Thiên Chúa nói với Thánh Catarina: “Khi linh hồn này đi qua các giảng dạy của Đức Kitô chịu đóng đinh, với sự chân thật yêu mến nhân đức và ghét bỏ các tật xấu, và đến được căn nhà tự biết mình, nó ở lại đó với cánh cửa khép lại, đắm chìm trong sự cầu nguyện liên tục, hoàn toàn tách biệt khỏi những tiện nghi thế gian. Nó làm điều này vì sợ, biết mình có những bất toàn, và vì ao ước đạt được tình yêu tinh tuyền và độ lượng. Hiểu rằng không có cách nào khác có thể dẫn nó đến tình yêu này, với đức tin sống động, nó chờ Ta đến qua sự gia tăng ơn sủng trong chính nó.
Làm thế nào người ta có thể nhận ra đức tin sống động? Bởi kiên trì trong nhân đức và sự kiện rằng linh hồn này, bất kể điều gì xảy ra, không bao giờ quay lại, cũng không vươn lên từ sự cầu nguyện thánh thiêng vì bất cứ lý do gì khác hơn là vâng phục hay bác ái. Không vì lý do gì khác nó phải bỏ cầu nguyện, vì Quỷ thường tấn công linh hồn nhiều hơn trong khi cầu nguyện, cố làm cho linh hồn chán ngán bởi gợi ý rằng sự cầu nguyện của nó thì vô ích. Quỷ nhắm làm cho linh hồn mệt mỏi và mơ hồ, hy vọng nó sẽ bỏ cầu nguyện, mà cầu nguyện là vũ khí bảo vệ khi được ôm ấp với tình yêu, sự tự do lựa chọn, và ánh sáng của đức tin thánh thiện.”
“Hỡi con gái yêu quý, hãy biết rằng qua sự cầu nguyện khiêm tốn, liên tục, và trung thành, linh hồn có được mọi nhân đức qua thời gian và sự kiên trì. Nó không bao giờ được bỏ cầu nguyện, bất kể những ảo tưởng của Quỷ hay chính sự yếu ớt của nó, dù là một ý nghĩ hay một cử động thân xác, hay lời nói của người khác. Quỷ thường nói qua người khác để làm sao nhãng linh hồn khi cầu nguyện. Tất cả điều này phải được làm ngơ với nhân đức kiên trì. Lời cầu nguyện thánh thiện, được thực hiện trong sự biết mình và biết Ta, mở trí tuệ cho đức tin và những tình cảm cho lòng bác ái của Ta, được thấy hiển nhiên qua Máu của Con Ta. Máu này làm mê mẩn linh hồn và khoác cho nó đức ái của Thiên Chúa, đấng cấp cho thực phẩm Bí Tích này, được ban phát bởi linh mục của Ta.
Bí tích này củng cố người nhận theo sự khao khát của họ, dù họ lãnh nhận về phương diện bí tích hay thiêng liêng. Về bí tích, họ lãnh nhận trong khi Rước Lễ thực sự. Về thiêng liêng, họ lãnh nhận qua sự ao ước Rước Lễ và chiêm niệm về Máu Chúa Kitô đã đổ ra qua tình yêu như linh hồn nhìn thấy. Quang cảnh này làm mê mẩn linh hồn với ao ước thánh thiện, đổ tràn linh hồn với tình yêu dành cho Ta và cho tha nhân. Điều này đạt được qua sự biết mình và lời cầu nguyện thánh thiện, là nơi sự bất toàn bị mất, như Phêrô và các môn đệ, khi canh thức và cầu nguyện, đã mất sự bất toàn và có được sự toàn hảo.
Tuy nhiên, chỉ cầu nguyện bằng lời mà không có tâm nguyện thì không đủ. Nhiều linh hồn hát Thánh Vịnh và cầu nguyện một cách máy móc, chú ý đến việc chu toàn hơn là nâng tâm trí mình lên trong tình yêu của Ta. Tuy lời cầu nguyện thì quan trọng, nó phải được hợp nhất với tâm nguyện, lưu tâm đến khuyết điểm của chính mình và sự tốt lành của Ta. Sự hợp nhất này dẫn đến sự khiêm tốn đích thực và tránh sự mơ hồ do Quỷ gây ra. Linh hồn phải nâng tâm trí lên với sự hiểu biết về lòng thương xót của Ta và đừng tuyệt vọng.
