tự đi từ trên xuống dưới, từ Abraham đến ông Giuse.
- Ở Tin Mừng Luca, bản gia phả được thuật lại ở chương 3, vào lúc Đức Giêsu bắt đầu thi hành sứ vụ, sau khi lãnh phép rửa: “Khi Đức Giêsu khởi sự rao giảng, Người trạc ba mươi tuổi. Thiên hạ tưởng người là con ông Giuse, con ông Hêli, con ông Matthat, vv” theo thứ tự từ dưới lên trên, mãi đến tận ông Ađam.
2/ Chiều dài
Đừng kể thứ tự từ trên xuống (Mt: ông A sinh ông B), hoặc từ dưới lên (Lc: ông A con ông B), điều khác biệt quan trọng là ông Luca lên mãi tới nguyên tổ nhân loại là ông Ađam, “con của Thiên Chúa” (3,38). Như vậy, tầm nhìn của Luca rộng lớn hơn, khi cho thấy Đức Giêsu thuộc về dòng dõi của tất cả loài người, chứ không riêng một dân tộc nào. Điều này không những nằm trong thần học về ơn cứu độ phổ quát, nhưng còn được nêu bật trong bối cảnh mà gia phả được xen vào, nghĩa là tại sông Giorđan. Một đàng ông Gioan Tẩy giả cảnh cáo đồng hương rằng: “Các anh đừng vội nghĩ bụng rằng: ‘Chúng ta đã có tổ phụ Abraham’, vì tôi nói cho các anh hay, Thiên Chúa có thể làm cho những hòn đá này trở nên con cháu ông Abraham” (3,8). Cách đó không xa, khi Đức Giêsu chịu phép rửa thì có tiếng từ trời phán rằng: “Con là Con của Cha; ngày hôm nay, Cha đã sinh ra Con” (3,22). Chân tướng của Đức Giêsu là “Con Thiên Chúa” (Lc 1,35), và điều này quan trọng hơn biệt hiệu “con cháu vua Đavit” hay “con cháu tổ phụ Abraham” nơi ông Matthêu.
- Thánh Luca viết tác phẩm dành cho dân ngoại, vì thế ông không bận tâm đến việc móc nối với những lời hứa dành cho vua Đavit và dân tộc Israel. Tuy nhiên, thánh sử tôn trọng sự thật về Đức Giêsu thuộc dòng dõi vua Đavit. Khi truyền tin cho Đức Maria, thiên sứ nói: “Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng của Đavit, tổ tiên Người” (1,33). Thiên sứ báo tin cho các mục đồng rằng: “Hôm nay, một đấng Cứu độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đavit” (2,11). Cũng vì lý do đó mà ông Giuse cùng với bà Maria phải rời Nazareth về Bêlem để khai tên tuổi (2,4). Bằng cách nào Đức Giêsu thuộc về dòng dõi vua Đavit? Chắc chắn là không phải do họ mẹ (Đức Maria) như sách Tiền Phúc Âm Thánh Giacôbê nghĩ, nhưng là do ông Giuse. Ông Giuse là con cháu vua Đavit (3,23.31) và truyền lại dòng họ này cho Đức Giêsu. Bằng cách nào? Câu trả lời cũng tương tự như ông Matthêu, đó là ông Giuse là chồng của bà Maria, kẻ cưu mang Đức Giêsu do quyền năng của Chúa Thánh Thần.
- Bản gia phả của Matthêu được chia làm ba nhóm, mỗi nhóm 14 đời. Bản gia phả của Luca thì liệt kê 77 hàng tổ tiên lên tới Thiên Chúa. Hẳn là số 77 mang tính cách biểu tượng, chứ làm sao thu thập đầy đủ tên tuổi các bậc tổ tiên của loài người được? 77 là biểu tượng cho cái gì? Có người cho rằng số 77 được ghép bởi hai số 7 kề nhau: số 7 tượng trưng cho sự hoàn thiện; có người tìm cách phân biệt 11 nhóm (3+3+2+3), mỗi nhóm 7 người.
- Trong hai bản danh sách, chỉ có sự trùng hợp từ ông Abraham đến vua Đavit. Sau đó, Matthêu thuật lại hậu duệ vua Đavit từ phía ông Salomon (1 Sbn 3,10-19), còn Luca thì theo ông Nathan (xc. 2Sm 5,14; 1Sbn 3,5). Hai danh sách gặp nhau nơi ông Santiel và Zerubbabel. Nhưng theo Matthêu, từ Salomon đến Santiel có 13 đời và từ Zerubbabel đến Đức Giêsu là 10 đời; theo Luca, từ Nathan đến Santiel có 19 đời và từ Zerubbabel đến Đức Giêsu là 19 đời.