Con cũng cảm nghiệm những cám dỗ của Quỷ để đánh bại con qua sự mơ hồ và kiêu hãnh, nhưng con đã khiêm tốn vươn lên, tín thác vào sự thương xót của Ta. Khi Quỷ cố làm con mơ hồ, hãy tín thác vào lòng thương xót của Ta và nhìn nhận tội lỗi của con, ẩn giấu trong các thương tích của Chúa Kitô. Quỷ không thể chống lại người nào khiêm tốn hy vọng vào sự thiện hảo của Ta. Linh hồn phải kết hợp sự biết mình với sự thiện hảo của Ta, và lời cầu nguyện sẽ hữu ích và vui lòng Ta, dẫn đến tâm nguyện toàn hảo.”
“Tình yêu tuyệt hảo thì đạt được qua sự kiên trì, hạn chế bản thân trong Nhà Tự Biết Mình, có kinh nghiệm hiểu biết về Ta. Sự hiểu biết này ngăn ngừa sự mơ hồ, dẫn đến việc ghét bỏ ý riêng và sự khoái cảm, và từ sự khiêm tốn này, rút ra sự kiên nhẫn, làm vững mạnh linh hồn chống với những tấn công của Quỷ và sự bách hại của con người. Khi Ta lấy đi sự vui thích vì tốt cho linh hồn, nó không được để nhục dục tràn lấp lý lẽ nhưng phải vươn lên với sự phán đoán của lương tâm chống lại điều đó. Ngay cả những lương tâm tinh tuyền như T. Grêgôriô nhận ra tội ở nơi không có, cho thấy tiêu chuẩn tinh tuyền cao của họ.
Linh hồn phải đợi sự Quan Phòng của Ta với ánh sáng đức tin, như các môn đệ xưa, họ ăn chay và canh thức, với sự cầu nguyện khiêm nhường và liên tục cũng như thực sự ao ước. Khi linh hồn đón nhận Ta với lửa bác ái, nó vượt trên những cảm xúc đam mê và cùng tham dự trong sự khôn ngoan của Con Ta, nhận biết Chân Lý của Ta và những dối trá của sự yêu mình. Sau đó linh hồn tiếp tục trưng ra các nhân đức cho tha nhân, mà không mất đi sự biết mình. Tình yêu hoàn hảo đối với Ta và tha nhân không thể hiện hữu mà không có lẫn nhau.”
“Tình yêu hoàn hảo được nhận biết bởi cùng một dấu hiệu được ban cho các môn đệ sau khi nhận được Chúa Thánh Thần: họ loan truyền Lời Ta mà không sợ hãi. Tương tự, linh hồn, sau khi biết mình và kiên trì, đón nhận Ta với lửa bác ái, cùng tham gia trong sức mạnh của Ta, và chiến thắng các đam mê của nó. Sau đó linh hồn này tiếp tục trưng ra các nhân đức, không từ bỏ sự biết mình nhưng không sợ bị mất những an ủi thiêng liêng của mình.
Những linh hồn mà đến được đức ái hoàn hảo và trưng ra các nhân đức, thì đạt được sự kết hợp hoàn hảo với Ta. Sự kết hợp tình yêu Thiên Chúa và tha nhân biểu hiện tình trạng cao nhất của sự hoàn hảo.”
“Phaolô đã cảm nghiệm và nếm thử vinh quang Thiên Chúa khi Ta thu hút nó vào tầng trời thứ ba, đi vào chiều cao của Ba Ngôi. Ở đó, nó trọn vẹn đón nhận Chúa Thánh Thần và hiểu rõ Chân Lý của Ta, là Ngôi Lời Nhập Thể. Linh hồn của Phaolô, qua cảm giác và sự kết hợp, được bao trùm trong Ta, Cha Vĩnh Cửu, rất giống như các linh hồn được chúc phúc trong Sự Sống Vĩnh Cửu, mặc dù linh hồn của nó không tách rời khỏi thân xác. Tuy nhiên, trong Sự Thiện Hảo của Ta, Ta làm cho nó trở nên một máng chuyển được chọn, yêu cầu nó phải đau khổ vì danh Ta. Ta đặt trước trí tuệ nó Đức Kitô bị đóng đinh, khoác cho nó giáo lý của Người, và cột nó với sự nhân từ của Chúa Thánh Thần, nung nấu nó với lòng bác ái. Phaolô trở nên một máng chuyển đã đổi mới của Sự Thiện Hảo của Ta, ngoan ngoãn chấp nhận thánh ý của Ta và ao ước muốn biết và thi hành những gì Ta muốn.”
“Khi Ta rời khỏi linh hồn để cho phép thân xác trở lại tình trạng tự nhiên, linh hồn này, vì đã được cảm nghiệm sự hợp nhất với Ta, trở nên thiếu kiên nhẫn trong đời sống, nó khao khát được hợp nhất với Ta và tập thể những Người Bất Tử mà họ tôn vinh Ta. Linh hồn này không thể chịu nổi đời sống trần gian khi thấy loài người xúc phạm đến Ta một cách đáng thương. Hình ảnh xúc phạm đến Ta, cộng với khao khát được nhìn thấy Ta, làm cho đời sống của họ không thể chịu được. Tuy nhiên, một khi ý muốn của họ phù hợp với thánh ý của Ta, họ chấp nhận ở trong tình trạng này nếu Ta muốn, để danh Ta được vinh hiển và các linh hồn được cứu độ. Họ sống trong khao khát xuất thần, được mặc lấy Đức Kitô đóng đinh, và tuân giữ giáo lý của Người, họ vui lòng chịu đau khổ. Với họ, những hoạn nạn là một sự khuây khỏa khỏi ao ước muốn chết, và họ sợ không được thưởng vì những hy sinh của họ. Khi ta cho phép hoạn nạn xảy ra cho họ, họ vui mừng, nhìn thấy chính họ được mặc lấy những đau khổ và sỉ nhục của Đức Kitô. Được nung nấu bởi lửa bác ái của Ta, họ ưa thích vác Thánh Giá với Đức Kitô, ngay cả nó có nghĩa đau đớn, thay vì một lối dễ dàng đến Sự Sống Đời Đời.”
“Với sự sáng này, Tôma Aquinas và các thánh cũng như các tiến sĩ khác đã nhìn thấy và đã hiểu Chân Lý của Ta, làm sáng tỏ sự mơ hồ của Kinh Thánh. Kinh Thánh dường như mơ hồ bởi vì không được hiểu đúng, không vì lỗi của Kinh Thánh, nhưng của những người nghe. Ta ban cho sự sáng này để soi sáng sự hiểu biết mù quáng và thô thiển, nâng trí tuệ lên để biết Chân Lý. Sự sáng này thì siêu nhiên, được ban qua ơn sủng, giúp chúng nhìn thấy Chân Lý trong sự mơ hồ. Các ngôn sứ và các giáo phụ đã tiên báo sự ngự đến và sự chết của Con Ta, và các Tông Đồ, sau khi nhận được Chúa Thánh Thần, đã nhận được sự sáng siêu nhiên này. Các nhà truyền giáo, các tiến sĩ, các giáo sư, các trinh nữ, và các người tử đạo, tất cả được soi sáng bởi sự sáng này, mỗi người tùy theo sự cần thiết cứu độ của họ hoặc để dẫn giải Kinh Thánh. Những ai kiêu căng về kiến thức của mình, vì thiếu sự sáng này, chỉ hiểu nghĩa chữ của Kinh Thánh và kêu ca về sự mơ hồ của sách. Chúng vẫn mù quáng trước sự Thiện Hảo và ơn sủng của Ta, chỉ thấy bóng tối thay vì ánh sáng.