- Tên thân sinh của Thánh Giuse là ông Giacop (Mt) hay Hêli (Lc)? Có lẽ Matthêu muốn móc nối Thánh Giuse với tổ phụ Giuse trong Cựu Ước, do đó thân sinh của cả hai trùng tên với nhau. Còn Luca có lẽ móc nối với vị tư tế Hêli vì liên tưởng đến câu chuyện của bà Anna và cậu Samuel, với nhiều nét tương tự với bà Elizabeth và cậu Gioan. Ngoài ra, theo một cách giải thích từ thời giáo phụ do Eusêbiô Cêsarêa kể lại (Historia Ecclesiastica lib.I, cap.VII), Giacop và Hêli là hai anh em cùng mẹ khác cha: bà Estha lấy ông Matthan (thuộc tộc Salomon) sinh ra Giacop; sau khi ông Matthan chết, bà tái giá với ông Matthat (thuộc tộc Nathan) và sinh ra Hêli. Vì Hêli chết mà không có con, nên Giacop lấy vợ của Hêli (theo luật Levi: xc Mt 22,24) và sinh ra Giuse.
Như đã nói trên đây, Luca không có ý đối chọi cảnh truyền tin cho Đức Maria với cảnh truyền tin cho ông Giuse ở Tin Mừng Matthêu. Đúng hơn, Luca đối chiếu hai cảnh truyền tin được nói trong chương 1, đó là cho ông Zacaria và cho Đức Maria:
Xét về địa vị xã hội, Đức Maria kém ông Zacaria; nhưng xét về lòng tin thì thứ tự đảo ngược. Sự chênh lệch càng lớn hơn nữa khi so sánh bản thân ông Gioan và Đức Giêsu.
Trong cảnh Truyền Tin cho Đức Maria, ông Giuse được nêu đích danh bởi vì “thiên sứ Gabriel đến một thành miền Galilê gọi là Nazareth gặp một trinh nữ đã đính hôn với một người tên là Giuse thuộc nhà Đavit” (1,26-27). Nơi Luca, ta thấy hai dữ kiện trùng hợp với Matthêu: bà Maria đã đính hôn với ông Giuse, và hai người chưa ăn ở với nhau (xc. 1,34). Tuy nhiên, có điểm khác biệt là sau đó Luca không nói gì về phản ứng của ông Giuse. Cho đến ngày lên đường về Bêlem để kiểm tra dân số, Đức Maria vẫn còn trong tình trạng đính hôn (Lc 2,5). Luca không bao giờ gọi Maria là “vợ ông Giuse” như Matthêu (Mt 1,20.24). Tuy nhiên, như chúng ta biết, theo luật Do Thái đương thời, những người đính hôn cũng có những nghĩa vụ pháp lý như những người kết hôn. Lý do của cuộc đính hôn với Giuse đã được nêu rõ khi nói rằng “thuộc nhà Đavit” (1,26), và vì thế sẽ về Bêlem để kiểm tra dân số, tại đây Chúa Cứu thế giáng sinh (2,4.11).
Thoạt tiên câu hỏi của Đức Maria với sứ thần mang tính mâu thuẫn. Tại sao cô đã đính hôn rồi mà còn hỏi: “Việc ấy xảy ra thế nào, vì tôi không biết người đàn ông?” (Lc 1,34). Tuy nhiên, động từ “biết” trong ngôn ngữ Hip-ri được hiểu về việc giao hợp, chứ không phải là biết tên biết tuổi mà thôi. Hai người đã đính hôn, nhưng chưa sống chung với nhau.
Đàng khác, cả hai thánh sử Luca và Matthêu đều trùng hợp ở nội dung căn bản, đó là Đức Maria cưu mang Chúa Giêsu do quyền năng Chúa Thánh Thần (Lc 1,35 // Mt 1,18.20).
Như đã nói trên, Thánh Luca không gọi bà Maria là “vợ” của ông Giuse: đây là điều khác với Matthêu. Mặt khác, Thánh Luca không ngại để cho Thánh Giuse làm “cha” của Đức Giêsu, điều mà Matthêu chỉ hiểu ngậm.
Dù sao, cho đến ngày sinh Chúa Giêsu, Đức Maria vẫn chỉ là người “đính hôn” với ông Giuse (2,5). Tuy nhiên, trong chương hai này, mối tương quan giữa hai người đã được diễn tả như là “vợ chồng” và “cha mẹ” đi đôi với nhau.