Tốt hơn hãy tìm kiếm sự khuyên bảo của một lương tâm khiêm tốn, thánh thiện thay vì một người học thức, kiêu căng. Các tôi tớ của Ta, được ngập tràn sự sáng này, đem ơn cứu độ cho các linh hồn đói khát. Tình trạng hợp nhất hoàn hảo này, được soi sáng bởi lửa bác ái của Ta, dẫn đến Thị Kiến Vĩnh Cửu về Ta. Tình trạng này, đạt được trong khi vẫn ở trong xác phàm, cho phép linh hồn nếm thử hạnh phúc của sự bất tử, được kết hợp với Ta, và vì ý riêng của họ đã chết với Đức Kitô, mà ý riêng đó chắc chắn đem đến con người sự đọa đầy, nếu nó nhượng bộ.”
Thánh nữ, ngập tràn sự khao khát và say mê hợp nhất với Thiên Chúa, bị sầu khổ vì sự lãng quên của các tạo vật họ đã không biết đến Ân Nhân của mình. Chị thấy vui bởi hy vọng vào lời Thiên Chúa hứa với chị, dạy chị cách chuyển hướng ý muốn của mình cho sự thương xót thế gian. Chị nâng đôi mắt trí tuệ lên Chân Lý ngọt ngào, tìm kiếm sự hiểu biết về các tình trạng của linh hồn và lý do để khóc. Với khao khát và đức tin lớn lao, chị đưa thỉnh cầu lên Đấng Chân Lý Vĩnh Cửu.
Chân Lý Tối Cao và Dịu Dàng của Thiên Chúa trả lời, “Ôi con gái yêu dấu, con tìm sự hiểu biết của lý lẽ và những hoa quả của nước mắt, và Ta không khinh miệt sự ao ước của con. Hãy mở đôi mắt trí tuệ của con, và Ta sẽ cho con thấy những nước mắt bất toàn gây ra bởi sợ hãi, bắt đầu với nước mắt của người độc ác. Đây là những nước mắt của sự luận phạt. Loại thứ nhất là nước mắt sợ hãi, thuộc về những ai từ bỏ tội lỗi vì sợ hình phạt. Loại thứ hai là những ai, đã từ bỏ tội lỗi, bắt đầu phục vụ và nhận biết hương vị của Ta, họ khóc vì cảm thấy sự ngọt ngào. Loại thứ ba là nước mắt của những ai đã đạt đến tình yêu tha nhân hoàn hảo, họ yêu mến Ta mà không quan tâm đến chính họ. Đây là những nước mắt hoàn hảo. Loại thứ tư được kết hợp với loại thứ ba và là những nước mắt ngọt ngào và bình an lớn lao. Loại thứ năm là nước mắt nung nấu, mà không chảy nước mắt, đáp ứng với những ai muốn khóc nhưng không thể. Tất cả những ơn huệ này có thể hiện hữu trong linh hồn, họ vươn lên từ sự sợ hãi và tình yêu bất toàn, đạt đến tình yêu hoàn hảo trong trạng thái kết hợp.”
“Ta muốn con hiểu rằng mọi nước mắt xuất phát từ tâm hồn, vì không có chi thể nào khác có thể biểu lộ sự muộn phiền của tâm hồn như đôi mắt. Nếu tâm hồn đau khổ, đôi mắt sẽ tiết lộ điều ấy. Khi sự đau đớn thuộc xác thịt, đôi mắt nhỏ lệ đau đớn gây ra sự chết, vì chúng phát xuất từ một tình yêu lệch lạc xúc phạm đến Ta. Những nước mắt này, sinh ra từ sự đau khổ chết người, thay đổi theo tội và sự đau khổ của chúng phụ thuộc vào mức độ tình yêu lệch lạc. Những điều này tạo thành loại đầu tiên – nước mắt sự chết – mà Ta đã nhắc đến ở trên và sẽ đề cập lại nữa.
Bây giờ, hãy lưu ý đến những nước mắt mà nó ghi dấu khởi đầu sự sống – của những ai nhận biết tội của mình, họ khóc vì sợ hình phạt chúng gây ra. Những nước mắt này vừa chân thật và vừa đa càm bởi vì linh hồn này chưa đạt được sự ghét bỏ tội lỗi cách trọn, mà chỉ vì sự sợ hãi hình phạt. Khi linh hồn luyện tập nhân đức, nó bắt đầu mất đi sự sợ hãi, vì nhận biết rằng chỉ sự sợ hãi thôi thì không thể được ban cho sự sống đời đời. Nhận thức này dẫn linh hồn đến sự biết mình và sự thiện hảo của Ta, đổ đầy tâm hồn nó với hy vọng và niềm vui. Sự trộn lẫn muộn phiền và hy vọng khiến nước mắt tuôn trào từ tâm hồn.