Ở câu 7, Luca viết rằng bà Maria sinh “con trai đầu lòng”. Điều này không giả thiết rằng sau đó bà còn sinh nhiều con nữa! Thánh sử nhắc đến việc sinh con trai đầu lòng không chỉ vì muốn ghi nhận một hiện tượng sinh lý của người phụ nữ (lần đầu tiên sinh con) cho bằng dẫn nhập vào một biến cố khác sẽ nói sau, đó là sự dâng con trong đền thờ: “Mọi con trai đầu lòng phải được gọi là của thánh, dành cho Chúa” (2,23).
Việc cắt bì và đặt tên cho Chúa Giêsu chỉ được Luca nói đến trong một câu (2,21) đang khi sự việc tương tự của ông Gioan Tiền hô lại được nói dài hơn (1,59-66).
Thoạt tiên xem ra thánh sử chỉ muốn thuật lại sự kiện này để chứng tỏ cha mẹ của hai hài nhi đều là những người nghiêm túc tuân hành luật lệ (xc. St 17,12tt; Lv 12,3). Tuy nhiên, điều quan trọng nằm ở chỗ đặt tên cho Hài nhi, tên gọi nói lên sứ mạng tương lai. Ở đây chúng ta chỉ chú ý đến việc cắt bì và đặt tên cho Chúa Giêsu mà thôi.
Ai chủ sự việc cắt bì? Thánh Luca không nói, có lẽ vì không quan trọng. Trong lịch sử Do Thái, thường là người cha (chẳng hạn ông Abraham cắt bì cho Isaac: St 21,4), nhưng đôi khi là bà mẹ (Zippora cắt bì cho con của ông Môsê: Xh 4,25), hoặc một người nào khác.
Việc đặt tên mới thực sự là điều chủ yếu trong câu này: “hài nhi được đặt tên là Giêsu; đó là tên mà sứ thần đã đặt trước khi Hài nhi thành thai trong lòng mẹ”. Câu văn được đặt ở thể thụ động, và không rõ ai giữ vai chủ động. Theo Matthêu, thì ông Giuse đặt tên cho Hài nhi (1,21.25). Còn theo Luca, thì việc đặt tên xem ra được thiên sứ giao cho Đức Maria vào lúc truyền tin (1,31), cũng tương tự như việc đặt tên cho Gioan được giao cho ông Zacaria (1,13.63). Tuy nhiên, xét vì cả cha lẫn mẹ (bà Elizabeth: 1,60) đều tham gia vào việc đặt tên cho Gioan, ta có thể suy đoán rằng việc đặt tên cho Chúa Giêsu cũng có sự tham gia của “hai ông bà”, theo như mạch văn của toàn thể chương hai, mà chúng ta đã có dịp nhận xét. Xem ra vấn đề người chủ sự việc đặt tên không quan trọng cho bằng việc tuân hành một chỉ thị từ trời.
Nên lưu ý là Luca không giải thích ý nghĩa của tên “Giêsu” như là Matthêu (1,21: “Thiên Chúa cứu dân Người khỏi tội lỗi”).
Các nhà chú giải đã ghi nhận một chi tiết khác thường trong trình thuật này, khi Luca viết rằng “khi đã đến kỳ thanh tẩy của họ theo luật Môsê, bà Maria và ông Giuse đem con lên đền thờ Giêrusalem”. Tại sao nói đến sự thanh tẩy của họ, nghĩa là của hai ông bà, trong khi luật thanh tẩy của Môsê chỉ ràng buộc bà mẹ (Lv 12,1-8)?
Có ý kiến cho rằng trong Tân Ước (bằng tiếng Hy-lạp), danh từ “thanh tẩy” (katharismos) bao hàm một nội dung rộng rãi (Mc 1,44; Lc 5,14; Ga 2,6; 3,25; Dt 1,3; 2 Pr 1,9), chứ không chỉ giới hạn vào lễ thanh tẩy dành cho các bà mẹ sau khi sinh con. Do đó, ở đây Thánh Giuse cũng tham gia vào sự thanh tẩy, nghĩa là thi hành các nghi thức luật định. Một cách cụ thể, trong đoạn văn này hai ông bà lên đền thờ để thi hành những điều mà luật Chúa truyền (2,23.24.27.39), trong đó có việc tiến dâng con trai đầu lòng và chuộc lại (Xh 13,1.11tt). Nên lưu ý là có lẽ chính hai ông bà chủ sự việc tiến dâng (Lc 2,27), chứ không phải là ông Simeon. Ông này xuất hiện sau đó; ông bế hài nhi và chúc tụng Thiên Chúa.
Như đã nhận xét trên đây, trong trình thuật này, Luca nói đến Thánh Giuse và Đức Maria không những qua đại danh từ ở số nhiều (Họ = hai ông bà) nhưng còn xác định là “cha mẹ của hài nhi”: khi thi hành việc tiến dâng (2,27), khi được nghe những lời chúc tụng của ông Simeon (2,33).