Tuy nhiên, vì linh hồn chưa đạt được sự hoàn hảo lớn lao, nó thường chảy nước mắt đa càm. Điều này xảy ra vì gốc rễ của sự yêu mình – giờ đây thuộc về tinh thần hơn xác thịt – khao khát những an ủi tinh thần hoặc yêu mến một số tạo vật về mặt tinh thần. Khi bị lấy đi sự an ủi nội tâm hay ngoại tại, hay đối diện với sự cám dỗ và bách hại, tâm hồn buồn sầu, và mắt đổ lệ với nỗi buồn dịu dàng, cho thấy sự đam mê tinh thần. Tuy nhiên, khi linh hồn lớn lên trong sự biết mình, nó phát triển sự ghét bỏ chính mình cách trọn vẹn và thực sự biết đến sự tốt lành của Ta, dẫn đến một sự kết hợp sâu đậm với Ta.
Trong trạng thái này, linh hồn nhỏ lệ với tình yêu chân thành và nồng nhiệt dành cho Ta và tha nhân, không vì những hình phạt hay những mất mát của chính nó. Nó chú trọng đến việc vinh danh Ta, vui vẻ chấp nhận sự đau khổ của Thánh Giá. Đi theo giáo lý của Con Ta, linh hồn chịu đựng đau khổ với sự kiên nhẫn và hân hoan, tìm thấy niềm vui trong sự bách hại vì Danh Ta. Điều này dẫn đến sự yên bình và hợp nhất với Ta, Chân Lý Tối Cao. Với trí tuệ đăm chiêu nhìn đến Ta, linh hồn nhận biết và yêu mến Chân Lý, hướng mọi tình cảm đến đó, nếm được hương vị Thần Tính Vĩnh Cửu và sự kết hợp của Thiên tính và nhân tính.
Khi nghỉ yên trong Ta, Biển Thái Bình, linh hồn tìm thấy sự hòa hợp và tình yêu, cảm được những nước mắt ngọt ngào – nước mắt giống như sữa bổ dưỡng, thơm và ngọt. Linh hồn này, khi đã vượt qua sông bởi giáo lý của Con Duy Nhất Ta, nó được hưởng giai đoạn cuối cùng của hạnh phúc và buồn sầu. Nó được hạnh phúc bởi kết hợp với Ta và buồn sầu vì những xúc phạm đến sự thiện hảo của Ta. Tuy nhiên, sự buồn sầu này không ngăn cản tình trạng hòa hợp nhưng lại gia tăng, dẫn đến những nước mắt ngọt ngào qua sự biết mình và tình yêu tha nhân.
Trong tình yêu tha nhân, linh hồn nhận ra rằng nó không thể trực tiếp đền ơn Ta vì tình yêu của Ta nhưng có thể làm như thế qua sự phục vụ các tạo vật của Ta, yêu thương họ cách chân thành vì Danh Ta. Như thế, nó chu toàn giới răn yêu mến Ta trên hết mọi sự và yêu thương tha nhân như chính mình. Sự chu toàn đích thực lề luật của Ta đòi hỏi phải yêu mến tha nhân, mà nó củng cố nhân đức của linh hồn và tình trạng hòa hợp. Linh hồn phải tiếp tục thực hành tình yêu này, tránh sự tự phụ và nuôi dưỡng sự phát triển tình yêu trong nhân đức.”
“Năm tình trạng nước mắt, giống như năm con sông chính, có giá trị vô cùng nếu được luyện tập trong nhân đức. Giá trị của chúng không nằm trong sự khóc lóc có hạn nhưng trong khao khát vô hạn của linh hồn mà từ đó chúng phát sinh ra. Những nước mắt đến từ sự khao khát bừng cháy của linh hồn, rất giống như củi xanh phát ra hơi nước rên xiết trên ngọn lửa. Linh hồn này, được đổi mới bởi ơn sủng, phối hợp khao khát bừng cháy với nước mắt. Sự khao khát này, không bao giờ bù đắp đầy đủ, làm linh hồn gia tăng tình yêu hơn nữa.
Ngay cả sau khi đạt đến Ta, sự khao khát của linh hồn vẫn còn, dù không còn đau khổ. Sự khao khát và tình yêu vô tận này tiếp tục mãi mãi, biến nước mắt thành một biểu lộ của lửa Chúa Thánh Thần. Linh hồn này, chiếm hữu Ta, vẫn khao khát và yêu mến không cùng, bây giờ không còn những nước mắt thể lý nhưng dồi dào trong kết quả tinh thần của những nước mắt ấy. Như thế, những nước mắt ở đời này thì có giá trị vô cùng vì sự khao khát vô hạn của linh hồn.
Trong phương cách này, Ta, Thiên Chúa Vô Hạn, muốn được phục vụ với sự trìu mến và khao khát vô cùng. Những nước mắt trở thành vô hạn qua phương thức khao khát vô hạn. Khi linh hồn lìa khỏi xác, nước mắt vẫn còn, nhưng sự trìu mến của tình yêu thiêu hủy kết quả của nước mắt, rất giống như nước bốc hơi trong một lò lửa. Linh hồn này, được kết hợp với bác ái thánh thiêng của Ta, tiếp tục dâng cho Ta những khao khát hạnh phúc của nó, giờ đây được biến đổi thành lửa của Chúa Thánh Thần. Điều này giải thích giá trị vô cùng của nước mắt và những buồn sầu khác nhau gây ra chúng.
Năm trạng thái nước mắt này, nằm trong bốn giai đoạn của linh hồn, có giá trị vô hạn nếu được luyện tập trong nhân đức. Giá trị của chúng được xuất phát từ sự khao khát vô hạn của linh hồn, nói lên sự trìu mến và tình yêu của nó dành cho Ta. Những nước mắt, một kết quả của sự khao khát bừng cháy của tâm hồn, biểu thị sự khao khát và tình yêu vô hạn của linh hồn, nó kéo dài ngay cả sau khi linh hồn lìa khỏi xác. Do đó, nước mắt ở đời này có giá trị vô hạn qua sự khao khát vô hạn của linh hồn muốn phục vụ Ta, Thiên Chúa Vô hạn, với sự trìu mến và thành tâm.”
Người đời chảy nước mắt khi họ mất điều gì đó mà họ yêu quý. Những nước mắt này phát sinh từ sự buồn sầu của tâm hồn, có gốc trong sự yêu mình, dẫn đến sự thiệt hại về thể xác cũng như tinh thần. Nước mắt trần thế phát sinh từ nhiều loại tình yêu lệch lạc và những hành vi đồi trụy. Những nước mắt này cho thấy một cái cây ích kỷ, sinh trái chết, hoa thối rữa, và những hành động nguy hại. Những hành động được thi hành trong một tình trạng tội trọng thì không có giá trị cho sự sống vĩnh cửu, nhưng ngay cả những hành động như thế thì được thưởng tạm thời hoặc kéo dài qua thời gian để ăn năn hối lỗi.
Những bông hoa của sự ích kỷ bao gồm những ý nghĩ suy đồi và những phán đoán chống với Thiên Chúa và tha nhân. Những phán đoán như thế phát sinh từ sự kiêu căng và ngu dốt, dẫn đến những hành động thiệt hại cho chính họ và người khác. Những lời của họ, đầy những nguyền rủa và báng bổ, lan tràn sự hận thù và bất hòa, gây nên những bạo động và tàn phá.
Bảy nhánh tội trọng rủ xuống trái đất, tượng trưng cho bảy tội chết người. Những tội này phát sinh từ sự ích kỷ và kiêu căng, dẫn đến sự bất mãn không cùng. Con người, được dựng nên cho một mục đích cao hơn, chỉ có thể tìm thấy sự mãn nguyện trong Thiên Chúa. Không có điều này, họ sống trong sự giày vò không ngừng, nước mắt và sự buồn sầu của họ được khuấy động bởi sự ích kỷ.