Thánh Luca trình bày Đức Maria và Thánh Giuse không chỉ như những người giáo dục nhân bản cho Đức Giêsu, mà còn như là tấm gương trong việc tuân hành Luật Chúa: hai ông bà đã lên đền thờ dâng tiến con trai đầu lòng theo luật (2,22.39) ; hằng năm hai ông bà lên đền thờ dự Lễ Vượt Qua theo như luật định (2,41). Khi Đức Giêsu lên 12 tuổi, xảy ra sự cố là cậu ở lại trong đền thờ sau ngày lễ mà không báo trước cho cha mẹ.
Cuộc đối thoại giữa Đức Giêsu và mẹ Maria đã cho thấy những mối liên lạc đan chéo trong gia đình Nazareth.
Thánh sử Luca nhận xét rằng “họ” (= hai ông bà) không hiểu lời của Chúa Giêsu, nhưng rồi cũng thêm rằng, “Người đi xuống cùng với họ, trở về Nazareth và hằng vâng phục họ”.
Như vậy, một đàng ta thấy rằng ông Giuse và bà Maria là “cha mẹ” của Đức Giêsu; nhưng Đức Giêsu còn có một Cha khác. Tuy nhiên, dù Đức Giêsu là “Con Thiên Chúa” (đã được nói trước ở 1,35), nhưng Người cũng phục tùng những kẻ giữ cương vị của cha mẹ trong gia đình.
Chương hai kết thúc với thời gian ẩn dật của Chúa Giêsu ở Nazareth cho tới khi hoạt động công khai. Tại đây, Đức Giêsu hấp thụ nền giáo dục nhân bản và đạo đức “ngày càng lớn lên, thêm vững mạnh, đầy khôn ngoan, và hằng được ân nghĩa cùng Thiên Chúa” (2,39).
Trong Tin Mừng Luca, vai trò của Thánh Giuse không nổi bật như trong Tin Mừng Matthêu. Thánh Giuse là một nhân vật thầm lặng bên cạnh Đức Maria; tuy nhiên, sự hiện diện của ông không phải là dư thừa, bởi vì ông cũng góp phần vào việc thực hiện ý định của Thiên Chúa: khi về Bêlem để kiểm tra dân số, khi thi hành việc cắt bì và đặt tên cho Hài nhi, khi dâng tiến Hài nhi trong đền thờ, khi nuôi nấng dưỡng dục Hài nhi ở Nazareth. Ông đáng được hưởng lời chúc phúc dành cho kẻ “lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa” (Lc 11,27).
Chúng ta nên ghi nhận vài dụng ngữ của Thánh Luca khi bàn về những mối tương quan của Thánh Giuse.
1/ Với Đức Maria. Thánh Luca chỉ nói rằng Đức Maria là một trinh nữ đính hôn với ông Giuse, kể cả vào lúc về Bêlem. Tuy nhiên, trong suốt chương hai, Luca nhiều lần nói đến sự liên lạc chặt chẽ giữa hai người khi dùng chủ từ ở số nhiều, -- “họ” (hai ông bà) -: trong thời kỳ về Bêlem làm kiểm tra, lúc Chúa ra đời, khi đem con lên đền thờ để tiến dâng hay để dự lễ Vượt Qua.
2/ Với Đức Giêsu. Khi nói đến việc lên đền thờ dự lễ, Thánh Luca viết rằng: “hằng năm cha mẹ của Người lên đền thờ” (Lc 2,41). Khi tìm lại Đức Giêsu, Đức Maria nói: “Này cha của con và mẹ (= tôi) phải cực lòng tìm con” (Lc 2,48). Như vậy, ở trong gia đình Nazareth, ông Giuse vẫn cư xử với Đức Giêsu như một người cha. Tuy nhiên, Đức Giêsu cũng lưu ý rằng mình còn có một Cha lớn hơn (Lc 2,49). Thánh Giuse biết rằng Đức Giêsu không sinh ra do sự giao hợp thể lý, và thi hành chức vụ làm cha trong sự tôn trọng mối liên hệ độc nhất của Đức Giêsu với Chúa Cha. Nhưng, những người ngoài gia đình, bởi vì họ không biết đến chuyện cưu mang khác thường, cho nên họ vẫn nghĩ rằng Đức Giêsu là “con của ông Giuse” (Lc 3,23).
Dù sao đi nữa, bên cạnh vấn đề “danh chính ngôn thuận”, Thánh Luca đã nhìn nhận nhiều trách nhiệm của ông Giuse.